Lời nói đầu
Tổng kết lịch sử phát triển kinh tế của các nước trên thế giới trong thời kỳ
hiện đại ta thấy rằng một nền kinh tế không thể phát triển mạnh nếu hệ thống ngân
hàng của nó không phát triển. Sự lớn mạnh của các NHTM là điều kiện cần để một
nền kinh tế có thể phát triển một cách ổn định và bền vững. Một trong những chức
năng của NHTM đó là chức năng trung gian thanh toán. Chức năng này được thể
hiện thông qua công tác thanh toán không dùng tiền mặt của các ngân hàng. Lịch sử
cho thấy, nền kinh tế phát triển càng mạnh thì thanh toán dưới hình thức thanh toán
không dùng tiền mặt càng chiếm tỷ trọng lớn, càng được nhiều người ủng hộ bởi
những tiện ích tuyệt vời do nó mang lại và sự ưu việt của nó so với hình thức thanh
toán bằng tiền mặt. Trong tương lai, cùng với sự phát triển của xã hội ta thấy rằng
thanh toán không dùng tiền mặt có xu hướng phổ biến trên toàn thế giới và là một
hình thức thanh toán chủ yếu của các xã hội văn minh.
Từ năm 1989 trở lại đây, nền kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng với tốc
độ cao, được các chuyên gia kinh tế dự báo sẽ tiếp tục phát triển ổn định trong
khoảng thời gian sắp tới, với khối lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ được sản xuất
và tiêu thụ ngày càng lớn. Điều đó đồng nghĩa với sự phát triển mạnh của hoạt động
trao đổi giữa các chủ thể của nền kinh tế mà biểu hiện là sự gia tăng mạnh mẽ của
quy mô thanh toán trong nền kinh tế. ở nước ta hiện nay việc thanh toán giá trị sản
phẩm chủ yếu vẫn bằng tiền mặt. Tuy nhiên, việc thanh toán bằng tiền mặt có rất
nhiều hạn chế như: chi phí thanh toán, chi phí chuyên trở, bảo quản, kiểm đếm rất
tốn kém cả về thời gian và tiền bạc. Bên cạnh đó, theo yêu cầu của sự phát triển và
xu hướng của thời đại mới thì nhu cầu về thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng
lớn. Do đó, các NHTM với vai trò trung gian thanh toán phải nắm bắt được xu
hướng phát triển đó và phải có các giải pháp hữu hiệu để mở rộng thanh toán không
dùng tiền mặt.
NHNo&PTNT Ba Đình ra đời năm 1996 là một chi nhánh trực thuộc
NHNo&PTNT Hà Nội, mang đầy đủ tính chất và đặc thù của một NHTM.
NHNo&PTNT Ba Đình kể từ khi ra đời đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển
của kinh tế Thủ đô nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, do một
số nguyên nhân chủ quan và khách quan hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt
của ngân hàng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng vốn có, thu nhập từ hoạt động
thanh toán không dùng tiền mặt chiếm tỷ trọng nhỏ so với thu nhập từ các hoạt
động khác.
Qua thời gian thực tập ở NHNo&PTNT Ba Đình, nghiên cứu các mặt hoạt
động đa dạng, đặc biệt là công tác thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng
này, kết hợp với phần lý thuyết đã được học tập tại trường đại học Kinh tế Quốc dân
Hà Nội em đã mạnh dạn chọn đề tài “Tăng tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt
so với các hoạt động khác tại NHNo&PTNT Ba Đình” để giải đáp câu hỏi trên.
Những giải pháp và kiến nghị được nêu ra trong đề tài với mong muốn góp phần
mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt tại NHNo&PTNT Ba Đình để đáp ứng
nhu cầu thanh toán nội địa. Từ đó sẽ tăng cường khả năng cạnh tranh của ngân hàng
và tạo điều kiện cho các hoạt động khác của ngân hàng phát triển.
Chuyên đề này được chia làm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế
thị trường.
Chương 2: Thực trạng tăng tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt so với
các hoạt động khác tại NHNo&PTNT Ba Đình.
Chương 3: Tăng tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt so với các hoạt
động khác tại NHNo&PTNT Ba Đình.
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Thảo, trường Đại học Kinh tế
Quốc dân, NHNo&PTNT Ba Đình đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Chương 1: Tổng quan về thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị
trường.
1. Sự cần thiết của thanh toán không dùng tiền mặt và vai trò của nó trong nền kinh
tế thị trường .
