Tiến trình thực hiện tự do hóa tài chính ở Việt
Nam
Tự do hóa tài chính là quá trình giảm thiểu sự kiểm
soát của Nhà nước đối với hoạt động của hệ thống tài
chính quốc gia, làm cho hệ thống này hoạt động tự do hơn
và hiệu quả hơn theo quy luật thị trường. Đây là một xu
thế tất yếu cho sự phát triển kinh tế của một nước và Việt
Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Thực hiện công
cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng từ
năm 1986, nền kinh tế Việt nam từng bước chuyển sang
hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Việt Nam đang
trên đường tiến tới tự do hóa tài chính hoàn toàn. Ở đây ta
xét tự do hóa tài chính theo hai hướng, đó là:
-Tự do hóa tài chính trong nước : tức là sẽ cho phép các
tổ chức tài chính trong nước tự do thực hiện các dịch vụ
tài chính theo nguyên tắc thị trường, các thị trường tài
chính trong nước được khuyến khích phát triển, các công
cụ chính sách tiền tệ được điều hành theo tín hiệu thị
trường. hay ta có thể nói rõ hơn là xóa bỏ kiểm soát lãi
suất và phân bổ tín dụng.
-Tự do hóa tài chính với nước ngoài :bao gồm tự do
hóa giao dịch vãng lai và tự do hóa giao dịch vốn hay nói
cách khác tự do hóa tài chính với nước ngoài là loại bỏ
kiểm soát vốn và các hạn chế trong quản lý ngoại hối.
Lộ trình tự do hóa tài chính trong nước
Trước năm 1990
HTNH Việt Nam theo mô hình một cấp NHNN vừa
làm chức năng kinh doanh vừa quản lý. Hoạt động của
NHNN không hiệu quả, nó mang nặng tính chất bao cấp
nên không kích thích đầu tư và nền kinh tế chưa đủ lực để
phát triển. Tuy nhiên một cải cách mới của HTNH Việt
Nam với sự ra đời của Pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước
và Pháp lệnh về Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công
ty tài chính (tháng 5/1990) đã đưa đến việc hình thành hệ
thống ngân hàng 2 cấp. Theo đó, các NHTM thực hiện
nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ và cung cấp các dịch vụ ngân
hàng; NHNN thực hiện chức năng quản lý Nhà nước và
chức năng NHTW.
Trong Giai đoạn trước tháng 6/1992
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) can thiệp ở mức độ
cao và trực tiếp vào lãi suất thông qua ấn định các mức lãi
suất tiền gửi (LSTG) và lãi suất cho vay (LSCV). Cơ chế
lãi suất âm và mang nặng tính chất bao cấp được duy trì
suốt thời kỳ này với:
- LSCV đối với DNNN < LSCV đối với DN ngoài
quốc doanh;
- Lãi suất danh nghĩa < tỷ lệ lạm phát;
- LSCV ngắn hạn > LSCV dài hạn;
- LSTG tiết kiệm > LSTG của các tổ chức kinh tế.
Tình trạng này làm cho lãi suất không thực hiện được
chức năng vốn có của nó; lãi suất không còn là đòn bẩy
kích thích nhu cầu gửi tiền của công chúng, phát huy tính
hiệu quả trong quá trình sử dụng vốn và đảm bảo lợi
nhuận cho ngân hàng.
Trong Giai đoạn 6/1992 – 1995
NHNN đã có nhiều bước điều chỉnh trong điều hành
chính sách lãi suất:
- Chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi
suất thực dương
- Xoá bỏ về cơ bản sự chênh lệch lãi suất cho vay
giữa các thành phần kinh tế.
- NHNN cho phép Ngân hàng thương mại (NHTM)
được thoả thuận lãi suất với khách hàng (áp dụng trong
trường hợp huy động vốn bằng phát hành kỳ phiếu- lãi
suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ
hạn 0,2%/tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/
tháng)
Sự thay đổi từ việc ấn định các mức lãi suất cụ thể
sang quy định trần và sàn lãi suất, cho phép các TCTD
chủ động, tự quyết định mức lãi cụ thể của đơn vị mình là
bước chuyển biến quan trọng để tiến tới quá trình tự do
hoá lãi suất, hạn chế đến mức thấp nhất sự can thiệp trực
tiếp của NHNN vào hoạt động của NHTM.
Mặc dù vậy, cơ chế này vẫn khống chế trực tiếp lãi
suất trên thị trường, làm giảm tác dụng kích thích và điều
tiết hoạt động kinh doanh của các ngân hàng.
