ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
KHOA VĂN HÓA HỌC
TIỂU LUẬN
CAMBRIDGE COMPANION TO MODERN JAPANESE
CULTURE – CONCEPTS OF JAPAN, JAPANESE CULTURE
AND THE JAPANESE
MÔN HỌC: ĐỊA VĂN HÓA VÀ CÁC VÙNG VĂN HÓA VIỆT NAM
GVHD: TS. ĐINH THỊ DUNG
Học viên: Bùi Đức Thuận
Lớp Cao học Văn hóa học K11
Mã số học viên: 0305161025
Thành phố Hồ Chí Minh
3 - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
KHOA VĂN HÓA HỌC
TIỂU LUẬN
CAMBRIDGE COMPANION TO MODERN JAPANESE
CULTURE – CONCEPTS OF JAPAN, JAPANESE CULTURE
AND THE JAPANESE
MÔN HỌC: ĐỊA VĂN HÓA VÀ CÁC VÙNG VĂN HÓA VIỆT NAM
GVHD: TS. ĐINH THỊ DUNG
Học viên: Bùi Đức Thuận
Lớp Cao học Văn hóa học K11
Mã số học viên: 0305161025
Thành phố Hồ Chí Minh
3 - 2011
Nội Dung
Nội Dung.................................................................................................................................3
I...............................................................................................................................................4
Bài dịch...................................................................................................................................4
I CONCEPTS OF JAPAN, JAPANESE CULTURE AND THE JAPANESE......................4
Giới thiệu............................................................................................................................4
‘Nhật Bản’...........................................................................................................................5
Phân lớp Nhật Bản..........................................................................................................5
Những gì không thuộc về Nhật Bản................................................................................8
“Văn hóa Nhật Bản”.........................................................................................................10
Bản chất.........................................................................................................................10
Giải bản địa hóa/tái bản địa hóa....................................................................................12
‘Người Nhật’.....................................................................................................................15
Người Triều Tiên và người Trung Quốc ở Nhật Bản...................................................15
Kết.....................................................................................................................................21
II............................................................................................................................................24
Nhận xét bài viết của Harumi Befu.......................................................................................24
2.1 Những vấn đề chung...................................................................................................24
II............................................................................................................................................26
Về các khái niệm ‘Nhật Bản’, ‘văn hóa Nhật Bản’, ‘người Nhật Bản’................................26
‘Nhật Bản’.........................................................................................................................26
‘văn hóa Nhật Bản’...........................................................................................................26
‘người Nhật Bản’..............................................................................................................27
Kết.....................................................................................................................................27
I
Bài dịch
I CONCEPTS OF JAPAN, JAPANESE CULTURE AND THE
JAPANESE
Chương 1: Các khái niệm Nhật Bản, văn hóa Nhật Bản và người Nhật
Giới thiệu
Trước đây đã có nhiều công trình về văn hóa Nhật Bản được thực hiện bởi
các học giả Nhật Bản cũng như các nhà nghiên cứu quốc tế. Hầu hết đều mặc nhiên
công nhận sự tồn tại của các khái niệm ‘Nhật Bản’, ‘văn hóa Nhật’ và ‘người Nhật’.
Tuy nhiên tôi không cho rằng đó là hướng tiếp cận có hiệu quả. Điều tốt nhất mà
hướng nghiên cứu đó mang lại chỉ có thể cho thấy các thảo luận đó rất khác nhau vì
còn phụ thuộc vào các trải nghiệm đa dạng, phong phú về những hoàn cảnh lịch sử.
Xã hội học và nhân loại học nửa đầu thế kỷ XX đã có giả định mơ hồ rằng xã
hội, văn hóa, con người, tổ chức nhà nước và lãnh thổ có cùng chung biên giới tới
mức họ cho rằng những ranh giới đó hoàn toàn trùng khớp.
Giả thuyết này được tạo ra và tái công nhận bởi các lý thuyết đã tồn tại và
được công nhận trong khoa học xã hội một thời gian dài, đó là lý thuyết cấu trúcchức năng luận. Lý thuyết này cho rằng mỗi xã hội sở hữu một nền văn hóa riêng và
xã hội cũng như văn hóa đó được bao quát luôn bởi ranh giới chính trị của quốc gia.
Thời gian đầu của thời kỳ hậu chiến, Nhật Bản được mô tả và phân tích trên cơ sở
một lý thuyết cố định như thế đó.
Tuy nhiên những mô hình hoàn toàn mới đã phát triển từ những năm 1960 đã
nhấn mạnh đặc điểm luôn biến đổi và toàn cầu hóa trật tự thế giới nửa sau thế kỷ
XX. Trong chương 1 này, chúng ta sẽ khám phá và tìm hiểu Nhật Bản với nhận thức
rằng sự đồng hình vùng đất=con người=văn hóa=xã hội=tổ chức chính trị là một
điều không hợp lý.
‘Nhật Bản’
‘Nhật Bản’ không thể tách rời khỏi văn hóa Nhật Bản, vì Nhật Bản không chỉ
là một thực thể vật lý. Nhật Bản là một chuỗi quần đảo có ý nghĩa chỉ khi được diễn
dịch về mặt văn hóa. Những tư tưởng hiện thời cho rằng Nhật Bản bao gồm bốn
phần đảo lớn Honshu, Kyushu, Shikoku và Hokkaido, bao gồm cả các đảo Ryukyu
(Okinawa) và một số đảo nhỏ xung quanh bốn đảo lớn. Khi nào Nhật Bản còn tồn
tại như một thực thể như vậy thì nhận thức về nó vẫn còn có thể được soạn thảo và
diễn dịch kỹ lưỡng. Hơn nữa, văn hóa là cấu trúc có tính lịch sử cho nên ý nghĩa của
Nhật Bản cũng thay đổi theo thời gian.
Phân lớp Nhật Bản
Sự diễn dịch văn hóa về Nhật Bản nhấn mạnh hoàn toàn vào bản chất phân
tầng tự nhiên về mặt xã hội và chính trị của quốc gia này. Ví dụ, các chuyện kể của
Nhật Bản đã gợi lên cho người ta thấy một đất nước có bốn mùa: mùa xuân với hoa
anh đào, mùa hè với cái nóng oi ả, mùa thu với những sắc màu phủ khắp các tán lá
tuyệt đẹp và một mùa đông lạnh ngắt. Nhưng những đặc trưng hé mở đó dường như
chỉ hiển hiện rõ tại vùng trung tâm Nhật Bản – một khu vực từ Kansai (KyotoOsaka) tới Kanto (Tokyo) – nơi tập trung nhiều nguồn sáng tạo cho các câu chuyện.