1.1. Khái niệm thanh toán không dùng tiền mặt và các khái niệm khác liên quan.
Tiền mặt theo nghĩa hẹp, đó là tiền do Ngân hàng Trung ương phát hành ra
và nằm trong tay công chúng hay ngoài hệ thống ngân hàng. Còn theo nghĩa rộng
nhất, tiền mặt có thể được hiểu là những thứ có thể sử dụng trực tiếp để thanh toán
các giao dịch và bao gồm cả tiền gửi ngân hàng. Như vậy, trong trường hợp này
khái niệm tiền mặt được dùng để chỉ dạng có khả năng thanh toán cao nhất của tài
sản, bao gồm các đồng tiền do Ngân hàng Trung ương phát hành ra và được công
chúng giữ để chi tiêu, tiền gửi ở tài khoản vãng lai hay tài khoản tiền gửi không kỳ
hạn, có thể rút ra bất cứ lúc nào bằng cách viết séc. Đối với các NHTM khái niệm
tiền mặt bao gồm các đồng tiền cất trong két sắt và số dư của họ tại Ngân hàng
Trung ương. Do được dùng với nhiều nghĩa khác nhau như vậy, nên khi gặp khái
niệm này, chúng ta phải lưu ý xem nó được dùng theo nghĩa nào trong một khung
cảnh nhất định (Từ điển kinh tế học).
Tiền mặt- là hình thức tiền tệ, theo đó, trong thời gian giao dịch, chức
năng lưu thông và cất trữ giá trị được thực hiện mà không cần sự tham gia của các
định chế tài chính trung gian đặc thù.
Thanh toán, trong các mối quan hệ kinh tế, được hiểu một cách khái quát
nhất là việc thực hiện chi trả bằng tiền giữa các bên trong những quan hệ kinh tế
nhất định. Tiền ở đây được hiểu là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc
thanh toán để nhận hàng hóa hoặc dịch vụ hoặc trong việc trả nợ.
Thanh toán không dùng tiền mặt là cách thức thanh toán trong đó không có
sự xuất hiện của tiền mặt mà việc thanh toán được thực hiện bằng cách trích chuyển
trên các tài khoản của các chủ thể liên quan đến số tiền phải thanh toán.
Thanh toán không dùng tiền mặt còn được định nghĩa là phương thức thanh toán
không trực tiếp dùng tiền mặt mà dựa vào các chứng từ hợp pháp như giấy nhờ thu,
giấy ủy nhiệm chi, séc… để trích chuyển vốn tiền tệ từ tài khoản của đợn vị này
sang tài khoản của đợn vị khác ở ngân hàng. Thanh toán không dùng tiền mặt gắn
với sự ra đời của đồng tiền ghi sổ.
1.2. Đặc điểm của thanh toán không dùng tiền mặt.
Sự ra đời của hình thức thanh toán không dùng tiền mặt gắn liền với sự ra đời của
đồng tiền ghi sổ và sự phát triển của nó gắn liền với sự phát triển của hệ thống ngân
hàng. Sự tồn tại và lớn mạnh của hệ thống này đã tạo điều kiện cho cá nhân và các
tổ chức kinh tế mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng và thực hiện việc thanh toán
thông qua việc chuyển khoản trong hệ thống ngân hàng. thanh toán không dùng tiền
mặt là một hình thức vận động tiền tệ mà ở đây tiền vừa là công cụ để kế toán, vừa
là công cụ để chuyển hóa hình thức giá trị của hàng hóa và dịch vụ. Nó có một số
đặc điểm sau:
+ Trong thanh toán không dùng tiền mặt sự vận động của tiền tệ độc lập với sự vận
động của hàng hóa cả về thời gian lẫn không gian và thường không có sự ăn khớp
nhau. Đây là đặc điểm quan trọng và nổi bật nhất của hình thức thanh toán không
dùng tiền mặt.
+ Trong thanh toán không dùng tiền mặt, vật trung gian trao đổi không xuất hiện
như trong hình thức thanh toán dùng tiền mặt theo kiểu H-T-H mà chỉ xuất hiện
dưới dạng tiền kế toán hay tiền ghi sổ và được ghi chép trên các chứng từ sổ sách kế
toán. đây là đặc điểm riêng của thanh toán không dùng tiền mặt.
+ Trong thanh toán không dùng tiền mặt, ngân hàng vừa là người tổ chức vừa là
người thực hiện các khoản thanh toán. Chỉ có ngân hàng, người quản lý tài khoản
tiền gửi của các khách hàng mới được quyền trích chuyển những tài khoản này theo
các nguyên tắc chuyên môn đặc thù như là một nghiệp vụ riêng của mình. Với
nghiệp vụ này, ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán đối với các khách hàng
của mình.
Với những đặc điểm nêu trên, thanh toán không dùng tiền mặt nếu được tổ chức và
thực hiện tốt sẽ phát huy được tác dụng tích cực của nó. Trong tương lai, theo đà
phát triển của xã hội và theo nhu cầu của thị trường, thanh toán không dùng tiền mặt
sẽ giữ một vị trí cực kỳ quan trọng trong việc lưu chuyển tiền tệ và trong thanh toán
giá trị của nền kinh tế.
1.3. Sự cần thiết của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường.
Trước hết, sự vận động của tiền tệ dưới hình thức thanh toán không dùng tiền mặt
đáp ứng tốt hơn nhu cầu chuyển hóa giá trị của hàng hóa và dịch vụ so với dưới
hình thức thanh toán bằng tiền mặt.
Thanh toán không dùng tiền mặt có tác động tích cực đến kinh tế tài chính quốc gia.
Thanh toán không dùng tiền mặt là một hình thức vận động tiền tệ tiết kiệm và hiệu
quả.
