VIỆN HÀM LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÀI TIỂU LUẬN CUỐI KHÓA
LỚP BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC TƯ VẤN CHO GIÁO
VIÊN LÀM CÔNG TÁC TƯ VẤN CHO HỌC SINH Ở
TRƯỜNG PHỔ THÔNG
LỚP A – TỈNH TUYÊN QUANG
DANH SÁCH CÁC THÀNH VIÊN TRONG NHÓM 9
STT
Họ và tên
Đơn vị công tác
1 Nguyễn Hồng Sơn
Trường THCS Bạch Xa
2 Phạm Thị Trình
PTDTBT THCS Yên Thuận
3 Đặng Thanh Tùng
PTDTBT THCS Minh Khương
4 Đỗ Thị Vinh
PTDTBT THCS Hùng Đức
5 Ma Thị Viết
THCS Minh Dân
6 Bùi Thị Giang Hương THCS Phù Lưu
7 Nguyễn Anh Sơn
THCS Tân Loan
8 Chu Hồng Quảng
THCS Bình Xa
9 Bùi Thị Lan
THCS Minh Quang
10 Hà Tuấn Sáng
THCS Minh Tiến
11 La Thị Thiệp
THCS Yên Hương
I. Đặt vấấn đềề.
I. Đặt vấấn đềề.
Tuyên Quang, tháng 10 năm 2019
Giao tiếp là hoạt động không thể thiếu đối với con người nói chung và học sinh
THCS nói riêng. Giao tiếp có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống cũng như sự
phát triển của học sinh THCS: trong giao tiếp, mỗi học sinh vừa là nguồn phát ra
thông tin, vừa là nơi tiếp nhận thông tin. Thu nhận và xử lý thông tin là con
đường quan trọng để hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách. Qua giao
tiếp, các em thiết lập và vận hành được mối quan hệ với bạn, với thầy cô, nhờ
vậy mà tìm được sự bình yên trong đời sống tình cảm để vượt qua những khó
khăn trong cuộc sống nhà trường, đặc biệt là trong học tập. Hơn thế, nhờ giao
tiếp, các em hiểu nhau, có được những ấn tượng tốt về nhau qua đó có tình cảm
với nhau. Giao tiếp góp phần to lớn trong việc hình thành và phát triển khả năng
hợp tác, tinh thần cộng đồng trách nhiệm để hoàn thành những nhiệm vụ chung
của tổ, tập thể lớp...
Tuy nhiên, do đặc điểm lứa tuổi, phạm vi giao tiếp của học sinh THCS thường
hẹp. Các em chủ yếu quan hệ với những người thân trong gia đình, bạn bè cùng
xóm phố; với bạn cùng tổ, cùng lớp và với thầy cô giáo phụ trách lớp. Nội dung
giao tiếp của các em thường xoay quanh việc học tập, vui chơi, sinh hoạt tập thể,
trao đổi về sách báo, "bàn luận" về những điều xảy ra trong cuộc sống thực của
các em. Nhìn chung, giao tiếp của các em còn đơn giản và mang tính chất cảm
xúc.... Đây là những vấn đề mà học sinh nói chung và học sinh THCS nói riêng
đã và đang vướng mắc cần sự trợ giúp của người khác.
Nước ta trong quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, chúng ta đã có
được những thành tựu bước đầu trong kinh tế và công tác chăm sóc sức khỏe thể
chất và tinh thần cũng như các chính sách xã hội cho người dân. Tuy nhiên, vấn
đề sức khoẻ tâm lí vẫn chưa được quan tâm theo đúng nghĩa của nó, nhất là sức
khoẻ tâm lí của học sinh nói chung và học sinh THCS nói riêng - lứa tuổi cần
được xã hội đặc biệt quan tâm chăm sóc và bảo vệ. Trong khi đó, do sức ép của
thời kì hội nhập, của sự thay đổi các giá trị sống từ xã hội truyền thống sang hiện
đại, sức ép của các mối quan hệ xã hội ngày càng phức tạp, sức ép của các thông
tin ngày càng phong phú, biến động, đa chiều và trên hết là sức ép của toàn xã
hội đối với việc học tập, tu dưỡng của thanh thiếu niên trong thời đại mới, đã dẫn
đến một bộ phận không nhỏ học sinh rơi vào các trạng thái dồn nén, căng thẳng,
lo âu, thậm chí rối loạn tâm lí. Nhu cầu được chia sẻ, được hướng dẫn, giải toả
và được chăm sóc về tâm hồn của học sinh em học sinh, tức là nhu cầu tham vấn
tâm lí cho các em đã và đang trở thành vấn đề hiện hữu, mang tính phổ biến và
bức xúc trước toàn xã hội.
Để đáp ứng nhu cầu tham vấn- tư vấn tâm lí của học sinh nói chung và học sinh
THCS nói riêng, trợ giúp các em khắc phục những khó khăn tâm lí của mình
trong học tập, quan hệ, ứng xử và tu dưỡng, ở nhiều tỉnh, thành phố trong cả
nước đã xuất hiện các hoạt động tham vấn dưới nhiều hình thức; do nhiều tổ
chức, cá nhân thực hiện và đã phần nào mang lại kết quả hữu ích bước đầu. Vậy
để hiểu rõ hơn về tham vấn tâm lí cho học sinh THCS chúng ta sẽ cùng tìm hiểu
vấn đề này ở phần dưới đây.
II. Nội dung.
2.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu.