Những hình ảnh đó được sáng tạo bởi những người trí thức vùng trung tâm Nhật
Bản, và đây cũng là điểm mấu chốt khiến cho những câu chuyện này nghe có vẻ
thật.
Ở những vùng vành đai ngoài Nhật Bản, phải nói rằng sự thay đổi về mùa
diễn ra chỉ một phần nào. Nổi tiếng trong văn chương qua nhiều thời đại, hoa anh
đào thường được thưởng lãm vào cuối tháng ba tới giữa tháng tư. Các học sinh ở
Naha, Okinawa, nơi hoa anh đào nở vào tháng giêng, chẳng hề có kỷ niệm vào về
những trải nghiệm được mô tả trong sách: ngắm hoa anh đào vào tháng ba – tháng
tư. Và các em nhỏ ở Hokkaido, nơi hoa anh đào nở vào tháng năm cũng vậy. Ở
Hokkaido không hề có mùa hè nóng, ẩm và ngột ngạt, cũng như hiện tượng tsuyu
(mùa mưa phùn từ tháng sáu tới tháng bảy), do vậy có thể nói là đặc trưng mùa
màng trong văn hóa Nhật Bản tập trung ở Kanto cho tới phía nam, giảm dần ở
Tohoku – phần lớn phía bắc đảo Honshu – và hâu như không có ý nghĩa ở
Hokkaido, nơi hiện tượng tsuyu không hề xuất hiện. Tương tự, những sắc màu mùa
thu được ca ngợi trong thơ haiku và waka không có hoặc rất ít thấy ở Okinawa. Cái
lạnh buốt giá ở vủng trung tâm hoàn toàn xa lạ với người Okinawa. Hokkaido và
Okinawa – những vùng sáp nhập vào Nhật Bản từ thế kỷ XIX – hầu như không thể
đại diện cho đặc trưng mùa màng trong những minh chứng cho văn hóa vùng trung
tâm Nhật Bản. Những vùng này mãi mãi được xem là vùng ngoại vi, không chỉ là
những điểm cuối của phía bắc và phía nam của đảo quốc này mà còn cả trong tính
chất mùa màng của cấu trúc văn hóa Nhật Bản.
Tiếng Nhật ‘chuẩn’ không hề giống hoàn toàn với phương ngôn ở Tokyo, dù
tiếng Tokyo giống hơi bất kỳ phương ngữ nơi khác. Kể từ khi thành lập chính quyền
hiện đại vào năm 1868, chính quyền đã xác định các giá trị Nhật Bản đích thực, bao
gồm cả ngôn ngữ, và cố gắng đưa vào khuôn khổ những người Nhật Bản ở các vùng
ngoại vi và những người không thuộc sắc tộc Nhật vào khuôn khổ do nhà nước quy
định này. Các em học sinh được yêu cầu phải nói tiếng Nhật chuẩn – ngôn ngữ của
vùng quyền lực trung tâm – bất chấp phương ngữ dùng trong gia đình. Những học
sinh ở Ainu và Okinawa bị cấm dùng ngôn ngữ gốc, rất khác biệt so với tiếng Nhật
Bản, và bị ép buộc phải nói tiếng Nhật ‘chuẩn’, đây là một hiện thực vẫn còn tiếp
diễn tới tận hôm nay.
Cấu trúc văn hóa được định hình từ địa lý này được biểu hiện sự phân biệt đối xử về
mặt xã hội với những người Ainu và Okinawa. Những người Ainu chịu sự phân biệt
đối xử ngay trên miền đất của mình ở Hokkaido, nơi tình hình di dân từ các miền
đảo phía nam đang tăng lên khiến họ nhanh chóng trở thành những nhóm thiểu số
chính trị xã hội, đồng thời văn hóa của họ cũng chỉ được xem như là chứng tích của
quá khứ. Những người Okinawa thì vẫn duy trì số lượng lớn ở Okinawa, nhưng khi
họ di cư tới nước ngoài và tới những hòn đảo phía bắc của Honshu, Kyushu và
Shikoku, họ vẫn là đối tượng bị phân biệt đối xử.
Khi Hokkaido trở thành thuộc địa của Nhật vào thế kỷ XIX, nền nông nghiệp
của đảo bị ảnh hưởng nhiều bởi phương pháp trồng trọt của người Mỹ do chính
quyền Nhật Bản giới thiệu từ buổi đầu của thời kỳ hiện đại. Có những hầm chứa
kiểu Mỹ, guồng nâng, và các công trình nông trại như là những sắc màu chính của
vùng đất này mà người ta không thể thấy ở phía Nam Nhật Bản. Khi người Nhật
Bản hoài vọng về khung cảnh thôn quê, như trong những bài enka, Hokkaido ít khi
được nhắc đến. Thay vào đó là cảnh thôn quê với những cánh đồng lúa nhỏ, những
ngôi nhà cỏ tranh, làng chài trong sâu thẳm tâm thức Nhật Bản được gợi lên. Sự
thiếu vắng Hokkaido trong hình dung về văn hóa Nhật Bản càng nhấn mạnh tình
trạng ngoại vi của vùng này.
Không có gì đáng ngạc nhiên về sự thiếu vắng của Hokkaido trong sự hình
dung về dòng văn hóa chính của Nhật Bản vì vùng này chỉ chính thức thuộc về Nhật
Bản kể từ thời hiện đại. Trừ mũi phía Nam đảo này thuộc sự kiểm soát của gia tộc
Matsumae kể từ thời kỳ Tokugawa, đảo này không thuộc về Nhật Bản cho đến thời
Minh Trị (Meiji).
Trong thời kỳ mở rộng nhất, kéo dài từ năm 1895 tới năm 1945, ‘Nhật Bản’
bao gồm cả Đài Loan, một nửa phía nam đảo Sakhalin, Kuriles, bán đảo Triều Tiên
và Micronesia (Liên Bang Micronesia). ‘Nhật Bản’ thời kỳ này là Nhật Bản đa sắc
tộc và đa văn hóa nhất trong lịch sử Nhật Bản bởi nó bao gồm cả số lượng dân tộc
và chủng tộc của những vùng vừa kể. Tuy nhiên điều này vẫn không ngăn cản các
chính trị gia và những trí thức Nhật Bản tuyên bố Nhật Bản là một dân tộc và có một
nền văn hóa đồng nhất. Trong đó, người Nhật không chỉ ở vùng trung tâm mà còn là
trung tâm của nền văn hóa của họ, và được xem là hiện thân của tinh hoa Nhật Bản.