Trong Giai đoạn từ năm 1996 đến tháng 7/2000
NHNN tiếp tục ấn định mức lãi suất tái cấp vốn và có
những đổi mới căn bản về điều hành lãi suất:
- Thay vì qui định khung lãi suất tối thiểu về tiền gửi,
lãi suất tối đa về tiền vay, NHNN chỉ qui định các mức lãi
suất “trần” theo thời hạn cho vay và khống chế chênh lệch
giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân
là 0,35%/tháng (4,2%/năm) để khắc phục tình trạng hầu
hết các ngân hàng thương mại đều có mức lợi nhuận cao
trong khi các doanh nghiệp lại gặp khó khăn về tài chính
(khi thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận ở giai đoạn
trước).
- Đến cuối tháng 1/1998, NHNN xoá bỏ qui định
chênh lệch lãi suất, chỉ còn qui định trần lãi suất cho vay.
- Trong năm 1997, NHNN đã thay đổi hình thức qui
định lãi suất tái cấp vốn, chuyển sang qui định mức lãi
suất cụ thể. Mức lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh
giảm xuống trong thời gian này (từ 1,1% năm 1997 xuống
0,7%/tháng từ 4/9/ 99) để phù hợp với chỉ số lạm phát.
- Để bổ sung thêm công cụ điều hành lãi suất, tháng
11/1999 NHNN đưa vào sử dụng nghiệp vụ chiết khấu, tái
chiết khấu giấy tờ có giá cho các NHTM. Lãi suất tái
chiết khấu được qui định ở mức thấp hơn 0,05%/tháng so
lãi suất tái cấp vốn;
- Tháng 7/2000, NHNN đưa vào sử dụng nghiệp vụ
thị trường mở, lãi suất thị trường mở được hình thành qua
các phiên giao dịch.
Việc điều chỉnh chính sách lãi suất như trên nhằm tiến
tới việc duy trì một trần lãi suất cho vay, tạo điều kiện để
áp dụng mức lãi suất cơ bản và từng bước tự do hoá lãi
suất, mặt khác nhằm mục đích kích cầu thúc đẩy đầu tư và
tiêu dùng.
Trong giai đoạn từ giữa năm 2000 đến nay
- Vào tháng 8 năm 2000, NHNN đưa ra một cơ chế
lãi suất mới trong đó lãi suất cho vay nội tệ của ngân hàng
được điều chỉnh theo lãi suất cơ bản do NHNN. Tuy
nhiên, các ngân hàng không được tính lãi suất cho vay
vượt quá lãi suất cơ bản + 0,3%/tháng đối với vốn ngắn
hạn và + 0,5%/tháng đối với vốn trung, dài hạn.
- Từ tháng 8.2000 đến tháng 5.2001 áp dụng cơ chế
lãi suất cơ bản, nghĩa là Ngân hàngNhà nước sẽ công bố
lãi suất cơ bản và biên độ dao động cho phép trên cơ sở
đó ngân hàng thương mại sẽ quyết định lãi suất kinh
doanh của mình.
- Từ tháng 6.2001 đến tháng 5.2002 áp dụng cơ chế
lãi suất cơ bản đối với đồng Việt Nam và lãi suất thị
trường đối với ngoại tệ (USD).
- Vào tháng 11/2001, trần lãi suất cho vay ngoại tệ
được xóa bỏ, từ đó cho phép những người vay ngoại tệ
trong nước có thể thương lượng lãi suất với các ngân hàng
nội địa và ngân hàng nước ngoài.
- Vào tháng 6/2002, lãi suất được tự do hóa hoàn toàn
với việc các ngân hàng được phép xác định lãi suất cho
vay trên cơ sở tự thẩm định và thương lượng với khách
hàng.
Qua việc xem xét lộ trình Việt Nam tự do hóa tài
chính trong nước thì ta thấy Việt Nam đã nỗ lực hết mình
cho nền kinh tế mặc dù vẫn chưa tự do tài chính trong
nước hoàn toàn do bởi còn nhiều nguyên nhân khiến tài
chính trong nước vẫn còn sự quản lý của nhà nước nhưng
trong tương lai gần chúng ta sẽ thực hiện được sự giảm
thiểu đến mức tối đa sự can thiệp của nhà nước và hoàn
toàn các hoạt động tài chính là theo cơ chế thị trường.