2.1.1. Thế giới:
Tham vấn tâm lý học đường (School Counseling) hay còn gọi là tham vấn học
đường là một nhánh của ngành tham vấn tâm lý được xuất hiện vào đầu thế kỷ
20 tại Hoa Kỳ. Jesse B. Davis có thể được xem là một trong những người đầu
tiên trong lĩnh vực này khi giới thiệu một chương trình “Những hướng dẫn về
nghề nghiệp và đạo đức” (Vocational and Moral Guidance) cho học sinh các
trường học công. Frank Parsons, được xem như cha đẻ của nghề Hướng dẫn (còn
gọi Khải đạo), đã viết cuốn sách “Chọn lựa một nghề ” (Choosing a Vocation)
vào năm 1909 qua đó trình bày phương pháp kết nối những đặc điểm tính cách
của một cá nhân với một nghề nghiệp. Jesse Davis, Frank Parsons, Eli Weaver
và nhiều người khác nữa đã tạo thành một trào lưu thúc đẩy cho sự phát triển của
ngành tham vấn học đường.
Thế chiến thứ nhất, xuất hiện nhu cầu đánh giá (trắc nghiệm) các cá nhân, từ lúc
này thuật ngữ nhà tham vấn (counselor), thường được đề cập như là những
chuyên gia làm việc với những người trầm cảm, đã bắt đầu trở thành một phần
trong từ điển của các nhà giáo dục.
Thế chiến thứ hai kết thúc với những hậu quả nặng nề làm nảy sinh một nhu cầu
rất lớn về các trắc nghiệm tâm lý và nó đã tác động một cách trực tiếp đến hoạt
động khải đạo trong trường học. Cũng vào thời gian thế chiến thứ hai này, chính
phủ Hoa Kỳ đã đưa ra yêu cầu cho các nhà tham vấn làm công việc sàng lọc,
tuyển chọn các quân nhân và những chuyên gia cho các ngành công nghiệp.
Những năm 1930, lý thuyết đầu tiên về Khải đạo được giới thiệu: Lý thuyết về
các nhân tố và đặc điểm của E. G. Williamson, (E. G. Williamson’s Trait and
Factor theory). Lý thuyết này trở nên nổi tiếng như là một sự chỉ đạo cho hoạt
động tham vấn.
Năm 1940, đạo luật George Barden (George Barden Act) – đạo luật về giáo dục
hướng nghiệp – ra đời đã mang lại những nguồn lực quan trọng cho sự phát triển
và hỗ trợ hoạt động khải đạo và tham vấn trong môi trường học đường cũng như
những môi trường khác. Đây là lần đầu tiên những nhà tham vấn học đường,
những kiểm huấn viên địa phương và các tiểu ban nhận được những sự hỗ trợ
chính thức từ chính phủ (sự điều hành, tài chính và nguồn nhân lực…).
Năm 1957, năm mà vệ tinh Sputnik của Nga được phóng vào quỹ đạo cũng là
thời điểm mà ngành tham vấn và khải đạo được “phóng lên”. Tiếp theo đó, đạo
luật Nat’l Defense Ed. Act (NDEA) ra đời năm 1958.
Đạo luật NDEA tập trung vào hai vấn đề:
1). Cung cấp những nguồn lực để các bang thiết lập và duy trì các hoạt động
tham vấn, trắc nghiệm và khải đạo trong trường học;
2). Ủy quyền và cho phép các trường cao đẳng và đại học thiết kế các chương
trình đào tạo tham vấn học đường
Năm 1953, hiệp hội các nhà tham vấn tâm lý học đường Hoa Kỳ (ASCA) tham
gia vào APGA (American Personnel and Guidance Association), tiền thân của
hiệp hội tham vấn tâm lý Hoa Kỳ ACA (American Counseling Association) ngày
nay. Năm 1962, cuốn sách của Wrenn, Nhà tham vấn trong một thế giới thay đổi
(The Counselor in a Changing World) đã định chế hóa các mục tiêu của tham
vấn học đường. Năm 1964, ASCA phát triển các vai trò và chức năng dành cho
các nhà tham vấn học đường.
Năm 1965, đạo luật Giáo dục Trung học (Elementary and Secondary Education
Act) ra đời và cung cấp nguồn quỹ để phát triển những cơ hội giáo dục cho
những gia đình nghèo. Đến những năm 80s và 90s, nhu cầu về việc làm rõ những
đặc tính và vai trò của nhà tham vấn học đường được xuất hiện với sự “chín
muồi” của những vấn đề pháp lý liên quan.
Năm 1997, Tiêu chuẩn quốc gia dành cho các chương trình tham vấn học đường
(National Standards for School Counseling Programs) ra đời và kể từ đó, ngành
tham vấn học đường được xem là đã hoàn thiện.
Hiện nay, hiệp hội các nhà tham vấn học đường Hoa Kỳ (ASCA) được xem là
nguồn tham khảo và kiểu mẫu cho các chương trình tham vấn tâm lý học đường
của hầu hết các nước trên thế giới. ASCA hiện tại có hơn 23.000 hội viên trên
toàn thế giới và là một phân hội của ACA với hơn 60.000 hội viên trên toàn thế
giới.
2.2.2. Việt Nam
Năm 2003, hội thảo “Nhu cầu tư vấn học đường tại Tp. HCM” được Viện
Nghiên cứu Giáo dục, trường ĐHSP Tp. HCM tổ chức với sự tham gia của nhiều
nhà tâm lý, giáo dục và hiệu trưởng các trường có hoạt động tham vấn học
đường để “mổ xẻ” và kêu gọi sự quan tâm của giới chuyên môn cũng như các cơ
quan chính phủ trong việc có các chiến lược nhằm phát triển hoạt động tham vấn
học đường tại Việt Nam. Cũng trong thời gian này, một vài sinh viên khoa Tâm
lý – Giáo dục trường ĐHSP TP. HCM đã chọn đề tài cho luận văn tốt nghiệp của
mình về vấn đề tham vấn học đường. Những “sự kiện” này được xem là những
bước khởi đầu cho nhiều sự thay đổi tiếp theo của ngành tham vấn học đường tại
Việt Nam.