Chỉ có thể nói rằng đối với những vùng khác thì nơi này được xem là Nhật Bản hàng
thứ, không chỉ vì họ không nói tiếng Nhật mà còn vì họ thiếu nhiều vẻ ngoài cơ bản
của văn hóa Nhật, và hơn nữa là vì tình trạng thuộc địa của họ. Sự khác biệt được
biểu lộ rõ trong sự phân chia từ naichi và gaichi. Naichi có nghĩa là Nhật Bản đích
thực, còn gaichi có nghĩa là các vùng thuộc địa. Tai đã chỉ ra một cách rõ ràng sự
chủ quan trong cơ cấu này trong vương triều Nhật Bản.
Các vùng thuộc địa ngoài được mong đợi là có thể tái hiện Nhật Bản ‘gốc’
càng nhiều càng tốt. Các trường lớp trong thuộc địa của đế quốc dùng tiếng Nhật và
tiếng Nhật là ngôn ngữ dùng trong quản lý điều hành thuộc địa. Điện thờ Shinto
được đưa đến các vùng thuộc địa gaichi với mục đích là ‘Nhật Bản hóa’ họ. Những
ngọn núi lửa ở các gaichi cũng được đặt tên là núi Phú Sĩ này hay núi Phú Sĩ nọ như
là một cách để gợi lại ngọn núi Phú Sĩ ‘thật’ ở trung tâm Nhật Bản. Những người
thuộc địa là ‘người Nhật’ nhưng họ vẫn là người Nhật thứ cấp trong con mắt của
những người Nhật ‘gốc’. Hệ thống phân cấp này trong nghĩa của từ “Nhật Bản” tồn
tại dai dẳng cho tới trước thời kỳ đế quốc năm 1945.
Những gì không thuộc về Nhật Bản
Chúng ta vừa tìm hiểu xem ‘Nhật Bản là gì’ và có thể thấy rằng không nhất
thiết phải xem xét ý nghĩa ‘Nhật Bản là gì’ trong một ý nghĩa tuyệt đối, có chủ thể
và trừu tượng. Hình ảnh Nhật Bản không chỉ được dựng lên bởi người Nhật mà còn
là do những người nước ngoài dựng lên để so sánh với đất nước của họ. Khi bàn
thêm về Những gì không thuộc về Nhật Bản, hình ảnh về Nhật Bản của những
người ngoài được tô điểm nhiều màu sắc bởi mối quan hệ lịch sử giữa đất nước họ
với Nhật Bản.
Hãy xem Nhật Bản từng là gì đối với nước Mỹ, và đối với một số vùng, phần
còn lại của phương Tây. Trước Thế Chiến Thứ Hai, theo một nghĩa nào đó thì Nhật
Bản là một đất nước cổ và đẹp. Hình ảnh Nhật Bản như là Exotica japonica rất phổ
biến ở thế giới phương Tây, đặc biệt là các nghệ sĩ trường phái ấn tượng. Được miêu
tả như một bức chân dung Quý Bà Bươm Bướm Đông Phương – Đông Phương Điệp
Phụ, Nhật Bản được xem như một đất nước hơi ẻo lả, nữ tính đến mức phương Tây
nam tính có thể đối xử bất công một cách vô sự, tương tự như cách mà Mỹ đã làm
vào năm 1853-1854, khi Nhật Bản không thể chống đỡ mối đe dọa quân sự từ
phương Tây – chính sách đe dọa bằng vũ lực của phương hể đoán được Tây. Mặt
khác, hình ảnh Nhật Bản vẽ ra trước mắt nước Mỹ bởi thái độ của người Mỹ đối với
những di dân Nhật Bản, với sự thù địch ngày càng tăng cao do những lời đồn đại về
‘bọn da vàng nguy hiểm’ mang nặng tính phân biệt chủng tộc. Nhật Bản đã đáp lại
thái độ đó bằng sự chống đối tương ứng, dẫn đến cuộc chiến tranh Thái Bình
Dương.
Như John Dower đã mô tả một cách khéo trong cuốn Cuộc chiến không
khoan nhượng, trong Chiến tranh Thế giới Thứ Hai, Nhật Bản được xem như một
đối tượng nguy hiểm chuyên đánh lén. Con khỉ là biểu tượng vật hóa ưa thích mà
người ta dùng để ám chỉ người Nhật Bản. Hơn trong suốt thời kì bị quân Đồng Minh
(bao gồm cả Mỹ) chiếm đóng thời hậu chiến, Nhật Bản được hình dung như một
quốc gia lạc hậu cần cải cách lại mọi khía cạnh của cuộc sống. Nước Nhật lạc hậu bị
chiếm đóng đã được hỗ trợ bởi tri thức Mỹ, bao gồm cả các nhà khoa học chính trị,
ví như, trong thời kì hậu chiến Nhật Bản đã có khuynh hướng ‘dân chủ non nớt’
hoặc ‘hệ thống chính trị một đảng rưỡi’, cứ như thể hệ thống chính trị hai đảng kiểu
Mỹ thì tốt hơn hệ thống ‘một đảng rưỡi’ của Nhật chỉ vì hệ thống của Mỹ cho phép
sự luân phiên thay thế nhau ở vị trí đảng cầm quyền trong khi hệ thống ‘một đảng
rưỡi’ của Nhật thì không. Cũng dễ đoán rằng, ở Liên Bang Soviet, khuynh hướng
Marxist cũng nhìn nhận một hình ảnh nước Nhật lạc hậu, In the Soviet Union,
predictably, the image of a backward Japan was given aMarxist twist, characterising
Japan on the basis of the Marxist evolutionary scheme.
Một cách nhìn thành kiến khác của người Mỹ về vị trí của Nhật Bản là Nhật
Bản đối lập với họ. Như thế, người Mỹ được ho là có tính cá nhân, trong khi người
Nhật Bản có tính cách nhóm tập thể - chủ nghĩa tập thể của Nhật Bản bị đánh giá là
ở tình trạng có giá trị thấp đối với chủ nghĩa cá nhân của Mỹ.
Từ ví dụ đơn giản trên có thể dễ thấy hình ảnh người Nhật đối với phương
Tây khác biệt như thế nào so với hình ảnh Nhật Bản đối với người Trung Quốc hay
người Triều Tiên, từ đó vạch ra và thực hiện chính sách quan hệ quanh co với nước
Nhật. Nhật Bản là những điều gì đó rất không chính xác đối với nhiều quốc gia.