Thanh toán không dùng tiền mặt còn giúp tăng cường sự kiểm tra lẫn nhau giữa các
cá nhân, các tổ chức kinh tế. Một trong những phương cách để thẩm định uy tín của
một cá nhân, một tổ chức kinh tế làm ăn trên thị trường là việc xem xét tình hình
thực hiện việc thanh toán của họ với các đối tác.
Thanh toán không dùng tiền mặt giúp cho ngân hàng giảm bớt nguy cơ mất khả
năng thanh toán.
Thanh toán không dùng tiền mặt làm tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn cho nền
kinh tế.
Thanh toán không dùng tiền mặt an toàn, thuận lợi, nhanh chóng và chính xác.
Nâng cao sức cạnh tranh cho ngân hàng qua việc nâng cao chất lượng dịch vụ thanh
toán cho ngân hàng.
Tạo điều kiện cho Ngân hàng Trung ương tính toán và kiểm soát lượng tiền cung
ứng cần thiết cho nền kinh tế.
Tạo nguồn thu nhập cho ngân hàng thông qua việc thu phí thanh toán.
Tạo nguồn vốn cho vay ngắn hạn.
Sự cần thiết của thanh toán không dùng tiền mặt còn thể hiện ở chỗ nó khắc phục
được các nhược điểm sau của thanh toán bằng tiền mặt:
+ Chi phí lớn trong việc in ấn, vận chuyển, kiểm đếm, bảo quản và thanh toán.
+ Làm cho một phần vốn của nền kinh tế không vận động vì các chủ thể thanh toán
luôn phải giữ tiền bên mình.
+Làm cho Nhà nước gặp khó khăn trong việc kiểm soát tiền tệ dẫn đến các hoạt
động buôn lậu, rửa tiền, tham ô, tham nhũng khó bị kiểm soát tức là tạo điều kiện
cho sự phát triển của hoạt động kinh tế ngầm.
+ Không an toàn trong khi vận chuyển và bảo quản.
1.4. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường.
-Thanh toán không dùng tiền mặt được sử dụng rộng rãi trong mọi tầng lớp dân cư
ở nhiều quốc gia là một tất yếu khách quan do tính hiệu quả và thiết thực của nó.
- Đối với khách hàng, thanh toán không dùng tiền mặt là một phương thức thanh
toán đơn giản, an toàn, tiết kiệm, thuận lợi cho sự trao đổi. Khi có tài khoản giao
dịch ở ngân hàng, khách hàng muốn rút tiền ra bất cứ lúc nào cũng được, chỉ cần
viết một yêu cầu gửi ngân hàng.
- Đối với ngân hàng, thanh toán không dùng tiền mặt là một công cụ thanh toán bù
trừ giữa các ngân hàng không phải dùng đến giấy bạc, giúp cho việc thanh toán
thuận lợi và việc lưu thông tiền tệ được nhanh hơn đồng thời dễ kiểm soát. Thanh
toán không dùng tiền mặt có vai trò quan trọng trong việc huy động tích tụ các
nguồn vốn tạm thời chưa sử dụng đến của khách hàng vào cơ quan tín dụng, tạo
nguồn cho tài khoản để thực hiện thanh toán. Loại tiền gửi này cũng là một nguồn
vốn cung cấp cho các nghiệp vụ sinh lời của ngân hàng thương mại, gửi và thanh
toán phải trả lãi, do vậy giảm giá đầu vào của “đi vay để cho vay”.
- Đối với nền kinh tế, thanh toán không dùng tiền mặt có ý nghĩa quan trọng đến
việc tiết kiệm khối lượng tiền mặt trong lưu thông, từ đó giảm bớt những phí tổn to
lớn của xã hội có liên quan đến việc phát hành và lưu thông tiền. Trước hết đó là tiết
kiệm chi phí in tiền, sau đó là những chi phí cho việc kiểm đếm, chuyên chở, bảo
quản và huỷ bỏ tiền cũ, rách mà vấn đề bức xúc nhất hiện nay đó là việc chuyên chở
và bảo quản tiền mặt. Thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta được tổ chức
thành một hệ thống thống nhất. Trong hệ thống này ngân hàng là một trung tâm
thanh toán, mọi hoạt động trao đổi hàng hoá dịch vụ đều được kết thúc bằng thanh
toán cho nên quan hệ thanh toán liên quan tới tất cả mọi hoạt động trong xã hội,
trong toàn bộ nền kinh tế. Do đó việc tổ chức tốt công tác thanh toán nói chung và
thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng có một ý nghĩa và vai trò lớn trong nền
kinh tế. Thanh toán không dùng tiền mặt là hình thức sử dụng công cụ tiền tệ tiến
bộ nhất nó tạo ra tiền đề để áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật mang lại
những lợi ích kinh tế to lớn. Thanh toán không dùng tiền mặt ra đời và phát triển
trên cơ sở của nền kinh tế thị trường. Song chính nó lại trở thành nhân tố thúc đẩy
nền kinh tế hàng hoá phát triển, do đó nó vừa được coi là “đứa con” sinh ra của kinh
tế thị trường lại được xem như “bà đỡ” của nền kinh tế hàng hoá, nó góp phần đẩy
nhanh tốc độ quá trình tái sản xuất xã hội, nó là khâu đầu và cũng là khâu kết thúc
của quá trình sản xuất, nó liên quan đến toàn bộ quá trình lưu thông hàng hoá, tiền
tệ của các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội.
- Thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện dễ dàng cho việc kiểm soát lạm
phát. Thông qua việc khống chế tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ tái chiết khấu... ngân
hàng Trung ương gián tiếp điều hoà khối lượng tiền tệ cung ứng góp phần bảo đảm
cho nền kinh tế ở một mức độ ổn định. Căn cứ vào việc thanh toán luân chuyển tiền
tệ mà hoạch định các chính sách cần thiết. Với ý nghĩa to lớn đó, ở những quốc gia
có nền kinh tế phát triển người dân sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt như là
một thói quen văn hoá không thể thiếu được.
- Khi ngân hàng tăng được tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt cũng là lúc
ngân hàng thu hút được nhiều hơn nguồn vốn trong xã hội vào ngân hàng. Trên cơ
sở nguồn vốn tăng thêm đó ngân hàng sẽ có điều kiện mở rộng cho vay tăng vốn
cho nền kinh tế. Như vậy thanh toán không dùng tiền mặt vừa góp phần tăng nhanh
vòng quay vốn cho xã hội vừa góp phần tăng cường nhu cầu vốn cho xã hội. Nói
tóm lại nó đem lại lợi ích thiết thực cho xã hội tiết giảm chi phí lưu thông tạo điều
kiện cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả.
2. Trách nhiệm của các bên tham gia thanh toán không dùng tiền mặt.
* Ngân hàng:
+ Thực hiện cung cấp các hình thức thanh toán như séc, thẻ, ủy nhiệm thu, ủy
nhiệm chi, thư tín dụng…Để thực hiện công tác thanh toán không dùng tiền mặt,
các ngân hàng phải sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt được quy
định bởi pháp luật và được các trung tâm thanh toán chấp nhận. Một số hình thức
thanh toán không dùng tiền mặt mà ngân hàng thường dùng là: séc, thẻ thanh toán,
ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thư tín dụng… Khi sử dụng các hình thức thanh toán
này, các ngân hàng phải thực hiện đúng với các yêu cầu về thời gian, thủ tục thanh
toán… theo như quy định về thanh toán không dùng tiền mặt đã được các cơ quan
có thẩm quyền ban hành. Ngân hàng có trách nhiệm cung cấp các hình thức thanh
toán không dùng tiền mặt mà ngân hàng đ cam kết thực hiện theo yêu cầu của khách
hàng.
+ Thực hiện thanh toán nhanh chóng, chính xác, kịp thời.Khi đã thỏa thuận xong
một hợp đồng thanh toán không dùng tiền mặt của khách hàng đối với ngân hàng,
ngân hàng phải thực hiện việc thanh toán cho khách hàng một cách nhanh chóng,
kịp thời, an toàn và chính xác. Nếu có sai sót hay chậm trễ vì một lý do nào đó,
ngân hàng phải có thông báo bằng văn bản cho khách hàng nói rõ lý do sai sót,
chậm trễ đó và đưa ra hướng giải quyết sự chậm trễ và sai sót trên. Ngân hàng phải
hoàn toàn chịu trách nhiệm về những sai sót thuộc phạm vi trách nhiệm của mình
trong quá trình thực hiện nghiệp vụ thanh toán thanh toán không dùng tiền mặt.
* Khách hàng trả tiền:
+ Có đủ số dư trên tài khoản thanh toán, lập các chứng từ thanh toán (hình thức
thanh toán) hợp lệ, hợp pháp. Đối với khác hàng là người trả tiền khi tham gia vào
các hình thức thanh toán nói chung và thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng thì
trước hết khách hàng phải có tiền, khi thanh toán không dùng tiền mặt thì người trả
tiền phải có số dư trên tài khoản thanh toán của mình tại ngân hàng đảm bảo đủ chi
trả cho hợp đồng thanh toán đó. Bên cạnh đó, khách hàng phải lập các chứng từ
thanh toán một cách đầy đủ, chính xác, hợp lệ, hợp pháp. Trong chứng từ đó phải
ghi rõ phương thức thanh toán không dùng tiền mặt được sử dụng, khối lượng thanh
toán, thời gian thanh toán, đối tượng được thanh toán…
+ Thực hiện thanh toán sòng phẳng số tiền phải trả cho khách hàng, nếu làm sai sẽ
bị phạt theo chế độ hiện hành. Khi đến hạn thanh toán người trả tiền phải thực hiện
nghĩa vụ thanh toán của mình một cách đầy đủ kịp thời….mà không được chậm trễ
vì bất cứ lý do gì. Người trả tiền sẽ bị xử phạt tiền hoặc bị truy tố trước pháp luật
nếu chậm trễ trong việc thực hiện hợp đồng thanh toán đã đáo hạn.