Năm 2004, Trung tâm Hỗ trợ tư vấn tâm lý (CACP) thuộc trường Đại học khoa
học xã hội và nhân văn Hà Nội được thành lập và cũng đề cập đến hoạt động
nghiên cứu và hỗ trợ hoạt động tham vấn học đường.
Năm 2005, với sự chấp thuận của Ủy ban Dân số – Gia đình – Học sinh em TP.
HCM và sự hỗ trợ của UNICEF, Văn phòng tư vấn học sinh em Tp. HCM đã tổ
chức hội thảo “Kinh nghiệm bước đầu thực hiện mô hình tham vấn trong trường
học” cũng nhận được sự quan tâm và chia sẻ kinh nghiệm thực tế của nhiều
chuyên gia và những nhà lãnh đạo các trường học. Đầu năm 2006, hội nghị toàn
quốc về “Tư vấn tâm lý – giáo dục – thực tiễn và định hướng phát triển” do Hội
khoa học Tâm lý – Giáo dục Tp. HCM tổ chức cũng đề cập đến vấn đề tham vấn
học đường như là một điều “khẩn thiết” nhằm hỗ trợ học sinh và nhà trường
trong hoạt động giáo dục. Sở Giáo dục – Đào tạo Tp. HCM cũng tổ chức những
buổi sinh hoạt đề cập đến hoạt động tư vấn học đường trong thời gian này với sự
tham gia của các nhà tâm lý, giáo dục, nhà trường và phụ huynh học sinh.
Trong khoảng thời gian này, một văn bản của Bộ Giáo dục đã được ban hành
nhằm chỉ đạo và hướng dẫn các Sở và trường học cùng những tổ chức liên quan
trong việc triển khai thực hiện chương trình tham vấn học đường.
Ngoài ra, chuyên mục tham vấn học đường do báo Phụ nữ Tp. HCM khởi xướng
(ThS. Nguyễn Thị Oanh phụ trách) cũng nhận được sự hưởng ứng rất nhiệt tình
của đông đảo học sinh, phụ huynh và các trường học. Tháng 06 năm 2006, cuốn
sách “Tư vấn tâm lý học đường” của tác giả Nguyễn Thị Oanh đã được nhà xuất
bản Học sinh phát hành trên toàn quốc.
Buổi lễ kí kết được tổ chức tại Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc gia Hà Nội, dưới sự chứng kiến của ông Micheal W. Michalak-Đại sứ
Hoa Kỳ tại Việt Nam, cùng đại diện Bộ Giáo dục-Đào tạo, Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội, đại diện Viện Tâm lý học Việt Nam và đại diện một số
trường đại học Việt Nam và Hoa Kỳ.
Ngày 12 tháng 1 năm 2010, Trường ĐHSP-ĐHĐNđã tham gia lễ kí kết thành lập
Ban Chỉ đạo và Ban Điều hành Đề án Phát triển Tâm lý Học đường Việt Nam
(gọi tắt là CASP-V).
CASP-là một liên hiệp quốc tế, được thành lập nhờ sáng kiến và những nỗ lực
vận động của các nhà nghiên cứu tâm lý Việt Nam và Hoa Kỳ. CASP-V bao
gồm sự tham gia của Viện Tâm lý học Việt Nam cùng 8 trường Đại học Việt
Nam và 5 trường Đại học Hoa Kỳ.
Mục đích chủ yếu của CASP-V là để xây dựng ngành và nghề tâm lý học đường
tại Việt Nam, thúc đẩy việc thực hiện chương trình đào tạo và thực hành ngành
tâm lý học đường với chất lượng tốt nhất.
Đến nay, vấn đề tham vấn học đường tại Việt Nam đã trở thành một đề tài nóng
bỏng và nhận được nhiều sự ủng hộ từ các em học sinh, phụ huynh, nhà trường,
các nhà tâm lý – giáo dục và các tổ chức thuộc chính phủ cũng như các tổ chức
phi chính phủ. Tuy nhiên, diện mạo của một ngành nghề chuyên nghiệp vẫn
chưa thật sự được định hình.
2.2. Khái niệm chính của chủ đề.
Tham vấn tâm lý: là hoạt động tương tác giữa nhà tham vấn và thân chủ (và cả
gia đình) nhằm hỗ trợ, giúp đỡ thân chủ giải quyết những khó khăn trong nhận
thức, cảm xúc và hành vi và qua đó, phát triển nhân cách, định hướng nghề
nghiệp, cách sống lành mạnh và những vấn đề khác thuộc về các rối loạn cảm
xúc và nhân cách.
Trợ giúp – Là sự giúp đỡ một cách có hệ thống và có phương pháp. Người giúp
đỡ cần có kỹ năng và phẩm cách làm cho người có nhu cầu giúp đỡ tự giải quyết
vấn đề của mình bằng cách tìm hiểu, khám phá và hành động.
Nhà tham vấn: là người được đào tạo một cách bài bản trong ngành tâm lý và cụ
thể là tham vấn tâm lý. Họ có đủ các phẩm chất và kỹ năng cần có của một nhà
tham vấn cũng như những kinh nghiệm sống và một tâm thế bình ổn để có thể
trợ giúp tốt nhất cho thân chủ.
Thân chủ: là khách hàng, họ là những người có lứa tuổi khác nhau đang gặp
những khó khăn tâm lý như: Họ đang bị “stress” trong công việc, đời sống gia
đình; họ có thể gặp khó khăn trong việc nuôi dạy con cái, quan hệ đồng nghiệp,
quan hệ hôn nhân, tình yêu, tình dục...hay họ đang mất niềm tin...cũng có thể họ
cảm thấy có những cảm xúc tiêu cực như giận dữ bất thường, đau khổ, căng
thẳng lo hãi kéo dài, hoảng sợ...khiến họ băn khoăn và hoang mang không biết
thoát ra tình trạng mình đang gặp như thế nào...Khi đó họ cần có người chia sẻ,
lắng nghe và trợ giúp họ thoát ra khỏi tình trạng hiện có. Như vậy có thể hiểu
thân chủ là những người đang có vấn đề tâm lý và cần được trợ giúp.