“Văn hóa Nhật Bản”
Bản chất
Cách hiểu truyền thống về văn hóa Nhật Bản bị che khuất bởi ý niệm
Nihonjinron (học thuyết, thảo kiến về người Nhật). Nihonjinron về cơ bản khẳng
định tính duy nhất của văn hóa Nhật Bản và người Nhật, và giải thích sự duy nhất đó
như thế nào. Luận thuyết về sự riêng biệt này bao quát tất cả mọi điều: từ phương
pháp trang điểm sinh học của người Nhật, phát triển văn hóa tiền sử, ngôn ngữ, các
chuẩn tắc văn chương và thẩm mỹ, mối quan hệ nhân tính, và tổ chức xã hội cho tới
triết học và các đặc tính cá nhân. Trong một số công thức của Nihonjinron, những
điểm này đều có tương quan với nhau. Chẳng hạn, Watsuji Tetsuro chỉ ra rằng sinh
thái ảnh hưởng bởi gió mùa của Nhật Bản chi phối nông nghiệp, mô hình định cư, hệ
thống gia đình, và ngay cả các tính cách cá nhân. Những đặc trưng này được thừa
nhận là tồn tại lâu dài xuyên suốt lịch sử Nhật Bản kể từ thời đại xa xưa.
Nhiều học giả phê phán Nihonjinron về việc không thừa nhận tính phức thể
về sắc tộc và văn hóa của Nhật Bản. Còn một thiếu sót quan trọng nữa mà những
phê bình trên chưa chỉ ra đó là các đặc tính của Nhật Bản về mặt bản chất được đề
cập trong Nihonjinron không thể giải thích cho vài trong số những sự kiện quan
trọng nhất trong lịch sử Nhật Bản. Sự chuyển biến lớn đầu tiên của Nhật Bản xảy ra
khi người Trung Hoa được người Triều Tiên giới thiệu. Sự chuyển biến đó bao gồm
cả việc giới thiệu các cấu trúc chính trị phức tạp trong chính quyền, Phật Giáo cạnh
tranh với Shinto giáo, hệ thống chữ viết lần đầu tiên cho phép ghi lại lịch sử cũng
như các thành tựu văn chương, nghệ thuật và kiến trúc lục địa trong trong hình thức
trong những dinh thự lộng lẫy và các công trình điêu khắc Phật giáo tinh tế. Không
có thành quả nào trong số này được ghi nhận như là một phần của văn hóa Nhật Bản
cơ bản.
Thứ hai, thời kì lâu dài ảnh hương bởi người Trung Hoa từ thế kỉ thứ 4 đến
giữa thế kỉ thứ 19 đã được thay thế bởi thời Minh Trị, chịu sự ảnh hưởng từ mạnh từ
phương Tây, nếu không muốn nói là ảnh hưởng mạnh hơn so với ảnh hưởng từ
người Trung Hoa trước đó. Kết quả là, Nhật Bản trở nên Tây phương hóa gần như
hết sức bất ngờ. Lạ thay, Nhật Bản cốt yếu trong Nihonjinron (đang) là một Nhật
Bản thoát khỏi hoàn toàn ảnh hưởng của phương Tây và Trung Hoa. Điểm không
khách quan của sự mô tả các đặc tính đặc trưng ở đây là thiếu đề cập đến lý do làm
cho văn hóa Nhật Bản trở thành nền văn minh qua sự hào phóng của người Triều
Tiên, và bỏ quên lý do làm cho Nhật Bản trở thành một quyền lực công nghiệp trong
thế kỉ 19 và 20 thông qua sự vay mượn từ phương Tây. Việc mô tả đặc tính Nhật
Bản không thể giải thích cho những sự kiện chính trong lịch sử nước Nhật, đó là một
thiếu sót lớn.
Hơn nữa, những người theo bản chất luận nhấn mạnh tính đồng nhất lại
không nhận ra các mẫu thức trong cuộc sống hàng ngày rất đa dạng của những con
người bình thường, như trồng khoai lang, khoai sọ, các loại rau quả, các cây ngũ cốc
khác với gạo như lúa mạch, lúa mì, kê. Ngay cả nghư nghiệp, một lối sống đặc trưng
thôn dã cũng bị họ lờ đi mà thiên về trồng lúa, bất chấp tầm quan trọng thiết yếu của
những sản phẩm biển trong thực đơn thường ngày ở Nhật. Sự thiếu sót nữa trong
bản chất Nhật Bản là sự đa dạng các kiểu văn hóa vùng miền, như phong cách kiến
trúc, trang phục, lễ nghi như đám cưới và tang ma, thực phẩm và nghệ thuật nấu ăn,
và sự đa dạng phương ngữ. Sự khác biệt ngôn ngữ giữa các vùng là rất lớn và còn
tồn tại tới tận ngày nay, chứ không chỉ trong thời đại Meiji. Những khác biệt này
hoàn toàn bị lờ đi và người ta chỉ chú ý đến ‘tiếng Nhật chuẩn’, hay hyojungo (hiện
được thay thế bởi kyotsugo, nghĩa là ‘ngôn ngữ đại chúng’), được xem là ngôn ngữ
chung đối với tất cả người Nhật. Nhưng trong thực tế, kyotsugo là một lớp vỏ ngoài
bên trên các phương ngữ vẫn còn đầy sức sống và là lối nói được ưa chuộng để biểu
lộ sự thân tình và niềm tự hào địa phương.
Như vậy, một Nhật Bản được bản chất hóa là một Nhật Bản được chuẩn hóa
với các đặc tính đồng nhất mà không có sự đa dạng nội tại. Nhật Bản này là sự thành
lập một chính quyền trung tâm trên quy mô rộng lớn kể từ thời đại Minh Trị, với
khuynh hướng tạo ra một quốc gia hợp nhất, đồng dạng và thuần nhất. Nhật Bản
được bản chất hóa này là một cộng đồng được hình dung khác xa với thực tế mà
quốc gia này đang hiện diện.