Lộ trình tự do hóa tài chính ngoài nước
Chính sách quản lý ngoại hối trong lĩnh vực đầu tư
nước ngoài: Trước đây các DN FDI phải tự cân đối ngoại
tệ trong kế hoạch thu, chi cuả mình và không được phép
mua ngoại tệ tại các ngân hàng (trừ DN FDI hoạt động
trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng hoặc sản xuất hàng thay thế
nhập khẩu), việc mua ngoại tệ phải được cấp giấy phép.
Tuy nhiên đến cuối những năm 1990, các quy đinh này đã
được bãi bỏ, cơ chế cấp giấy phép không còn nữa, các DN
FDI có nhu cầu ngoại tệ cho các giao dịch vãng lai, các
giao dịch được phép khác được trực tiếp liên hệ với các
ngân hàng thương mại để mua ngoại tệ.
Chính sách đầu tư gián tiếp của nhà đầu tư nước
ngoài: Hiện nay, Việt Nam đã cho phép các nhà đầu tư
nước ngoài được phép đầu tư vào trái phiếu, cổ phiếu của
các DN Việt Nam với một tỷ lệ nhất định (Quyết định số
998/QĐ-NHNN ngày 13/9/2002 của Thống đốc NHNN
quy định về quản lý ngoại hối với các giao dịch mua, bán
chứng khoán của các tổ chức và cá nhân nước ngoài tại
trung tâm giao dịch chứng khoán).
Tự do hóa chính sách kết hối:
Tháng 9/1998 Chính phủ ban hành Quyết định 173 và
NHNN ban hành Thông tư 8 hướng dẫn chế độ kết hối.
Theo đó quy định, các tổ chức kinh tế là người cư trú (trừ
DN có vốn đầu tư nước ngoài - DN FDI) phải bán 80%
nguồn thu vãng lai cho ngân hàng, các tổ chức phi kinh tế
phải bán 100% ngoại tệ từ nguồn thu vãng lai.
Thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế, với xu hướng
tự do hóa các giao dịch vãng lai, tỷ lệ kết hối đã được
giảm dần, năm 1999 còn 50%, năm 2001 còn 40%, năm
2002 còn 30% và từ năm 2003 là 0%.
Thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá từ tỷ giá cố định
sang tỷ giá có điều chỉnh, đến tỷ giá công bố theo mức
hình thành cuối ngày trên thị trường
Đặc biệt trong tiến trình tự do hóa tài chính ngoài
nước của việt nam để tiến tới hội nhập kinh tế quốc tế là
việc Việt Nam đã chủ động hội nhập tài chính và từng
bước thực hiện tự do hóa tài chính. Trước hết là việc :
- Thiết lập được các mối quan hệ tài chính với các tổ
chức tài chính tiền tệ quốc tế: Quỹ tiền tệ thế giới (IMF);
Ngân hàng thế giới (WB) kể từ năm 1992.
- Gia nhập và trở thành thành viên chính thức của
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995.
- Tham gia các diễn đàn hợp tác kinh tế: Diễn đàn
hợp tác Á – Âu năm tháng 3.1996 với tư cách là thành
viên sáng lập. Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái
Bình Dương (APEC) từ tháng 11.1998.
- Tham gia khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA).
- Điều đặc biệt đáng lưu ý là vào tháng 7.2000, Việt
Nam đã tiến hành đàm phán và ký kết hiệp định thương
mại Việt Mỹ, đến tháng 12.2001 Quốc hội hai nước đã
chính thực thông qua hiệp định này.
- Và cuối cùng là việc Việt Nam trở thành thành viên
thứ 150 của tổ chức WTO với những cam kết trong lộ
trình sẽ tự do hóa hoàn toàn tài chính như:
Hầu hết các dịch vụ tài chính đều cam kết mở cửa
rộng rãi và các DN nước ngoài có thể tham gia thị
trường Việt Nam với hình thức đầu tư 100% vốn
trong thời gian tối đa là 5 năm.
Lĩnh vực dịch vụ kế toán- kiểm toán, tư vấn thuế
đã được mở cửa hoàn toàn cho các bên nước
ngoài.