Kỹ năng tham vấn: là sự vận dụng kinh nghiệm, hiểu biết chuyên môn và giá trị
nghề nghiệp của nhà tham vấn vào hoàn cảnh tham vấn cụ thể, nhằm tạo lập mối
quan hệ hợp tác, qua đó giúp đối tượng tự nhận thức được bản thân và vấn đề
đang tồn tại, từ đó tự xác định giải pháp để giải quyết vấn đề một cách có hiệu
quả.
Tiến trình tham vấn: được hiểu là một tập hợp các hoạt động tương tác giữa nhà
tham vấn và thân chủ, trong đó nhà tham vấn sử dụng các kiến thức và kĩ năng
chuyên môn tham vấn, các giá trị đạo đức nghề nghiệp để giúp đỡ thân chủngười đang trong tình huống có vấn đề giải quyết vấn đề của họ.
Cơ chế phòng vệ là kiểu ứng xử mà cá nhân không ý thức được nhằm bảo vệ cá
nhân thoát khỏi sự lo sợ, căng thẳng…
2.3. Đặc điểm học sinh THCS (chân dung thân chủ).
2.3.1. Về mặt tâm lý xã hội.
Sự cải tổ lại hoạt động và tương tác xã hội là đặc trưng nổi bật trong sự phát triển
tâm lí tuổi nhi đồng: Hoạt động chủ đạo chuyển từ trò chơi sang hoạt động học
tập, từ sự tương tác với cha mẹ là chủ yếu sang tương tác xã hội (với thầy cô
giáo và bạn bè). Đối với học sinh THCS thầy cô giáo là người có quyền lực và là
thần tượng trực tiếp. Học sinh có nhu cầu cao được bắt trước và noi theo các
hành vi ứng xử của thầy cô giáo. Học tập và tương tác xã hội là tác nhân quan
trọng nhất chi phối sự phát triển tâm lí.
Sự cải tổ hoạt động và tương tác dẫn đến cải tổ nhận thức: chuyển trọng tâm từ
tự kỉ sang nhận thức thế giới theo chuẩn bên ngoài. Tính có chủ định chiếm ưu
thế. Các hành động nhận thức được tổ chức theo mục đích xác định. Hình thành
và phát triển các thao tác trí tuệ cụ thể.
Ngôn ngữ của học sinh em lứa tuổi THCS vừa hoàn thiện các chức năng ngữ
pháp và ngữ nghĩa của tiếng nói vừa hình thành các kĩ năng đọc và tiếng mẹ đẻ.
Đây chính là một trong những thành tựu nổi bật trong sự phát triển ngôn ngữ của
các em.
Sự phát triển lòng vị tha và hung tính là hai mặt trong sự hình thành và phát triển
xúc cảm, tình cảm của học sinh THCS. sự phát triển các đặc trưng tâm lí này gắn
với nhận thức các chuẩn mực đạo đức, trên cơ sở đó hình thành các hành vi đạo
đức đúng đắn ở các em.
2.3.2. Về mặt thể chất.
* Tăng chiều cao, cân nặng.
* Làm nhiều việc hơn với đôi bàn tay và cơ thể vì tự kiểm soát khá hơn.
* Tốc độ phát triển thể chất diễn ra chậm hơn so với các tuổi trước. Qúa trình
phát triển êm ả, đồng đều, theo xu hướng hoàn thiện về giải phẫu và chức năng
cơ thể, để chuẩn bị bước sang giai đoạn thứ hai với sự nhảy vọt là tuổi dậy thì.
ảnh hưởng của sự phát triển thể chất đến sự phát triển tâm lí không lớn và không
trực tiếp như tuổi ấu nhi và tuổi mẫu giáo.
2.4. Kiến thức và kỹ năng của nhà tham vấn phù hợp với đối tượng tham
vấn (chân dung nhà tham vấn).
2.4.1.Kiến thức của nhà tham vấn:
Nhà tham vấn hay còn gọi là chuyên viên tham vấn – Tham vấn viên là những
người:
Biết cách lắng nghe thân chủ, chủ động trong các cuộc nói chuyện và trong các
cuộc gặp gỡ .
Biết sử dụng các kỹ năng giao tiếp cụ thể để “khai thác” các cảm xúc, trải
nghiệm suy nghĩ và quan điểm của thân chủ, và tập hợp các thông tin giúp thân
chủ hiểu rõ về tình huống của họ.
Thể hiện sự thông cảm và thấu hiểu với thân chủ, xác định các bước thực hiện để
có thể tìm ra hướng giải quyết tốt nhất cho vấn đề của họ.
- Giúp thân chủ hiểu được các sự kiện trong quá khứ đã góp phần vào các vấn đề
hiện tại. Giúp thân chủ suy nghĩ và xử sự theo các cách khác nhằm giảm thiểu
những ảnh hưởng tiêu cực của các sự kiện quá khứ.
- Giúp thân chủ phân loại các vấn đề trong cuộc sống của họ và khám phá sâu
hơn về bản thân mình.
- Giúp thân chủ bày tỏ các cảm xúc của họ và có cái nhìn sâu sắc về việc các
cảm xúc này tác động dến cách họ ứng xử, suy nghĩ và ra các quyết định như thế
nào.
2.4.2. Kỹ năng của nhà tham vấn sử dụng :
+) Các kĩ năng giao tiếp không lời:
Đó là việc nói tới việc sử dụng thái độ, nét mặt, cử chỉ, hành vi để giao tiếp với
thân chủ. Sự hiện diện, tư thế, hướng tới thân chủ của nhà tham vấn thể hiện
những điều khó biểu đạt bằng ngôn ngữ.