Giải bản địa hóa/tái bản địa hóa
Qua nhiều năm, văn hóa Nhật Bản đã lan ra khắp mọi ngóc ngách trên thế
giới. Sự lan truyền này diễn ra theo hai hướng riêng, một thông qua sự di cư của
người Nhật và hướng kia thông qua sự khuếch tán độc lập. Lần di cư sớm nhất trong
thời hiện đại diễn ra vào năm 1868 khi những công nhân đồn điền Nhật Bản đến
Hawai’i. Tiếp đó là những chuyến di dân đến Bắc Mỹ rồi Nam Mỹ. Cùng với quá
trình di dân đến châu Mỹ đang diễn ra, những công dân Nhật Bản khác rời quê
hương đến Micronesia, Úc, lục địa Á châu và Đông Nam Á. Những người Nhật di
dân, họ nhất thiết mang theo nền văn hóa của mình. Hơn một triệu người Nhật Bản
đang sống ở hải ngoại trước khi Nhật Bản thúc thủ vào năm 1945. Cộng đồng người
Nhật hải ngoại lớn nhất là ở Đông Á – Trung Quốc, Singapore và Phillipines – và bờ
tây của Bắc Mỹ. Tuy vậy, Gần như tất cả họ đều hồi hương khi Nhật Bản bại trận
trong Thế Chiến Thứ Hai, ngoại trừ những những người ở Bắc và Nam Mỹ. Những
cộng đồng này có các trường học Nhật Bản, đền thờ Phật Giáo, điện thờ Shinto giáo,
cửa hàng bán lẻ hàng hóa Nhật Bản, các doanh nghiệp lớn, các tổ chức công dân,
nhóm cùng sở thích.v..v… Trong mọi trường hợp, ngôn ngữ giao tiếp của họ đều là
tiếng Nhật. Cũng có những cộng đồng ghép giữa người Nhật Bản và người sắc dân
khác: đó là sự mở rộng Nhật Bản.
Sau chiến tranh, chính quyền Nhật Bản tiếp tục chương trình di dân để giảm
bớt dân số và các khó khăn kinh tế. Lần di dân này khá lớn và hướng đến Nam Mỹ.
Khi làn sóng di dân này giảm dần vào những năm 1960, quá trình toàn cầu hóa kinh
tế thời hậu chiến của Nhật Bản bắt đầu nghiêm túc hơn, họ xuất khẩu nhiều hàng
hóa và thiết lập văn phòng đại diên của các công ty trên khắp thế giới. Các doanh
nhân được phái đi điều hành những văn phòng ở hải ngoại, và gia đình họ cũng theo
cùng. Nhờ việc đi lại và sinh sống ở nước ngoài dễ dàng hơn, những người Nhật
Bản khác bắt đầu đi đến nhiều vùng trên khắp thế giới, trong đó đáng kể là những
khu vực có nhiều các văn phòng công ty Nhật Bản tập trung lại, và định cư ở đó.
Năm 2006, số người Nhật Bản cư trú ở hải ngoại lại một lần nữa vượt qua mức một
triệu người. Trong những khu vực này, di dân Nhật Bản bắt đầu kinh doanh ăn uống
công cộng, theo kiểu gia đình hoặc cùng những người đồng hương. Ở đây, một lần
nữa trong tình hình hậu chiến cũng như tiền chiến, các cộng đồng người Nhật lại nổi
lên, hoàn tất những cơ sở của Nhật Bản như trường học, nhà hàng, cửa hàng rau quả,
phòng khám chữa bệnh, gara xe hơi, các cơ sở kinh doanh thực thụ và các hãng vận
tải. Năm 2006, có 16 thành phố ở nước ngoài là nhà của hơn 10000 người Nhật tại
mỗi thành phố. Trong đó bao gồm Bangkok, Hong Kong, London, Los Angeles,
New York, Paris, Shanghai và Singapore. Tiếng Nhật lại là phương tiện giao tiếp
chính yếu trong tất cả những cộng đồng này.
Những cộng đồng tiền và hậu chiến này đều là dành cho Nhật Bản. ‘Nhật
Bản’ trong ý nghĩa cổ điển đã được giải-bản địa hóa và tái-bản địa hóa để kết hợp
chặt chẽ với nhiều vùng mở rộng ở hải ngoại. Văn hóa Nhật Bản được giới thiệu lại
ở những cộng đồng này, với nhiều mức độ điều chỉnh khác nhau để thích nghi với
hoàn cảnh từng địa phương.
Bên cạnh sự phát tán văn hóa thông qua quá trình di dân, việc truyền bá văn
hóa cũng xảy ra qua những phương tiện độc lập khác, do sự thúc đẩy từ sở thích và
nhu cầu của người nước ngoài đối với nhiều thứ của Nhật Bản. Như đã nói ở trên, từ
cuối thế kỉ 19 chúng ta đã quen thuộc với việc những nghệ sĩ trường phái ấn tượng
của Pháp thích thú nghệ thuật Nhật Bản, đặc biệt là ukiyoe, hay in khắc gỗ từ thời
Edo. Thời kì này cũng có nhiều đồ gốm xuất khẩu sang châu Âu với số lượng lớn.
Hàng hóa sản xuất tại Nhật bắt đầu được bán ở nước ngoài từ giữa thời kì Minh Trị
về sau. Ban đầu hàng hóa của Nhật bị xem là rẻ và có chất lượng thấp. Nhưng dần
dần, sau chiến tranh, những hàng hóa này được thay thế bởi những sản phẩm công
nghiệp chất lượng cao – từ xe hơi cho đến đồ điện tử - tạo nên danh tiếng của Nhật
Bản về chất lượng công nghệ xuất sắc. Cũng trong những năm 1950-1960, Nhật Bản
tận hưởng sự nổi tiếng hơn nữa nhờ các phim mới mẻ, như các phim của Kurosawa
và Ozu. Mặc dù khuynh hướng đó không tồn tại được lâu nó cũng đã kịp tạo cho
Nhật Bản danh tiếng trong lĩnh vực văn hóa đại chúng. Đây cũng là tiền đề cho sở
thích về văn hóa Nhật Bản nổi lên ở châu Á và châu Mỹ kể từ những năm 1990, tập
trung và manga, anime, karaoke, ẩm thực – đặc biệt là sushi và mì ăn liền – trò chơi
máy tính, nghệ thuật cắm hoa và nghi thức trà đạo.
Sự truyền bá tôn tín ngưỡng Nhật Bản, đặc biệt là Thiền, cũng rất đáng chú ý.
Hầu hết các tôn giáo ở Nhật Bản cũng theo chân người Nhật di dân, thiết lập vị trí
của chúng ở cộng đồng Nhật Bản hải ngoại. Nhưng Thiền và những thứ tạm gọi là
‘tôn giáo mới’ như Sukyo Mahikari, Sekai Kyusei Kyo và Soka Gakkai
International, hơn nữa lại đi theo một cách khác, lan rộng khắp những cộng đồng
không phải người Nhật ở nước ngoài dù thỉnh thoảng cũng có sự trợ giúp ban đầu
của các di dân người Nhật hoặc các guru từ Nhật Bản.