* Khách hàng thụ hưởng:
+ Kiểm tra tính hợp lệ và hợp pháp của các hình thức thanh toán nhận được. Để
đảm bảo an toàn và để tránh các rắc rối có thể xảy ra, khách hàng thụ hưởng khi
nhận được các chứng từ thanh toán phải kiểm tra các yếu tố trên các chứng từ này
xem có hợp lệ và hợp pháp không. Nếu thấy những chứng từ này có dấu hiệu bất
thường thì phải báo ngay cho các ngân hàng liên quan để giải quyết.
+ Cung cấp đầy đủ và kịp thời lượng hàng hóa, dịch vụ cho người mua.
Khách hàng thụ hưởng đồng thời là người bán có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và
kịp thời lượng hàng hóa, dịch vụ cho người mua, người trả tiền theo đúng quy cách,
chất lượng đã thỏa thuận trong hợp đồng.
3. Những hình thức thanh toán không dùng tiền mặt hiện hành.
3.1. Hình thức thanh toán bằng séc.
Séc là một hình thức thanh toán quan trọng không thể thiếu được trong thanh toán
không dùng tiền mặt hiện nay. Mặc dù đã ra đời từ rất sớm và ngày càng có nhiều
công cụ thanh toán hiện đại nhưng thanh toán bằng séc vẫn giữ vị trí quan trọng
trong các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.
Séc là môt tờ lệnh trả tiền của chủ tài khoản được lập trên mẫu đã quy định sẵn, yêu
cầu ngân hàng phục vụ mình trích tiền từ tài khoản tiền gửi của mình để trả cho
người thụ hưởng có tên trên tờ séc hay người cầm tờ séc đó.
Séc là loại chứng từ thanh toán được áp dụng rộng rãi ở tất cả các nước trên thế
giới, quy định sử dụng séc đã được chuẩn hoá trên Công ước quốc tế.
Séc được sử dụng để thanh toán tiền hàng, dịch vụ, nộp thuế, trả nợ… hoặc được
dùng để rút tiền mặt tại các chi nhánh ngân hàng. Tất cả các khách hàng mở tài
khoản tại ngân hàng đều có quyền sử dụng séc để thanh toán. Thời hạn hiệu lực của
séc, tùy theo quy định trước, thường là 15 ngày kể từ ngày chủ tài khoản phát hành
séc đến ngày người thụ hưởng nộp séc vào ngân hàng (gồm cả ngày chủ nhật và
ngày lễ). Trường hợp nếu ngày kết thúc thời hạn hiệu lực của tờ séc là ngày nghỉ,
ngày lễ thì thời hạn đó được lùi vào ngày làm việc kế tiếp.
Sau đây ta sẽ xem xét hai loại séc: Séc chuyển khoản và Séc bảo chi.
<1>. Séc chuyển khoản
Séc chuyển khoản là một tờ lệnh trả tiền của người phát hành séc đối với ngân hàng
phục vụ mình về việc trích một khoản tiền nhất định từ tài khoản của mình để trả
cho người được hưởng có tên trong tờ séc.
Séc chuyển khoản chỉ được áp dụng trong phạm vi thanh toán giữa các khách hàng
có tài khoản ở cùng một chi nhánh nhưng các chi nhánh này có tham gia giao nhận
chứng từ trực tiếp cho nhau theo quy định từ trước, thời gian hiệu lực của tờ séc tối
đa là 10 ngày làm việc. Khác với séc lĩnh tiền mặt, khi phát hành séc thanh toán
chuyển khoản, chủ tài khoản phải gạch hai đường song song chéo góc hoặc viết chữ
"chuyển khoản " ở góc phía trên bên trái mặt trước tờ séc trước khi giao người thụ
hưởng.
Về nguyên tắc, séc chuyển khoản phải được phát hành trên cơ sở số dư tài khoản
tiền gửi hiện có tại ngân hàng. Nếu tài khoản tiền gửi không đủ để thanh toán, séc sẽ
bị ngân hàng từ chối thanh toán, chủ tài khoản phải chịu trách nhiệm thanh toán tờ
séc đó và những khoản tiền phạt chi phí phát sinh liên quan đến việc khiếu nại và
khởi kiện.
- Sơ đồ luân chuyển séc chuyển khoản:
+ Thanh toán giữa khách hàng mở tài khoản ở cùng một ngân hàng
(1): Người trả tiền phát hành séc và giao cho người thụ hưởng.
(2): Người thụ hưởng tiếp nhận séc, sau khi kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của tờ
séc sẽ lập 3 liên bảng kê nộp séc cùng tờ séc nộp vào ngân hàng xin thanh toán.
(3): Ngân hàng kiểm tra tờ séc, nếu đủ điều kiện thì tiến hành trích tài khoản tiền
gửi của người trả tiền và báo Nợ cho họ.
(4): Ngân hàng ghi Có vào tài khoản của bên thụ hưởng và báo Có cho họ.
+ Thanh toán khác ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ trên địa bàn
(1): Người trả tiền phát hành séc giao cho người thụ hưởng.