Ánh mắt chứa nhiều cảm xúc, nó có thể đưa ra những cảm xúc giận dữ hay vui
vẻ…. Tuy nhiên không nên nhìm chằm chằm vào thân chủ vì dễ gây cho họ cảm
giác sợ sệt. Do vậy, khi nhìn thân chủ có thể đôi khi nhìn đi nơi khác (giao tiếp
bằng mắt).
Ngồi đối diện với thân chủ cũng là cahs thể hiện sự quan tâm chú ý toàn bộ của
nhà tham vấn với thân chủ.
Thể hiện tư thế cởi mở: do là một trong những quốc gia thuộc văn hóa châu Á
nên nhà tham vấn cần ngả người ra phía trước một chút thể hiện sự quan tâm, sự
chờ đón, sự sẵn sàng chia sẻ và lắng nghe. Tuy nhiên không nên ngả người quá
mức về trước vì nhiều khi tạo sự không thoải mái ở thân chủ.
Khoảng cách và chiều cao giữa thân chủ và nhà tham vấn: do đây là một trường
hợp tham vấn cho học sinh THCS nên nhà tham vấn nên ước chừng khoảng cách
ngồi hợp lí, đồng thời nhà tham vấn nên cho thân chủ ngồi trên ghế và nhà tham
vấn ngồi dưới đất hoặc cúi thấp xuống gần với học sinh để giảm bớt độ cao so
với học sinh.
Âm giọng và tốc độ nói: với thân chủ là học sinh THCS nên khi tham vấn âm
giọng nên tỏ ra ấm áp, chân tình, có âm điệu, tránh đều đều vô cảm. Đôi khi có
những câu chuyện hài hước thiếu nhi và nụ cười trìu mến sẽ tạo bầu không khí
ấm cúng và thân thiện giữa hai bên.
Thể hiện sự thoải mái: thái độ thoải mái của nhà tham vấn sẽ giúp cho thân chủ
dễ chịu hơn và phần nào giải tỏa những trạng thái tâm lí tiêu cực.
+) Kỹ năng lắng nghe:
o
Có những hành vi quan sát tinh tế (luôn duy trì giao tiếp bằng mắt
phù hợp với cách nhìn và tư thế thể hiện sự quan tâm và sẵn sàng lắng nghe. Im
lặng tập trung để quan sát những hành vi, cử chỉ của đối tượng. Đưa ra phản hồi
với những gì quan sát được khi cần thiết).
o
Sự tập trung chú ý: im lặng để nghe, hạn chế nói. Không làm việc
khác trong khi nghe. Tập trung tư tưởng, không phân tán, suy nghĩ về những
điều khác, hãy lắng nghe để họ nói hết ý. Nghe mọi thông tin về suy nghĩ, ý
tưởng, về sự kiện, con người và đặc biệt chú ý tới cảm xúc của đối tượng. Tóm
lược và đưa ra phản hồi ngắn gọn.
o
Thái độ tôn trọng thân chủ: chấp nhận đối tượng vô điều kiện. Tôn
trọng sự im lặng của thân chủ và đưa ra phản hồi để thể hiện đang chú ý và cảm
nhận tâm trạng thân chủ.
o
Thể hiện sự thấu hiểu và khích lệ, khen ngợi. Im lặng để nghe.
+) Kỹ năng hỏi:
Sử dụng một cách linh hoạt các loại câu hỏi đóng mở, câu hỏi hướng tới cảm
xúc, suy nghĩ, hành vi. Câu hỏi hướng tới khai phá vấn đề, câu hỏi tăng năng lực,
tập trung vào giải pháp. Câu hỏi tại sao, vì sao…
+) Kỹ năng phản hồi:
Sử dụng ngôn ngữ để truyền tải đến thân chủ những gì đã nghe được từ họ một
cách chính xác những suy nghĩ, quan điểm của thân chủ đã trình bày, tránh suy
diễn, phỏng đoán theo ý chủ quan của nhà tham vấn. Nhà tham vấn diễn đạt lại
một cách ngắn gọn, bao hàm những chi tiết quan trọng và bằng những từ gần
nghĩa với thái độ tôn trọng và thấu cảm.
Ghi nhận mọi cảm xúc tích cực và tiêu cực từ thân chủ. Xác định cảm xúc của
của thân chủ qua việc quan tâm tới biểu cảm hay ý nghĩa cảm xúc đằng sau hành
vi của câu nói đó. Sử dụng từ ngữ biểu cảm để nói lại những cảm xúc đó. Sử
dụng từ ngữ đầu câu dưới dang thăm dò để kiểm tra suy nghĩ hay cảm nhận của
mình nhằm tránh tạo tâm lí bị áp đặt. Trao đổi với thân chủ về cảm xúc của họ.
+) Kỹ năng thấu hiểu:
Thấu hiểu (Empathy) là cảm nhận điều mà thân chủ đang cảm nhận. Đó là khả
năng hiểu bằng cảm xúc, hiểu biết chính xác thế giới bên trong của thân chủ (C.
Rogers).
Thấu hiểu là một hoạt động tâm lí tích cực, một sự cảm nhận sâu sắc, với thái độ
chấp nhận và thể hiện nó ra thành những hành vi cử chỉ, lời nói.
+) Kỹ năng xử lí im lặng:
Nhà tham vấn cần cân nhắc thời gian tạm ngừng (khả năng duy trì sự im lặng)
của mình cho phù hợp với thân chủ. Cần cân nhắc thời gian tạm ngừng cho phép
đối với thân chủ để không ảnh hưởng đến tiến trình của cuộc trò chuyện. Có thể
duy trì sự im lặng của thân chủ trong khoảng 30 giây. Sự im lặng có thể gây ra
những bối rối ở nhà tham vấn (hoặc sẽ nói, thay đổi chủ đề để lấp đầy khoảng
trống, hoặc đánh đồng với sự thất bại của mình).