Điều ta thấy ở đây là sự sụp đổ của công thức: văn hóa Nhật = đất Nhật. Phép
đẳng cấu này thừa nhận trong thuyết đồng nhất về nền văn hóa Nhật Bản không còn
được duy trì, nếu trước đây nó từng tồn tại. Kể từ thời Minh Trị, văn hóa Nhật Bản
đã được giải-bản địa hóa và lan tỏa khắp thế giới. Quá trình phân bổ mới của văn
hóa Nhật Bản cũng đã tái-bản địa hóa khái niệm phạm vi hóa Nhật Bản.
‘Người Nhật’
Cách tiếp cận truyền thống đối với câu hỏi người Nhật Bản là ai để xác định
họ trong một dạng tiêu chuẩn khách quan, như sự sáp nhập, khả năng ngôn ngữ và
văn hóa. Một người sinh ở Nhật, có cha mẹ là người Nhật, là một người nói tiếng
Nhật tự nhiên, tiêu biểu cho văn hóa Nhật Bản thông qua các quá trình hội nhập văn
hóa và xã hội hóa từ lúc mới sinh ra được xem là người Nhật ‘thuần’ hay người Nhật
‘điển hình’; những người thiếu một hoặc nhiều hơn so với toàn bộ những tính chất
trên được đánh giá là ‘người chưa đủ tiêu chuẩn’ đối với một số mức độ nhất định.
Tuy vậy nhiều kiểu người cũng là người Nhật trong một nghĩa nào đó và không là
người Nhật trong một ý nghĩa khác. Bác bỏ mọi cách nghĩ trên là điều quá phiến
diện và không công bằng đối với những người tự xem mình là người Nhật. Bây giờ
chúng ta sẽ thử xem xét một và trường hợp.
Người Triều Tiên và người Trung Quốc ở Nhật Bản
Cấu trúc naichi/gaichi trước năm 1945 vẫn còn ngầm tồn tại sau chiến tranh
bởi sự khác biệt riêng giữa ‘người Nhật Bản’ và những người khác, những người có
thể bị phân biệt đối xử. Hơn một triệu người dòng dõi Triều Tiên và Trung Quốc đã
phải sống dưới chế độ naichi lúc chiến tranh kết thúc. Những người này là người
Nhật Bản theo nghĩa hợp pháp miễn là họ đến từ bán đảo Triều Tiên và Đài Loan.
Mặc dù nhiều người đã hồi hương vào lúc chiến tranh đi vào hồi cuối, hầu hết họ
vẫn còn ở lại Nhật Bản. Một cách hợp pháp, họ được giữ những tình trạng giống
như bất kì người Nhật Bản nào sau chiến tranh. Tuy nhiên, thái độ thành kiến sau
khi bại trận đối với họ vẫn còn tiếp tục. Trạng thái lấp lửng về tình trạng hợp pháp
người Nhật và còn cả tình trạng xã hội ngoại bang (gaichi) kéo dài cho tới khi hiệp
ước hòa bình được kí vào năm 1952, thời điểm mà người gốc Triều Tiên và Trung
Hoa được gỡ bỏ khỏi tình trạng người Nhật hợp pháp. Thực sự là họ hoàn toàn chấm
dứt là người Nhật từ thời điểm đó? Không hẳn vậy. Hãy tiếp tục tìm hiểu vài trường
hợp cụ thể sau.
Sống như người Nhật: Trong thời kì thuộc địa, và trong giai đoạn sau của thế
kỉ 20, nhiều người Triều Tiên ở Nhật mang những cái tên Nhật Bản. Vì bề ngoài họ
chẳng hề phản bội nguồn gốc dân tộc của mình, nên với cái tên Nhật Bản họ có thể
sống dễ dàng như một người Nhật trong những việc hàng ngày, như mua sắm, học
hành, giao dịch ngân hàng, đồng thời nhờ đó tránh được sự phân biệt đối xử bởi
những người Nhật Bản khác trong hầu hết những tình huống hàng ngày. Một số
người đã thật sự thành công và hiệu quả trong việc hòa nhập hoàn toàn vào những
người Nhật Bản gốc, họ không bị nhìn ra và cũng không muốn bị nhìn ra. Họ tiếp
tục sống trong tình trạng không thoải mái mà không cần phải muốn là người Nhật
Bản nhưng phải cố gắng thể hiện như người Nhật, đôi khi họ muốn giữ lại tình trạng
người Triều Tiên theo pháp lí. Chúng ta phải nhìn nhận gì về những cá nhân này khi
xem xét ý nghĩa của ‘người Nhật’? Trong một chừng mực nào đó khi nhìn nhận rằng
họ là người Nhật Bản, ít nhất là trong một số tình huống, họ là người Nhật Bản đối
với những người khác trong những tình huống đó.
Phụ nữ Nhật kết hôn với người Triều Tiên: Năm 1952, khi chính quyền Nhật
Bản lấy đi tình trạng người Nhật hợp pháp của những người Triều Tiên cư trú tại
Nhật, những phụ nữ Nhật Bản kết hôn với người Triều Tiên cũng tự động bị mất
quyền lợi là người Nhật hợp pháp của họ. Các phụ nữ Nhật này về mặt sinh học là
người Nhật Bản, do cha mẹ người Nhật sinh ra, nói tiếng Nhật một cách tự nhiên, và
mang trong mình văn hóa Nhật Bản. Có thể thật sự gọi nói rằng họ ‘không phải
người Nhật’ chỉ bởi vì hôn nhân của họ đã khiến họ không còn ở trong ý nghĩa pháp
lý?
Trẻ em Triều Tiên sống ở Nhật Bản: thời gian trôi qua, những trẻ em sinh ra
từ những cuộc hôn nhân dị chủng và cả những cuộc hôn nhân của những người
Triều Tiên bắt đầu lớn lên với nhiều mức độ đặc tính và sự lĩnh hội văn hóa Triều
Tiên khác nhau. Một số không còn giữ lại những di sản văn hóa Triều Tiên nữa –
không có khả năng ngôn ngữ và sự hiểu biết về văn hóa Triều Tiên – đặc biệt là nếu
cha mẹ của chúng ‘sống’ như người Nhật. Cách sống của họ hoàn toàn là người
Nhật. Chỉ còn cái tên, nếu họ còn giữ lại, phản bội lại di sản Triều Tiên của họ. Ông
Chung Daekyun ở đại học Tokyo Metropolitan xác nhận rằng những người Triều
Tiên này đã tự nhiên hóa và chính thức trở thành người Nhật vì họ ‘gần như là người
Nhật’ trừ sự công nhận tình trạng của pháp luật và có thể là cả vì cái tên của họ.