Đối với lĩnh vực bảo hiểm, Việt Nam đã cam kết
cho phép các công ty bảo hiểm hoạt động tại nước
ngoài được cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho các
DN có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài
làm việc tại Việt Nam
Dịch vụ tái bảo hiểm, dịch vụ bảo hiểm đối với
vận tải quốc tế, môi giới bảo hiểm và các dịch vụ
hỗ trợ về định phí, tư vấn…
Đối với dịch vụ chứng khoán sẽ cho phép thành
lập văn phòng đại diện và liên doanh có 49% vốn
ĐTNN từ thời điểm gia nhập. Sau 5 năm kể từ khi
Việt Nam gia nhập WTO sẽ cho phép thành lập
các công ty cung cấp dịch vụ chứng khoán 100%
vốn nước ngoài và cho phép thành lập chi nhánh
của các công ty cung cấp dịch vụ chứng khoán
nước ngoài hoạt động trong các loại hình dịch vụ
quản lý tài sản, quản lý quỹ đầu tư, lưu ký, thanh
toán bù trừ, cung cấp và chuyển giao thông tin tài
chính, tư vấn và các hoạt động môi giới và phụ trợ
khác liên quan đến chứng khoán…
Việc Việt Nam đã gia nhập vào tổ chức WTO điểu
này có nghĩa là việc tự do hóa tài chính hoàn toàn cả tự do
trong nước lẫn tự do hóa tài chính với nước ngoài là việc
làm sớm muộn, chỉ còn trong tương lai gần.vậy khi việt
nam tự do hóa tài chính hoàn toàn thì nội lực của nó đã đủ
để hấp thụ những lợi ích nó mang lại. Vậy thì bây giờ nền
kinh tế của ta phải như thế nào để có thể theo kip xu thế.
Trước khi trả lời câu hỏi này thì ta cần phải biết được là
tại sao Việt Nam phải tự do hóa tài chính, nó có lợi ích gì
mà để ta phải theo đuổi nó và đi đôi với lợi ích thì nó có
những rủi ro gì dể từ đó ta sẽ có những giải pháp cho nền
kinh tế Việt Nam đang tiến tới tự do hóa tài chính để tiến
tới hội nhập kinh tế quốc tế
Lợi ích của tiến trình tự do hóa tài chính
Tự do hóa tài chính không chỉ là yêu cầu bắt buộc để
có thể tham gia sân chơi thế giới mà còn là xu thế tất yếu
của hội nhập kinh tế bởi những lợi ích vô cùng to lớn mà
nó mang lại cho các quốc gia. Quá trình tự do hóa tài
chính sẽ giúp tạo ra một môi trường minh bạch, linh hoạt
và hiệu quả cho hệ thống tài chính, thu hút đầu tư, kích
thích sự cạnh tranh lành mạnh, mang lại động lực phát
triển, khả năng tiếp cận công nghệ mới cho các tổ chức tài
chính trong nước cũng như cơ hội sử dụng các dịch vụ tài
chính đa dạng, chất lượng cao cho người dân trong
nước…
Sau đây chúng ta sẽ phân tích những lợi ích đó:
Trước hết ta thấy rằng khi tự do hóa tài chính, sẽ có
rất nhiều các tổ chức tài chính nước ngoài hoạt động tại
Việt Nam.Với tính chuyên nghiệp và quy mô của các tổ
chức này, để có thể tồn tại và phát triển tự bản thân các tổ
chức tài chính trong nước phải nâng cao năng lực quản lý
và hoạt động của mình. Các tổ chức này phải làm việc
thật sự cật lực nhằm xác định những dự án nào là những
dự án mang lại khả năng sinh lợi cao, để quyết định việc
cho vay vốn trong khoảng thời gian ngắn nhất với thủ tục
nhanh gọn nhất. Như vậy, do áp lực cạnh tranh ngày càng
tăng, các định chế tài chính ngày càng nâng khả năng làm
việc. Kết quả là việc đánh giá, thẩm định dự án được thực
hiện nghiêm túc và đạt hiệu quả cao hơn. Chính vì vậy,
vốn đầu tư có thể được đưa vào những dự án mang tính
sinh lợi và có hiệu quả cao. Qua đó nâng cao hiệu suất sử
dụng vốn đầu tư của toàn xã hội. Ngoài ra chính sự cạnh
tranh do tự do hoá mang lại sẽ làm tăng thêm chất lượng
các dịch vụ tài chính được cung cấp bởi lúc này sự độc
quyền bị loại bỏ. Người tiêu dùng có thể được hưởng
những sản phẩm dịch vụ mới, đa dạng, tiện ích với chất
lượng tốt nhất, chi phí thấp nhất và thời gian ngắn nhất.