+) Kỹ năng đương đầu:
Là sự thử thách đối với sự hiểu biết của thân chủ về thế giới xung quanh (Byrne,
1955). Nhà tham vấn sử dụng kỹ năng đương đầu để thử thách và thay đổi nhận
thức của thân chủ, thông qua việc chỉ ra những mâu thuẫn, sự không nhất quán
giữa lời nói, cảm xúc, thái độ, hành vi của thân chủ.
Và còn cần một số kỹ năng khác như: kỹ năng tóm lược vấn đề, kỹ năng khuyến
khích làm rõ ý, kỹ năng khai thác suy nghĩ- cảm xúc- hành vi, kỹ năng chai sẻ
bản thân, kỹ năng cung cấp thông tin, kỹ năng giao nhiệm vụ về nhà…
2.5. Mô hình tham vấn cho thân chủ.
Trong tham vấn tâm lý có các mô hình tham vấn như: Mô hình tham vấn trong
giai đoạn khởi đầu (theo Williamson và C. Rogers) và mô hình tham vấn tiếp cận
từ góc đô thân chủ (theo M. Daignieault), mô hình tham vấn tiếp cận từ góc độ
nhà tham vấn.
Trong trường hợp tham vấn tâm lí cho học sinh nhút nhát, ngại giao
tiếp của T chúng ta sử dụng mô hình tham vấn tiếp cận từ góc độ nhà tham vấn.
Mô hình này có các giai đoạn sau: Mô hình tham vấn 6 giai đoạn.
Tiếp xúc ban đầu:
- Là buổi gặp mặt đầu tiên giữa nhà tham vấn và thân chủ. Chính bước ban đầu
này có ý nghĩa rất quan trọng cho việc tạo lập mối quan hệ hợp tác giữa nhà
tham vấn và thân chủ, nó ảnh hưởng đến tính chất mối quan hệ sau này và thậm
chí quyết định các buổi làm việc tiếp theo có hay không.
- Ở giai đoạn ban đầu này, nhà tham vấn cần:
+ Giới thiệu mình với thân chủ (tên, vai trò vị trí chuyên môn) để tạo sự tin
tưởng.
+ Thiết lập một bầu không khí thân thiện, tạo cho thân chủ cảm thấy an toàn và
thoải mái.
+ Tỏ ra cởi mở, lắng nghe và sẵn sàng giúp đỡ thân chủ
+ Giữ bình tĩnh, kiên trì trong trường hợp thân chủ trong buổi đầu tiếp xúc đã tỏ
ra ngổ ngáo, không hợp tác
+ Theo dõi thân chủ qua hành vi, cử chỉ, nét mặt, điệu bộ,..
+ Lắng nghe thân chủ trình bày vấn đề của họ.
Thu thập thông tin và xác định vấn đề cốt lõi.
Nhà tham vấn thu thập thông tin, phân tích thông tin để tìm ra thực chất vấn đề là
gì, nguyên nhân nằm ở đâu, xảy ra như thế nào.
- Nhà tham vấn và thân chủ cùng khám phá vấn đề của thân chủ: vấn đề xuất
hiện như thế nào? Khi nào? Ở đâu? Vấn đề tồn tại bao lâu, ai liên quan đến vấn
đề? Liên quan như thế nào ? Mức độ nghiêm trọng của vấn đề ? Vấn đề đã giải
quyết như thế nào? Vấn đề trước mắt muốn giải quyết là gì ? Thân chủ cảm thấy
như thế nào?
- Ngoài ra trong giai đoạn này, nhà tham vấn còn phải tìm hiểu thông tin về các
nguồn tiềm năng của thân chủ và xã hội trong việc giải quyết vấn đề của thân
chủ để phục vụ cho việc xây dựng kế hoạch giúp đỡ đối tượng.
- Ở giai đoạn này, trong quá trình thảo luận với đối tượng nhà tham vấn cần:
+ Lắng nghe tích cực khi thân chủ trình bày vấn đề của họ.
+ Quan sát hành vi, ngôn ngữ.
+ Phản ánh lại các cảm xúc, ý kiến quan trọng của đối tượng.
+ Hướng đối tượng tập trung vào vấn đề chính, tránh lan man.
+ Thỉnh thoảng yên lặng để đối tượng có dịp suy nghĩ và tìm cách thể hiện.
+ Đôi khi tóm tắt một số ý kiến mà đối tượng trình bày.
Giúp đối tượng đưa ra những hướng giải pháp có thể và lựa chọn
giải pháp tốt nhất, phù hợp nhất đối với hoàn cảnh của họ.
Khi một vấn đề đã được xác định và hiểu rõ được nguyên nhân gây ra thì nhà
tham vấn giúp thân chủ tìm kiếm các giải pháp. Sau đó trên cơ sở phân tích, nhà
tham vấn giúp thân chủ nhận thức được nhu cầu tiềm năng để thực hiện và chọn
giải pháp thích hợp.
- Trước hết nên để thân chủ tự mình đưa ra những hướng giải quyết cụ thể.
- Nếu đối tượng không thể tự ra được thì nhà tham vấn gợi ý cho họ.
- Hỗ trợ thân chủ lựa chọn giải pháp thích hợp nhất bằng việc.
Triển khai thực hiện.
Nhà tham vấn kiểm tra tiến trình thực hiện công việc mà thân chủ đã đề ra. Nếu
thân chủ không thực hiện cần sử dụng kỹ năng làm mẫu để thân chủ trải nghiệm
và làm theo, hoặc tìm kíêm các nguồn hỗ trợ bên ngoài cho thân chủ.
Lượng giá và kết thúc:
- Lượng giá thường xuyên thực hiện trong suốt quá trình tham vấn nhằm giúp
thân chủ cảm nhận được mức độ tiến triển của sự việc và giúp nhà tham vấn kịp
thời điểu chỉnh và thay đổi phương cách nhằm trợ giúp có hiệu quả nhất cho thân
chủ.