Công dân song tính: khi nguyên tổng thống Peru, ông Alberto Fujimori, từ bỏ
sự nghiệp và từ chức khi ông đang ở Nhật Bản, chính quyền Nhật Bản đã cho phép
ông ở lại. Chính phủ Nhật biện hộ cho hành động của mình bằng cách giải thích tư
cách công dân Nhật Bản của ông Fujimori, bên cạnh tư cách công dân Peru của ông
này. Ông Fujimori có phải người Nhật? Trong chuyến bỏ về Nhật của mình, ông là
người Nhật, bất chấp quy định pháp lý rằng bất kỳ người Nhật nào có tư cách công
dân song song đều phải từ bỏ một trong hai tình trạng đó trước tuổi 22. Do đó
Fujimori đã phải từ bỏ tư cách công dân Peru trước khi được phép chọn nơi ẩn náu
tại Nhật như là một công dân Nhật Bản.
Thông thường, một người Nhật Bản không phải là một người nước ngoài và
một người nước ngoài không phải là người Nhật Bản. Đây là những cách phân loại
riêng lẫn nhau. Nhưng trước chiến tranh, thường thì những di dân người Nhật Bản ở
Bắc và Nam Mỹ đăng kí con cái của họ với với tòa đại sứ ngoại giao địa phương để
các em được nhập tư cách Nhật Bản thông qua luật Nhật Bản jus sanguinis (tư cách
công dân dựa trên dòng dõi hoặc huyết thống) ngoài ra để có tư cách công dân địa
phương ở nước sở tại mà họ đang di trú thông qua jus solis (tư cách công dân phụ
thuộc nơi sinh). Cũng từ sau chiến tranh, khoảng mười ngàn doanh nhân Nhật Bản
cùng gia đình đã được phái đi nước ngoài, tạo nên một tính khác thường hợp pháp
đối với hàng ngàn trẻ em sinh bởi cha mẹ người Nhật, phải tồn tại ở những nước
theo jus solis như Mỹ chẳng hạn.
Những cá nhân có tư cách công dân song tính cũng được xem là người Nhật
một cách hợp pháp, mặc dù theo khía cạnh tâm lý học hoặc văn hóa thì họ cảm thấy
họ là người Nhật trong mức độ nào là một câu hỏi khác. Một vài người, như những
người Mỹ gốc Nhật (nisei) thế hệ thứ hai thời tiền chiến có ít đặc trưng người Nhật,
trong khi đó thì những người khác, chẳng hạn như con cái của các doanh nhân Nhật
Bản sinh ở nước ngoài trong mấy thập kỉ gần đây, được khẳng định đặc tính Nhật
Bản một cách nhiệt tình hơn bất kì người Nhật Bản nào khác. Có người không thể
quyết định, trong khi những người khác vui vẻ đóng hai vai trò ở những mức độ
khác nhau. Suốt chiến tranh, nhiều người Mỹ gốc Nhật là công dân song tính sinh
sống ở Nhật Bản, thậm chí nhập ngũ tham gia vào quân đội Nhật Bản với tư cách
công dân Nhật Bản để chiến đấu với đất nước mà họ đồng thời cũng là công dân.
Tự nhiên hóa, giải-tự nhiên hóa: như đã nói, chính quyền Nhật Bản yêu cầu
những người có tư cách công dân song tính phải từ bỏ một trong hai tư cách đó
trước 22 tuổi. Tuy nhiên, không có cách nào có thể the dõi hết những người có hai tư
cách công dân, luật này coi như vô nghĩa. Khoảng 500 người Nhật từ bỏ tư cách
công dân của họ mỗi năm và trở thành những công dân tự nhiên của những đất nước
khác. Họ hoàn toàn là những người người Nhật theo tính cách văn hóa và ngôn ngữ
mà họ có nhưng sự xác định của chính quyền, chỉ sau một đêm họ trở thành người
phi-Nhật Bản. Những người hàng xóm, ở Australia, vẫn tiếp tục tự xem như ‘người
Nhật’ kể cả khi về mặt pháp lý là không phải như vậy.
Trong khi những người Nhật khác ‘chối bỏ’ Nhật Bản, khoảng 15000 người
nước ngoài trở thành người Nhật tự nhiên mỗi năm. Hầu hết họ đều có ít nhất vài
chỗ lõm bõm về văn hóa Nhật, trong mức độ đầy đủ của từ văn hóa Nhật. Có những
người với vẻ ngoài là người da trắng và chỉ với một ít đặc tính văn hóa và ngôn ngữ
Nhật họ trở thành người Nhật hợp pháp chỉ trong một đêm.
Trẻ mồ côi người Nhật và phụ nữ ở và đến từ Trung Quốc: Vào thời kì gần
cuối Thế Chiến Thứ Hai, Liên Ban Soviet đã xâm chiếm vùng Đông Bắc Trung
Quốc, nơi hàng trăm, hàng ngàn người Nhật Bản định cư. Quan đội Nhật bỏ cuộc,
họ phải tự dựa vào những phương tiện sơ sài của chính mình để bỏ trốn và hồi
hương. Hầu hết đều là phụ nữ và trẻ em, vì có thể hình dung là tất cả đàn ông đều
nhập ngũ. Với đói khát, thiếu ăn và bệnh tật, nhiều trẻ em nếu sống sót được đã
được các gia đình Trung Quốc nhận làm con nuôi, hoặc bị bán, hoặc bỏ mặc để
người Trung Quốc mang đi. Một số phụ nữ, không thể đương đầu với những khó
khăn, trao thân mình cho người Trung Quốc và kết hôn với họ. Không ai biết chính
xác có bao nhiêu người còn ỏ đó, hoặc họ đang sống ra sao. Một số có lẽ đang sống
như người Trung Quốc, hoàn toàn che đậy nguồn gốc Nhật Bản của họ vì e ngại
mức độ phân biệt chủng tộc đối với mình. Họ vẫn biết mình là người Nhật Bản. Mặc
khác, những trẻ em được đưa vào các gia đình Trung Quốc từ lúc còn rất nhỏ thì lại
không nhận biết về nguồn gốc Nhật Bản của mình, trừ khi cha mẹ nuôi của chúng
nói rõ nguồn gốc chúng. Hầu hết trẻ em mồ côi đó giờ đây đều đã kết hôn và có con
riêng thậm chí là cháu nội/ngoại, và hầu hết phụ nữ đều đã già. Quá trình hồi hương
chậm chạp và trắc trở của những người Nhật bị bở rơi ở Trung Quốc chỉ bắt đầu sau
khi mối quan hệ ngoại giao Trung-Nhật hồi phục năm 1972.