(2): Người thụ hưởng sau khi kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của tờ séc sẽ lập 3 liên
bảng kê nộp séc cùng tờ séc nộp vào ngân hàng phục vụ mình xin thanh toán (
Người thụ hưởng cũng có thể nộp trực tiếp bảng kê nộp séc kèm theo tờ séc vào
ngân hàng phục vụ người trả tiền để đòi tiền).
(3): Ngân hàng sẽ tiến hành kiểm tra ( Nếu lập bảng kê có gì sai sót hoặc có các tờ
séc không hợp lệ, quá thời hạn hiệu lực thanh toán thì từ chối thanh toán) sau đó
chuyển các tờ séc và bảng kê nộp séc cho ngân hàng phục vụ người trả tiền.
(4): Ngân hàng phục vụ người trả tiền sau khi kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của tờ
séc và số dư tài khoản tiền gửi của chủ tài khoản sẽ tiến hành trích tài khoản của
người trả tiền và báo Nợ cho họ.
(5): Ngân hàng phục vụ người trả tiền dùng các liên bảng kê nộp séc lập chứng từ
thanh toán bù trừ và chuyển cho ngân hàng phục vụ người thụ hưởng để thanh toán
cho người thụ hưởng.
(6): Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng tiếp nhận các bảng kê nộp séc ( thông qua
thanh toán bù trừ ) sẽ ghi Có vào tài khoản cho người thụhưởng và báo cho họ.
<2>. Séc bảo chi
Séc bảo chi là một loại séc thanh toán được ngân hàng đảm bảo khả năng chi trả
bằng cách trích trước số tiền trên tờ séc từ tài khoản tiền gửi của người trả tiền sang
tài khoản " Đảm bảo thanh toán séc " nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của tờ séc
đó.
Séc bảo chi có phạm vi thanh toán rộng hơn séc chuyển khoản. Ngoài việc sử dụng
để thanh toán giữa các chủ thể mở tài khoản tại cùng một chi nhánh ngân hàng hoặc
hai ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ trên cùng địa bàn séc bảo chi còn được
sử dụng để thanh toán giữa khách hàng mở tài khoản tại các chi nhánh trong cùng
hệ thống trong phạm vi cả nước.
- Sơ đồ luân chuyển thanh toán toán séc bảo chi
+ Trường hợp hai chủ thể thanh toán mở tài khoản tại cùng một chi nhánh ngân
hàng
(1) : Người trả tiền làm thủ tục bảo chi séc ( lập hai liên giấy "Yêu cầu bảo chi séc"
kèm tờ séc đã ghi đủ các yếu tố nộp vào ngân hàng để xin bảo chi séc). Ngân hàng
đối chiếu giấy yêu cầu và tờ Séc, số dư tài khoản của người phát hành, nếu đủ điều
kiện thì tiến hành trích tiền từ tài khoản tiền gửi chuyển vào tài khoản " Đảm bảo
thanh toán Séc". Sau đó đóng dấu "Bảo chi" lên tờ séc và giao séc cho khách hàng.
(2): Người trả tiền giao Séc cho người thụ hưởng để nhận hàng hoá, dịch vụ.
(3): Người thụ hưởng lập bảng kê nộp Séc kèm các tờ Séc nộp vào ngân hàng xin
thanh toán.
(4): Ngân hàng kiểm tra ký hiệu mật trên tờ séc và các yếu tố cần thiết khác, tiến
hành ghi Có vào tài khoản của người thụ hưởng và báo Có cho họ.
(5): Ngân hàng tất toán tài khoản " Đảm bảo thanh toán Séc"
+ Trường hợp hai chủ thể thanh toán mở tài khoản khác ngân hàng có tham gia
thanh toán bù trừ
Về cơ bản, quy trình luân chuyển chứng từ trong trường hợp này giống như Séc
chuyển khoản, tuy nhiên có sự khác nhau về tài khoản hạch toán.
3.2. Hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm chi hoặc lệnh chi(UNC).
UNC ra đời từ khá sớm, cùng với tiến bộ khoa học kỹ thuật, nó được sử dụng ngày
một rộng rãi với các ưu thế nổi bật: an toàn, hiệu quả và đặc biệt thuận tiện dưới sự
trợ giúp của các thành tựu phát triển trong lĩnh vực công nghệ tin học ( UNC có thể
được xử lý dưới dạng các chứng từ điện tử).
Đơn vị trả tiền sau khi nhận được hàng hoá, dịch vụ cung ứng, trong thời gian nhất
định phải lập các UNC gửi đến ngân hàng để trích tài khoản chuyển trả cho đơn vị
thụ hưởng. Tuỳ theo phạm vi và tổ chức thanh toán, đơn vị phải lập từ 3-4 liên với
đâỳ đủ nội dung và các yếu tố cần thiết. Khi lập và nộp UNC vào ngân hàng, đơn vị
trả tiền phải đảm bảo đủ số dư trên tài khoản để đảm bảo chi trả. Nếu chứng từ hợp
lệ, tài khoản đủ tiền, trong phạm vi một ngày làm việc, ngân hàng phải hoàn tất
UNC đó. Nếu chứng từ không hợp lệ, hợp pháp, tài khoản không đủ số dư thì ngân
hàng không thanh toán.