- Lượng giá kết thúc đòi hỏi đánh giá toàn bộ những việc thân chủ đã làm, các
nguồn lực được trợ giúp, chỉ ra những cái chưa làm được (lưu ý sử dụng kỹ năng
nới lỏng trong giai đoạn này).
Tiếp tục theo dõi sau khi kết thúc:
Sử dụng các hình thức trao đổi (thư từ, điện thoại, internet...) để biết sự tiến bộ
của thân chủ, đảm bảo rằng thân chủ đã tự đương đầu được với các vấn đề của
họ trong cuộc sống. Thời gian trung bình kéo dài từ vài tuần đến 6 tháng.
2.6. Hình thức và quy trình tham vấn.
2.6.1. Hình thức tham vấn:
Có hai hình thức tham vấn là tham vấn trực tiếp và tham vấn gián tiếp:
Tham vấn gián tiếp: là một hoạt động tham vấn thông qua các phương tiện
truyền thông như :Tham vấn qua thư, tham vấn qua báo chí, tham vấn qua điện
thoại…. Hoạt động tham vấn gián tiếp chỉ có khả năng giúp thân chủ một số ý
kiến và giải quyết một số vấn đề đơn giản, không có hiệu quả và giá trị như hoạt
động tham vấn trực tiếp.
Để đạt kết quả tốt nhất trong trường hợp này chúng ta sử dụng hình thức tham
vấn trực tiếp:
Tham vấn trực tiếp: tiến hành gặp gỡ giữa nhà tham vấn (người trợ giúp) và thân
chủ (học sinh nhút nhát, ngại giao tiếp). Họ gặp nhau một lần một tuần và những
tuần đầu thì có thể sắp xếp 2-3 lần trong tuần, trong một khoảng thời gian cố
định, thường là 45 phút cho đến một tiếng đồng hồ cho một cuộc gặp gỡ tại một
địa điểm được ấn định trước (tại trung tâm tham vấn hoặc có thể diễn ra tại gia
đình thân chủ).
Vấn đề của tham vấn có thể diễn ra từ một vài tuần tới một vài tháng: Bởi vì
những vấn đề của mỗi người hình thành và phát triển trong một khoảng thời
gian, do đó cũng cần có thời gian để giải quyết. Trong trường hợp này thời gian
dự kiến là từ 6 tháng cho đến 2 năm do vấn đề liên quan đến hành vi.
2.6.2. Quy trình tham vấn.
o
Tiếp xúc với thân chủ:
Đây là bước quan trọng để tạo ấn tượng tốt đẹp cho thân chủ trong lần gặp gỡ
đầu tiên.
Trao đổi một số thông tin ban đầu với thân chủ. Những thông tin cần trao đổi là:
Thông tin cá nhân: Họ tên, bao nhiêu tuổi, học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn
nhân, địa chỉ liên lạc, số điện thoại liên lạc…
Thoả thuận một số nguyên tắc và cách thức làm việc:
+ Thời gian làm việc: Mỗi buổi làm việc là 45-60 phút, nếu thân chủ đến trễ thì
thời gian làm việc sẽ ngắn lại. Thân chủ không đến được theo lịch hẹn thì gia
đình phải gọi điện thông báo trước. Đúng giờ là một trong những yếu tố quan
trọng giúp thân chủ học cách quản lý cuộc sống của họ. Mục đích: tạo cho thân
chủ một giới hạn ban đầu và tinh thần trách nhiệm trong suốt tiến trình tham vấn
và trị liệu.
+ Mức phí cho mỗi buổi làm việc.
Nguyên tắc bảo mật thông tin, tôn trọng thân chủ, không đánh giá hay phán xét
thân chủ theo các giá trị đạo đức đúng sai. Mục đích: tạo sự tin tưởng ban đầu
cho thân chủ, khuyến khích thân chủ thoải mái thể hiện cảm xúc và suy nghĩ của
bản thân.
+ Cách thức và phương pháp làm việc: Một tham vấn viên chính, một giám sát
và một nhà tham vấn khác cùng hỗ trợ như một nhóm. Nếu thân chủ cảm thấy
không thoải mái khi có quá nhiều người tham dự thì có thể từ chối và đề nghị
được làm việc với nhà tham vấn chính. Nhà tham vấn không giải quyết vấn đề
thay cho thân chủ mà chỉ là người gợi mở cho thân chủ, khơi tiềm năng vốn có
của thân chủ để thân chủ tự quyết vấn đề của mình. Nhà tham vấn sẽ là người
song hành xuyên suốt tiến trình tháo gỡ và giải quyết vấn đề của thân chủ. Nhấn
mạnh yếu tố hợp tác của thân chủ với nhà tham vấn trong việc cung cấp thông
tin và trong tiến trình tham vấn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình làm việc.
Tham vấn là một tiến trình, chính vì vậy mà cần phải có thời gian và sự kiên trì
của thân chủ.
T
hân chủ trình bày vấn đề khó khăn hiện tại của mình và mục đích đến phòng
tham vấn (lý do đến tham vấn).
Nhà tham vấn cần thống nhất về mục đích làm việc với thân chủ trong suốt tiến
trình tham vấn.
Từ những vấn đề khó khăn hiện tại mà thân chủ trình bày nhà tham vấn trị liệu
khai thác sâu thêm một số vấn đề có liên quan như: những triệu chứng…
Trong suốt giai đọan này nhà tham vấn cần phải vận dụng một số kĩ năng quan
trọng trong tham vấn như: lắng nghe, thấu cảm, chấp nhận vô điều kiện, quan
tâm đến thân chủ một cách tích cực vô điều kiện, tiếp xúc bằng ngôn ngữ bằng
lời và ngôn ngữ không lời (ngôn ngữ cơ thể)…Chính những điều này sẽ làm cho
thân chủ tin tưởng hơn vào nhà trị liệu, để họ thấy mình là người có giá trị, quan
trọng.
o
Đưa ra chẩn đoán tạm thời qua những triệu chứng mà thân chủ mô
o
Tìm hiểu lịch sử gia đình:
tả.