Mặt khác như chúng ta đã biết một nhược điểm nổi bật
của quá trình luân chuyển tiền tệ là không thể chuyển hết
toàn bộ số tiền tiết kiệm huy động được cho đầu tư, mà nó
luôn bị tiêu hao một phần cho các giao dịch phát sinh và
đọng lại trong các tổ chức kinh doanh tài chính (dưới
dạng dự trữ bắt buộc hay tiền mặt chờ luân chuyển...).
Việc tự do hoá tài chính như đã nói sẽ cắt giảm đáng kể
các khoản chi phí giao dịch, chi phí quản lý và đặc biệt là
giảm sự khác biệt giữa lãi suất cho vay và lãi suất vay
vốn. Chính điều này làm tỷ trọng tiền tiết kiệm dành cho
đầu tư ngày càng gia tăng, giúp tăng thêm nguồn vốn
cung ứng cho nền kinh tế.
Thứ hai, khi tự do hóa tài chính, nếu môi trường đầu
tư trong nước trở nên thuận lợi, cho phép nhà đầu tư có
thể tìm kiếm lợi ích, thì lập tức các nguồn tài chính từ bên
ngoài sẽ nhanh chóng vận hành vào thị trường trong nước
để thỏa mãn các nhu cầu mở rộng, phát triển kinh tế. Do
đó tốc độ phát triển kinh tế cũng sẽ nhanh chóng tăng lên.
Nguồn tài chính từ thị trường quốc tế xâm nhập vào thị
trường nội địa sẽ kéo theo sự xâm nhập của công nghệ,
lao động tay nghề cao và sự xâm nhập của các loại
nguyên liệu, dịch vụ phục vụ cho quá trình phát triển sản
xuất kinh doanh. Có nghĩa là nền kinh tế sẽ hưởng lợi to
lớn từ nguồn lực tài chính do bên ngoài đầu tư vào trong
nước. Tạo công ăn việc làm, tay nghề công nhân được
nâng lên thỏa mãn được nhu cầu thị trường quốc tế, hàng
hóa chất lượng cao sẽ được sản xuất, kim ngạch xuất khẩu
tăng lên nhanh chóng. Tất cả những điều này sẽ tạo tiền
đề và động lực quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội.
Dẫn chứng:
+Bình quân 10 năm lại đây, khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài đã tạo ra trên 25% tổng kim ngạch xuất khẩu
hàng năm; sử dụng gần 10% lao động công nghiệp; tham
gia hơn 20% tổng đầu tư toàn xã hội bình quân/năm...
+Năm 2007, tính chung cả cấp mới và tăng vốn, thu
hút nguồn vốn FDI đạt 20,3 tỷ USD, tăng gần 70% so với
năm 2006, gần bằng tổng mức FDI trong 20 năm qua
Cùng với xu thế mở cửa, giao lưu quốc tế ngày càng
tăng, nhu cầu chi trả, thanh toán cho các giao dịch vãng
lai ngày càng lớn, nhưng đây chủ yếu là những khoản
thanh toán, chi trả cho các nhu cầu thường xuyên cần thiết
với kim ngạch không lớn. Việc tự do hoá các giao dịch
này sẽ giảm bớt chi phí xã hội, giảm bớt phiền hà cho
người dân khi có nhu cầu mua ngoại tệ chuyển ra nước
ngoài vì những mục đích hợp pháp, các nhà đầu tư chuyển
lợi nhuận về nước khi kinh doanh có lãi; xoá bỏ cơ chế
xin-cho (Giấy phép và giấy phép con); làm giảm tâm lý
cất giữ ngoại tệ, mang ngoại tệ lậu ra nước ngoài…
Ngoài ra việc tự do tài chính còn đẩy mạnh việc sử
dụng vốn nhàn rỗi của tư nhân vào tiến trình đầu tư, bởi vì
lúc này những ràng buộc về thủ tục vay vốn sẽ được đơn
giản hoá, lãi suất huy động tương đối thấp do sự cạnh
tranh của các tổ chức đầu tư tài chính. Từ đó nguồn vốn
được đưa vào nền kinh tế một cách thuận lợi và hiệu quả
góp phần vào việc tạo ra hàng hóa, của cải vật chất cho xã
hội
Hơn nữa, quá trình tự do tài chính sẽ giúp cho các cá
nhân dễ dàng tiếp cận được các nguồn tín dụng. Thông
qua việc kinh doanh hoặc học tập bằng các nguồn tín
dụng vay mượn được, mỗi cá nhân có thể nâng cao kiến
thức của mình. Ngoài ra, hiệu ứng lan tỏa
(spillover/external effects) về “vốn tri thức” sẽ làm cho
mặt bằng kiến thức của xã hội không ngừng nâng cao.