- Quy trình thanh toán:
+ Trường hợp hai chủ thể mở tài khoản ở hai ngân hàng khác nhau.
(1): Người trả tiền lập 4 liên UNC nộp vào ngân hàng phục vụ mình để trích tài
khoản của mình trả tiền cho người thụ hưởng.
(2): Ngân hàng kiểm tra thủ tục lập UNC, số dư tài khoản tiền gửi của khách hàng,
nếu đủ điều kiện thanh toán thì tiến hành trích tài khoản tiền gửi của người trả tiền,
báo Nợ cho họ và chuyển tiền sang ngân hàng phục vụ người thụ hưởng để thanh
toán cho người thụ hưởng.
(3): Khi nhận được chứng từ thanh toán do ngân hàng phục vụ người trả tiền chuyển
đến, ngân hàng phục vụ người thụ hưởng dùng các liên UNC để ghi Có vào tài
khoản tiền gửi của người thụ hưởng và báo Có cho họ.
+ Trường hợp bên thụ hưởng không có tài khoản tiền gửi thì ngân hàng phục vụ bên
thụ hưởng ghi Có TK "Chuyển tiền phải trả" và báo cho bên thụ hưởng đến nhận
tiền.
3.3. Hình thức thanh toán ủy nhiệm thu hoặc nhờ thu(UNT).
UNT là giấy uỷ nhiệm đòi tiền do người thụ hưởng lập và gửi vào ngân hàng
phục vụ mình nhờ thu hộ tiền theo số lượng hàng hoá đã giao, dịch vụ đã cung ứng.
UNT được sử dụng rộng rãi trong việc thanh toán các hoá đơn định kỳ cho người
cung ứng dịch vụ công cộng như điện, nước, điện thoại … bởi nó thường được dùng
cho các giao dịch thanh toán có giá trị nhỏ nên các UNT chiếm tỷ lệ không đáng kể
trong tổng các giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt.
UNT được áp dụng thanh toán giữa các khách hàng mở tài khoản trong cùng một
chi nhánh ngân hàng hoặc các chi nhánh ngân hàng cùng hệ thống hoặc khác hệ
thống. Khách hàng mua và bán phải thống nhất thoả thuận dùng hình thức UNT đối
với những điều kiện cụ thể đã ghi trong hợp đồng kinh tế, đồng thời phải thông báo
bằng văn bản cho ngân hàng phục vụ người thụ hưởng biết làm căn cứ để thực hiện
các UNT. Sau khi giao hàng hoặc hoàn tất dịch vụ cung ứng, bên thụ hưởng lập
giấy UNT theo mẫu của ngân hàng, kèm theo hoá đơn gửi tới ngân hàng phục vụ
mình hoặc gửi trực tiếp đến ngân hàng phục vụ bên trả tiền yêu cầu thu hộ. Khi
nhận được giấy UNT trong vòng một ngày làm việc, ngân hàng bên trả tiền trích tài
khoản của khách hàng mình trả ngay cho bên thụ hưởng để hoàn tất việc thanh toán.
- Quy trình thanh toán UNT ( trường hợp các chủ thể thanh toán mở tài khoản tại 2
chi nhánh ngân hàng cùng hoặc khác hệ thống )
(1): Sau khi giao hàng hoăc cung ứng dịch vụ, người thụ hưởng lập 4 liên UNT kèm
chứng từ giao hàng nộp vào ngân hàng phục vụ mình nhờ thu hộ tiền ( Bên thụ
hưởng cũng có thể nộp trực tiếp UNT vào ngân hàng phục vụ bên trả tiền để đòi
tiền ).
(2): Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng sau khi nhận được bộ chứng từ do người
thụ hưởng gửi đến sẽ tiến hành ký tên, đóng dấu ghi vào sổ theo dõi UNT và gửi bộ
chứng từ này cho ngân hàng phục vụ người trả tiền.
(3): Ngân hàng phục vụ người trả tiền sau khi nhận được bộ chứng từ sẽ kiểm tra
các yếu tố cần thiết và làm thủ tục trích tài khoản tiền gửi của bên trả tiền và báo Nợ
cho họ.
(4): Ngân hàng phục vụ người trả tiền chuyển tiền đến ngân hàng phục vụ người thụ
hưởng để thanh toán cho người thụ hưởng.
(5): Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng ghi Có vào tài khoản của người thụ hưởng
và báo Có cho họ.
3.4. Hình thức thanh toán thư tín dụng(TTD)
TTD là hình thức thanh toán theo sự thoả thuận giữa hai bên bán và mua trong điều
kiện bên bán đòi hỏi bên mua phải có đủ tiền để chi trả phù hợp với giá trị hàng hoá
mà bên bán đã giao theo hợp đồng hay đơn đặt hàng đã ký.