Khi những người hồi hương về đến Nhật Bản, khoảng 30-40 năm sau đã trôi
qua, nhiều người không còn biết bất cứ từ tiếng Nhật nào và mất hết tri thức về văn
hóa Nhật Bản. Phần lớn họ không có hoặc không thể tìm thấy những giấy tờ hợp
pháp để chứng minh tình trạng là người Nhật hợp pháp, nhưng họ đều tự nhận mình
là người Nhật Bản. Không có bằng chứng thật sự, tuy nhiên chính quyền Nhật Bản
bất đắc dĩ đồng ý cấp quyền công dân Nhật cho họ. Vậy họ cũng là người Nhật ở
một ý nghĩa nào đó cũng không phải là người Nhật ở ý nghĩa khác. Còn con cái của
những người Nhật từng là trẻ mồ côi ngày xưa đã lập gia đình với người Trung
Quốc, giờ trở về Nhật cùng với cha mẹ thì sao? Họ cũng là những người Nhật Bản
hợp pháp nếu một trong hai người cha mẹ có thể xin được tư cách công dân Nhật
Bản hợp pháp, nhưng về mặt sinh học họ cũng chỉ là một nửa người Nhật Bản, còn
về mặt văn hóa thì họ hoàn toàn là người Trung Quốc. Những người hàng xóm Nhật
Bản gọi họ là zanryu koji (bọn trẻ mồ côi bị bỏ rơi) hay zanryu fujin (những người
phụ nữ bị bỏ rơi) chứ không xem là ‘người Nhật thông thường’. Kimiko Yamada,
một người phụ nữ vẫn còn ở Trung Quốc nói rằng “ở Trung Quốc họ gọi chúng tôi
là người Nhật, còn ở Nhật thì họ gọi chúng tôi là người Trung Quốc.”
Vấn đề tương tự vẫn còn với những ai vẫn đang ở Trung Quốc. Không còn
dấu hiệu ngôn ngữ, dấu hiệu văn hóa nào, sự thừa nhận là người Nhật Bản chỉ là về
từ ngữ hoặc từ người cha mẹ nuôi. Chính quyền Nhật Bản từ chối không công nhận
tư cách hợp pháp của họ mặc cho họ có thể đưa ra bằng chứng xác thực. Nhưng sâu
thẳm bên trong, dù có đúng lý hay không, họ biết họ là người Nhật Bản.
Cha mẹ song tịch: Tới tận ngày nay, một đứa trẻ là người Nhật hợp pháp hay
không phụ thuộc vào cha mẹ của nó. Nếu cha là người Nhật, đứa con vẫn là người
Nhật; nếu cha không phải người Nhật thì đứa bé không thể là người Nhật. Một đứa
bé sinh bởi người mẹ Nhật Bản lớn lên ở Nhật Bản, nói tiếng Nhật tự nhiên, và hoàn
toàn hòa nhập văn hóa với nền văn hóa Nhật Bản vẫn bị xem là người ngoại quốc
(hoặc không có tình trạng hợp pháp, nếu người cha sinh học không thừa nhận tư
cách phụ huynh), ngược lại một đứa trẻ khác do người cha Nhật sinh ra, sinh trưởng
ở nước ngoài, không có bất kì khả năng ngôn ngữ hay văn hóa Nhật Bản nào, lại dù
sao vẫn là người Nhật hợp pháp. Với sự thay đổi pháp lý gần đây, bất chấp giới của
phụ huynh, đứa trẻ của một cuộc hôn nhân song-tịch vẫn có thể có được tư cách
công dân Nhật Bản. Nghĩa là một đứa trẻ từng không thể là người Nhật do tư cách
công dân nước ngoài của cha nó giờ đây lại là người Nhật chỉ đơn giản vì những
thay đổi pháp luật.
Từ đó những quy định pháp luật có thể mang lại kết quả là tư cách pháp lý
quyền lợi đầy đủ (như phúc lợi xã hội hay bảo hiểm y tế) ở Nhật Bản bởi chính
quyền Nhật cho một đứa trẻ nào đó và lại không dành cho một đứa trẻ khác. Những
hàng xóm có thể đối xử một người hoàn toàn xã hội hóa trong nền văn hóa Nhật Bản
như là một thành viên người Nhật, và một người không được xã hội công nhận vì là
người nước ngoài, bất chấp tình trạng hợp pháp của anh/cô ta.
Tương tự, bất chấp sự công nhận của chính quyền Nhật Bản, những trẻ em
sinh ra từ những cuộc hôn nhân mang tính quốc tế, đặc biệt là những hôn nhân phichâu Á, bị tách ra khỏi đám đông và chịu đựng định kiến cũng như phân biệt đối xử
vì vẻ ngoài người ngoại quốc của họ. Về mặt ngôn ngữ, những từ có ý nghĩa không
mong đợi như ainoko (máu lai), gaijin (người nước ngoài) và amerikajin được ném
vào họ. Ở đây có sự đương đầu với vấn đề bài ngoại của người Nhật, những người
không thể chấp nhận những kẻ ‘không giống chúng ta’ như một thành viên Nhật,
ngay cả khi họ là người Nhật hợp pháp.
Để kết thúc phần người ‘người Nhật Bản’ này, câu hỏi là người Nhật Bản hay
không không phải là một câu hỏi không đơn giản là miễn cưỡng trả lời ‘yes’ hay
‘no’. Phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh đa dạng, câu trả lời có thể rõ ràng dứt khoát là
‘phải’, dứt khoát là ‘không’ câu trả lời nước đôi ‘có và không’, câu trả lời mơ hồ ‘có
thể có có thể không’, hoặc cuối cùng là ‘nó phụ thuộc vào’. Tự nhân thức (hoặc tự
xác định tính) có thể khớp hoặc không trùng với nhận thức của người khác. Tự xác
định cũng đa dạng là có thể không được chấp nhận như vậy.
Lãnh thổ Nhật Bản đã mở rộng và co lại, những người định cư trên vùng đất
đó vì thế được công nhận và rồi lại đánh mất, là của người Nhật rồi lại bị bỏ rơi. Thứ
bậc của người Nhật luôn là một đặc điểm nổi bật trong hoàn cảnh này: một số một
được xem là hơn cả người Nhật so với những người khác. Có ít hơn những người
Nhật được mong đợi cạnh tranh và đạt được, nếu có thể, những đặc tính của người
Nhật gốc. Những người không thể, do lý do sinh học (máu lai) hoặc lý do văn hóa
(không có khả năng nói tiếng Nhật chuẩn), mãi mãi bị kết án là tầng lớp hạng hai.
- Xem thêm -