Qúa trình phát triển của thân chủ.
Những biến cố mà thân chủ đã trải qua và những biến cố đó tác động như thế
nào đối với thân chủ, mối liên hệ giữa những biến cố trong quá khứ và tình trạng
hiện tại của thân chủ.
Mối quan hệ với những người thân trong gia đình: bố, mẹ, anh, chị, em và
những người thân thuộc và tác động của những mối quan hệ này đến tình trạng
hiện tại của thân chủ.
Mối quan hệ với bạn bè, đồng nghiệp hay những khó khăn trong công việc, trở
ngại trong vấn đề hôn nhân… và tác động của nó đến tình trạng hiện tại của thân
chủ.
Trong giai đoạn này nhà tham vấn cần chú trọng đến các kĩ năng như: kỹ năng
làm rõ vấn đề, phản hồi, thấu cảm, lắng nghe với những gì mà thân chủ đã trải
qua. Trong các kỹ năng trên thì kỹ năng “lắng nghe” đóng vai trò đặc biệt quan
trọng trong suốt tiến trình tham vấn và trị liệu, lắng nghe là thông điệp mà tham
vấn viên gửi đến với thân chủ rằng “tôi đang nghe, tôi quan tâm và tôi hiểu
những gì mà anh/chị đang nói”, thông qua đó mà thân chủ thấy mình được tôn
trọng và tiếp tục bộc lộ vấn đề của mình.
o
Tổng hợp và xâu chuỗi thông tin để đưa ra chẩn đoán lần 2:
Sau khi tìm hiểu lịch sử gia đình, tương quan của thân chủ trong các mối quan
hệ cùng với những triệu chứng hiện tại nhà tham vấn/nhà trị liệu phải tổ chức và
sắp xếp những thông tin ấy lại với nhau và xác định nguyên nhân thực sự của
vấn đề và vấn đề thực sự của thân chủ là gì. Từ đó mà tham vấn viên đưa ra chẩn
đoán lần 2.
Trong quá trình làm việc với thân chủ để thu thập, tổng hợp, xử lý thông tin,
tham vấn viên cần chú ý đến 3 vấn đề sau:
Cái Tôi của thân chủ, tự đánh giá bản thân cao hay thấp.
Thân chủ đã dùng cơ chế tự vệ nào mà dẫn đến vấn đề hiện tại. Tìm cách giải
thích cho thân chủ hiểu được cơ chế mà họ đang sử dụng và phá vỡ cơ chế tự vệ.
Quá trình tách rời ra khỏi hệ thống gia đình như thế nào.
o
Đưa ra tiến trình điều trị và mục tiêu điều trị:
Căn cứ trên chẩn đoán xác định lần 2 mà nhà tham vấn đưa ra tiến trình trị liệu.
Trong tiến trình đó tham vấn viên cần vạch rõ và cụ thể hoá các mục tiêu điều
trị, trong đó có những mục tiêu ngắn hạn và mục tiêu lâu dài.
o
Tiến hành thực hiện từng mục tiêu trong tiến trình điều trị:
Tuỳ thuộc vào vấn đề cần giải quyết, mục tiêu đưa ra và tuỳ thuộc vào cái tôi
của thân chủ mà nhà tham vấn áp dụng những liệu pháp thích hợp. Các liệu pháp
có thể sử dụng là: Một số kỹ thuật trong phân tâm, Liệu pháp nhận thức, Liệu
pháp hành vi, liệu pháp Nhận thức-Hành vi, Liệu pháp gia đình, Liệu pháp thư
giãn, Liệu pháp thân chủ trọng tâm, Liệu pháp âm nhạc, Liệu pháp nhóm, Liệu
pháp hỗ trợ…
o
Lượng giá sự thuyên giảm của những triệu chứng và những mục
tiêu đã đặt ra cũng như mục đích hướng đến.
Tiến hành khi quá trình tham vấn đến giai đoạn kết thúc. Nhà tham vấn
nên lưu ý đến những tiến bộ thân chủ đã đạt được để củng cố và tăng cường
niềm tin nơi thân chủ. Nhà tham vấn cần nói để thân chủ biết là họ luôn được hỗ
trợ, giúp đỡ khi cần thiết. Khi lượng giá cần thảo luận cùng thân chủ kết quả mà
họ đã đạt được. Nếu thân chủ không hoàn thành được nhiệm vụ nào thì cần tìm
ra nguyên nhân, mà không nên trách móc, cần chỉ ra được nhiệm vụ cần sửa
chữa nếu cần thiết.
o
Kết thúc tiến trình tham vấn tâm lý.
Trao đổi thẳn thắn kết quả tiến trìnhtham vấn với thân chủ. Sự phản hồi từ phía
thân chủ và tham vấn viên. Thường dùng hình thức đa tham vấn viên.Từng tham
vấn viên sẽ trình bày những suy nghĩ của mình về thân chủ và tiến trình làm việc
nhằm mục đích khẳng định một lần nữa sự khoẻ mạnh của thân chủ.
Chúc những điều tốt đẹp cho thân chủ và sẵn sàng đón nhận thân chủ nếu xảy ra
tình trạng tái phát.
Thông tin về thân chủ được yêu cầu bảo mật hoàn toàn. Nhà tham vấn chấp nhận
thân chủ vô điều kiện.
Cách thức và phương pháp làm việc: Một tham vấn viên chính, một giám sát,
tham vấn viên hỗ trợ.
- Xem thêm -