TTD thường dùng để thanh toán giữa các khách hàng có tài khoản ở hai ngân hàng
khác nhau, có thể cùng hoặc khác hệ thống ( trường hợp khác hệ thống thì nơi ngân
hàng bên bán đóng trụ sở phải có ngân hàng cùng hệ thống với ngân hàng mở TTD
và tham gia thanh toán bù trừ với ngân hàng bên bán). Mỗi TTD chỉ được dùng để
thanh toán cho một người thụ hưởng. Thời hạn hiệu lực của một TTD là 3 tháng kể
từ ngày ngân hàng bên mua nhận mở TTD. Mức tiền tối thiểu cuả một TTD là 10
triệu đồng.
- Sơ đồ luân chuyển chứng từ thanh toán TTD
(1): Người trả tiền lập 5 liên giấy mở TTD yêu cầu ngân hàng phục vụ mình trích
tài khoản tiền gửi (hoặc vay ngân hàng ) một số tiền bằng tổng giá trị hàng hoá, dịch
vụ đặt mua để lưu ký vào một tài khoản riêng gọi là tài khoản " Đảm bảo thanh toán
TTD "
(2): Ngân hàng phục vụ bên trả tiền mở TTD cho người trả tiền và chuyển ngay 2
liên TTD cho ngân hàng phục vụ người thụ hưởng để báo cho người thụ hưởng biết.
(3): Khi nhận được 2 liên giấy mở TTD do ngân hàng phục vụ bên trả tiền gửi đến,
ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng tiến hành kiểm tra thủ tục mở TTD như: ký hiệu
mật, chữ ký của ngân hàng mở TTD . Sau khi ghi ngày nhận, ký tên, đóng dấu đơn
vị lên các liên giấy mở TTD sẽ gửi 1 liên cho bên thụ hưởng để làm căn cứ giao
hàng ( còn một liên lưu lại và mở sổ theo dõi TTD đến).
(4a): Bên thụ hưởng phải đối chiếu với hợp đồng kinh tế hay đơn đặt hàng, nếu đầy
đủ các yếu tố cần thiết thì giao hàng và yêu cầu người nhận hàng ký vào hoá đơn
giao hàng.
(4b): Căn cứ vào hoá đơn, chứng từ giao hàng, bên thụ hưởng lập 4 liên bảng kê hoá
đơn, chứng từ giao hàng nộp vào ngân hàng phục vụ mình để xin thanh toán.
(5): Khi nhận được bộ chứng từ do bên thụ hưởng nộp vào, ngân hàng kiểm tra thủ
tục lập bảng kê hoá đơn, chứng từ giao hàng , thời hạn hiệu lực của TTD, số tiền
bên thụ hưởng đề nghị thanh toán, sau đó, tiến hành ghi Có cho tài khoản tiền gửi
người thụ hưởng và báo Có cho họ.
(6): Căn cứ vào bảng kê hoá đơn, chứng từ giao hàng, ngân hàng bên thụ hưởng lập
giấy báo Nợ liên hàng để ghi Nợ TK Liên hàng đi và gửi cho ngân hàng phục vụ
bên trả tiền để xin thanh toán.
(7): Ngân hàng phục vụ bên trả tiền tất toán tài khoản " Đảm bảo thanh toán TTD "
3.5. Hình thức thanh toán thẻ ngân hàng .
Thẻ thanh toán là một công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành và bán cho khách
hàng của mình để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, thanh toán công nợ hay lĩnh
tiền mặt tại các ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy trả tiền mặt tự động. ở
một số nước, các hãng hay các công ty kinh doanh lớn cũng phát hành thẻ thanh
toán để thu tiền bán hàng của mình. Thẻ thanh toán có nhiều loại nhưng có một số
loại thẻ sau được sử dụng phổ biến:
- Thẻ ghi Nợ: Người sử dụng loại thẻ này không phải lưu ký tiền vào tài khoản "
Đảm bảo thanh toán thẻ". Căn cứ để thanh toán thẻ là số dư tài khoản tiền gửi của
chủ sở hữu thẻ tại ngân hàng và hạn mức thanh toán tối đa do ngân hàng phát hành
thẻ quy định. Hạn mức của thẻ được ghi vào bộ nhớ của thẻ nếu là thẻ điện tử hoặc
được ghi vào dải băng từ nếu là thẻ từ.
Loại thẻ này áp dụng cho những khách hàng có quan hệ tốt, thường xuyên và có tín
nhiệm với ngân hàng.
- Thẻ ký quỹ thanh toán(thẻ loại B) : là loại thẻ mà để được sử dụng thẻ, khách hàng
phải lưu ký một số tiền nhất định vào tài khoản " Đảm bảo thanh toán thẻ" thông
qua việc tính tiền gửi hoặc nộp tiền mặt. Số tiền ký quỹ là hạn mức của thẻ và được
ghi vào bộ nhớ của thẻ. Thẻ này áp dụng rộng rãi cho mọi khách hàng.
- Thẻ tín dụng(thẻ loại C): áp dụng với những khách hàng có đủ điều kiện được
ngân hàng đồng ý cho vay tiền để mua thẻ. Mức tiền cho vay được coi như hạn mức
tín dụng và được ghi vào bộ nhớ của thẻ, khách hàng chỉ được thanh toán số tiền
trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được ngân hàng chấp thuận.
- Xem thêm -