Chính vì vậy, chất lượng nguồn nhân lực của xã hội được
cải thiện một cách đáng kể.
Việc tự do hoá tài chính sẽ đảm bảo cho lãi suất thực
được dương bởi vì sự cân bằng giữa cung và cầu vốn trên
thị trường tài chính. Người cho vay sẽ an tâm hơn khi gửi
tiền vào các tổ chức tín dụng.
Việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính cũng góp
phần thúc đẩy chính phủ các nước chủ nhà cải tiến
phương pháp quản lý vĩ mô nền kinh tế và thay đổi cách
thức can thiệp vào thị trường, đồng thời thúc đẩy việc
hoàn thiện hàng lang pháp lý và hệ thống kiểm tra, giám
sát của chính phủ đối với những lĩnh vực dịch vụ này.
Các nhà nghiên cứu lập luận rằng sở dĩ tự do hoá tài
chính có tác động tích cực đến nền kinh tế chính là nhờ
tác động lợi thế của kinh tế quy mô (Economy of scale),
do vậy các tổ chức tài chính có thể hạ giá thành phục vụ.
Bên cạnh đó, việc loại bỏ yếu tố độc quyền, tăng cường
sự cạnh tranh là nhân tố có tính quyết định trong việc
nâng cao chất lượng dịch vụ, đa dạng hoá các loại hình
sản phẩm và mở rộng cơ hội lựa chọn cho người tiêu
dùng.
Tóm lại, lợi ích to lớn nhất của tự do hoá tài chính là
tạo ra một sự cạnh tranh bình đẳng trong một thị trường
trước đây vốn được đặc trưng bằng những yếu tố độc
quyền. Cạnh tranh chính là động lực thúc đẩy việc giảm
thiểu chi phí, nâng cao chất lượng phục vụ, phân tán rủi ro
và tạo cơ hội phát huy lợi thế kinh tế quy mô, tăng cường
chuyển giao công nghệ và tạo môi trường thay đổi chính
sách quản lý vĩ mô nền kinh tế. Trên cơ sở đó, tăng cường
năng lực cạnh tranh và sẵn sàng đối phó với những bất
thường có thể xảy ra trên bình diện quốc tế.
Vấn đề rủi ro trong tiến trình tự do hóa tài
chính
Qua những phân tích bên trên thì chúng ta có thể thấy
được tiến trình tự do hóa tài chính có thể mang lại cho
chúng ta những lợi ích như thế nào. Tự do hóa tài chính là
một tiến trình mà bất kỳ quốc gia nào cũng phải thực hiện
nếu như muốn tham gia vào sân chơi của thị trường thế
giới. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực mà tự do
hóa mang lại, thì những rủi ro chứa đựng bên trong cũng
là vấn đề hết sức đáng quan tâm
Những rủi ro trong tiến trình tự do hóa tài chính
thường được nhắc đến như là việc tiếp nhận những khoản
đầu tư có rủi ro cao, nguy cơ rút vốn ào ạt ra nước ngoài
hay nguy cơ vỡ nợ do sử dụng tiền vay ngắn hạn để đầu
tư dài hạn. Từ những vấn đề riêng lẻ, chúng ta có thể tổng
kết được hai vấn đề lớn mà Việt Nam phải đối mặt trong
tiến trình hội nhập tài chính hiện nay.
Những rủi ro từ việc giảm thiểu sự can thiệp nhà
nước
Như chúng ta đã biết, thị trường tài chính được xem
như là một công cụ điều tiết vĩ mô và là một lĩnh vực hết
sức đặc biệt mà Nhà nước sử dụng để thực hiện mục tiêu
điều hành nền kinh tế của quốc gia. Trong khi đó, tiến
trình tự do hóa tài chính là việc giảm dần sự can thiệp của
nhà nước vào lĩnh vực tài chính, và đây chính là vấn đề
đầu tiên mà chúng ta phải đối mặt trong quá trình tự do
hóa. Việc mở cửa thị trường, giảm thiểu sự can thiệp của
nhà nước có thể làm hạn chế phần nào chức năng điều tiết
vĩ mô của thị trường tài chính. Đặc biệt hơn, nếu như
chúng ta thực hiện việc mở cửa thị trường trong điều kiện
hệ thống tài chính nội địa chưa được chuẩn bị tốt, khả
năng cạnh tranh chưa cao, thì nền tài chính có nguy cơ bị
thống trị bởi các tổ chức, doanh nghiệp tài chính nước
ngoài, và khi đó quyền kiểm soát và điều tiết thị trường
tài chính của Nhà nước sẽ dần bị thu hẹp lại, và do đó có
thể làm ảnh hường đến mục tiêu chiến lược của quốc gia.
Bên cạnh đó, việc chính phủ thực hiện chính sách
quản lý thông thoáng có thể tạo điều kiện cho những hoạt
động phi pháp diễn ra, như là tình trạng lừa đảo, buôn lậu
và đặc biệt là hoạt động rửa tiền.
Tác động tiêu cực của hoạt động rửa tiền
Rửa tiền nếu được hiểu một cách khái quát là là
những hoạt động nhằm mục đích hợp pháp hóa những tài
sản có được từ các hoạt động phi pháp. Một cách rửa tiền
phổ biến là việc đầu tư vào những nước đang phát triển
thông qua các ngân hàng. Từ những ngân hàng này, lượng
“tiền bẩn” này sẽ được đem đi đầu tư vào những công cụ
tài chính nhằm là giảm “tính bẩn” của đồng tiền. Và cuối
cùng là hội nhập trở lại lượng tiền này vào nền kinh tế
như những dòng tiền bình thường khác.
Chúng ta có thể thấy những nước đang phát triển như
Việt Nam, với sự kiểm soát lỏng lẻo đối với hệ thống tài
chính quốc gia sẽ là đối tượng của hoạt động rửa tiền này.
Câu hỏi đặt ra ở đây là nền kinh tế của những quốc gia
này chịu những ảnh hưởng tiêu cực gì từ hoạt động rửa
tiền? Có những lập luận cho rằng nếu như chúng ta bỏ
qua nguồn gốc bất chính của những dòng tiền này thì nó
vẫn được xem như là những nguồn vốn đầu tư bình
thường khác, vẫn có thể góp phần vào sự tăng trưởng kinh
tế của quốc gia nếu chúng ta biết sử dụng nó một cách
hợp lý. Tuy nhiên, những dòng vốn có nguồn gốc phí
pháp này lại chứa đựng những tác động tiêu cực to lớn
khác, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế:
Thứ nhất, hoạt động rửa tiền có thể làm suy yếu hệ
thống tài chính quốc gia. Điều này có thể giải thích
bằng hai lý do. Lý do trước hết là rửa tiền sẽ làm suy
yếu từ bên trong hệ thống tài chính thông qua việc
mua chuộc chính những nhân viên trong những tổ
chức tài chính này. Từ đó, làm sai lệch đi những
quyết định đầu tư và làm giảm tính hiệu quả quá hệ
thống tài chính. Nguyên nhân thứ hai xuất phát từ
việc làm giảm sự tin tưởng của khách hàng đối với
hệ thống ngân hàng. Bất cứ một thông tin nào cho
thấy việc các ngân hàng tiếp tay cho những hoạt động
phi pháp như là rửa tiền có thể dẫn đến sự mất lòng
tin vào hệ thống ngân hàng, từ đó anh hưởng đến sự
phát triển của hệ thống này. Trong trường trượng xấu
nhất có thể dẫn đến khủng hoảng hệ thống ngân hàng
nếu như những khách hàng bị lôi kéo bởi tâm lý bầy
đàn và rút vốn ào ạt.
Thứ hai là hoạt động rửa tiền sẽ gây ra tác động tiêu
cực đến hiệu quả đầu tư của nền kinh tế. Mục đích
đầu tư của những nguồn tiển phi pháp không phải là
lợi nhuận, do đó chúng chủ yếu sẽ chảy vào những
kênh đầu tư ít rủi ro, làm cung nguồn vốn trong
những khu vực này tăng cao quá mức và làm giảm tỷ
suất sinh lợi trong những lĩnh vực này. Thậm chí
những khoản đầu tư từ những nguồn vốn phi pháp
này còn không quan tâm đến khả năng sinh lợi của dự
án, điều này càng hạ thấp hơn tỷ suất sinh lợi bình
quân, ảnh hưởng xấu đến sự tăng trưởng của nền kinh
tế.
Ngoài ra hoạt động rửa tiền còn có những tác động
tiêu cực khác như việc làm giảm các nguồn vốn đầu
tư hiệu quả từ nước ngoài, từ đó hạn chế những lợi
thế có được từ những đầu tư này như là sự tiếp nhận
các công nghệ hiện đại, kỹ thuật lao động hay là
những kinh nghiệm quản lý từ những quốc gia phát
triển. Bên cạnh đó, hoạt động này còn có thể tạo ra sự
cân bằng giả tạo trong cán cân thanh toán, khi chu kỳ
rửa tiền hoàn tất, việc rút ra ồ ạt của lượng tiền này sẽ
làm thâm hụt cán cân thanh toán, trầm trọng hơn có
thể dẫn đến khủng hoảng tài chính.
Từ những phân tích trên chúng ta có thể thấy được
hoạt động rửa tiền không những có ảnh hưởng xấu về mặt
xã hội mà còn gây ra những tác động tiêu cực đến nền
kinh tế của Việt Nam.
Việc mở cửa thị trường, giảm thiểu sự can thiệp của
nhà nước là điều chúng phải thực hiện. Tuy nhiên, đi đôi
với việc tự do hóa cần phải có những biện pháp phù hợp
để tiến trình tự do hóa không làm phương hại đến những
mục tiêu của quốc gia và hạn chế những kẽ hở luật pháp
tạo điều kiện cho những hoạt động phi pháp diễn ra.
Tự do hóa có thể làm tăng khả năng xảy ra khủng
hoảng tài chính
Khủng hoảng tài chính thường là điều mà các chính
phủ lo ngại khi thực hiện mở cửa thị trường. Một nghiên
cứu phân tích về các cuộc khủng hoảng tài chính trên thế
giới đã cho thấy 18 trong 25 trường hợp được nghiên cứu,
khủng hoảng tài chính đã diễn ra theo sau việc tự do hoá
tài chính khoảng. Do vậy, nhiều người cho rằng khủng
hoảng ngân hàng là sự kiện kéo theo của việc cải cách hệ
thống tài chính theo hướng mở cửa. Thậm chí, nhiều
chính phủ còn xem đó là cái giá phải trả cho tiến trình tự
do hoá.
Tuy nhiên, tiến trình tự do hóa tài chính bản thân nó
không phải là nguyên nhân thực sự dẫn đến khủng hoảng.
Việc mở cửa thị trường chỉ làm bộc lộ những yếu kém sẵn
có của hệ thống tài chính trong nước cũng như những
thiếu sót trong chính sách tài chính vĩ mô, từ đó làm tăng
thêm những rủi ro dẫn đến khủng hoảng tài chính. Nói
cách khác, nguyên nhân chính của các cuộc khủng hoảng
tài chính lại chính là những yếu kém tiềm ẩn của hệ thống
ngân hàng, sự thiếu lành mạnh của hệ thống chính sách
quản lý vĩ mô, và sự thiếu vắng của một chế độ giám sát,
kiểm tra có hiệu quả, chứ không phải xuất phát từ bản
thân quá trình tự do hoá tài chính.
Nội dung phần phân tích này sẽ tập trung vào việc
phân tích những rủi ro mà Việt Nam có thể sẽ đối mặt
trong tiến trình hội nhập, và bằng cách nào những rủi ro
này dẫn đến tình trạng khủng hoảng tài chính.
Đầu tiên là tình trạng nợ xấu gia tăng có thể đẫn đến
nguy cơ vỡ nợ ở các ngân hàng. Khi tiến trình tự do
hóa tài chính được thực hiện, chính phủ bắt đầu nới
lỏng những quy định đối với thị trường tài chính,
điều kiện cho vay tín dụng của các ngân hàng cũng
trở nên thông thoáng hơn, và khi đó, hoạt động tín
dụng của các ngân hàng bắt đầu được gia tăng. Nếu
như trong lúc này việc giám sát, theo dõi của những
cơ quan quản lý từ chính phủ không được thực hiện
tốt, và chính bản thân các ngân hàng cũng thiếu khả
năng trong việc thẩm định các dự án cũng như theo
dõi hoạt động sử dụng nguồn vốn của các đối tượng
cho vay, thì tất yếu là nhữug khoản nợ xấu bắt đầu
gia tăng, ảnh hưởng đến nguồn vốn kinh doanh của
các ngân hàng. Một khi tình trạng nợ xấu này kéo
dài, nguồn lực từ các ngân hàng bị bào mòn thì khả
năng vỡ nợ ở các ngân hàng là hết sức đáng ngại.
Hậu quả thứ hai của tình trạng nợ xấu này là việc khả
năng cho vay tín dụng của các ngân hàng bị giảm sút.
Khi hoạt động cho vay không còn được tiếp tục, thì
- Xem thêm -