Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tỉ lệ và yếu tố liên quan đến bệnh chàm tay của nhân viên y tế tại quận 5 thành ...

Tài liệu Tỉ lệ và yếu tố liên quan đến bệnh chàm tay của nhân viên y tế tại quận 5 thành phố hồ chí minh

.PDF
27
56
62

Mô tả:

1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐẶNG THỊ NGỌC BÍCH TỈ LỆ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN BỆNH CHÀM TAY CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ TẠI QUẬN 5 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Dịch tễ học Mã số: 62720117 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2019 2 Công trình được hoàn thành tại: ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS ĐỖ VĂN DŨNG Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp tại ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH vào hồi ……. giờ………. ngày……. tháng……. năm ………. Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Thư viện Khoa học Tổng hợp TPHCM - Thư viện Đại học Y Dược TP.HCM 1 GIỚI THIỆU LUẬN ÁN 1. Đặt vấn đề Bệnh chàm tay là một bệnh da nghề nghiệp phổ biến trên thế giới: chiếm trên 50% bệnh da nghề nghiệp ở Liên Xô cũ, chiếm tỉ lệ từ 9% - 35% bệnh da nghề nghiệp tại Mỹ, chiếm đa số trong bệnh da nghề nghiệp ở Đan Mạch năm 2012. Bệnh chàm tay để lại các hậu quả to lớn về mặt kinh tế: đã có những người lao động phải nghỉ việc từ 1 - 4 tuần hoặc chuyển nghề do bệnh. Theo Mathias, chỉ riêng tại Mỹ, chi phí cho các vấn đề liên quan đến bệnh chàm tay ước lượng từ 222 triệu đến 1 tỉ USD mỗi năm. Nhân viên y tế (NVYT) thuộc nhóm đối tượng có nguy cơ cao mắc bệnh chàm tay, do công việc của họ phải dùng bàn tay tiếp xúc với nước nhiều lần trong ngày, ngoài ra họ còn tiếp xúc với nhiều dị ứng nguyên gây chàm tay như: dung dịch sát khuẩn, cồn I-ốt, bột talc trong găng tay, điều này cho thấy họ tiếp xúc với nhiều dị ứng nguyên gây chàm tay hơn các nghề khác. Ở nước ta, tỉ lệ bệnh chàm tay trong dân số chung và ở đối tượng nghề nghiệp có nguy cơ cao vẫn chưa được xác định. Để xác định mức độ của bệnh chàm tay ở đối tượng nghề nghiệp là nhân viên y tế, cùng với đi tìm những chứng cứ để có thể đưa bệnh chàm tay vào danh mục bệnh nghề nghiệp cần được bảo hiểm, đề tài “Tỉ lệ và yếu tố liên quan đến bệnh chàm tay của nhân viên y tế tại quận 5 thành phố Hồ Chí Minh” được thực hiện với những mục tiêu sau đây: (1) Xác định tỉ lệ hiện mắc và đặc điểm (thực trạng) bệnh chàm tay của nhân viên y tế đang làm việc trong các bệnh viện công lập tại quận 5 thành phố Hồ Chí Minh năm 2013. (2) Xác định các yếu tố liên quan đến bệnh chàm tay như: cơ địa dị ứng, nhóm tuổi nghề, mức độ rửa tay, vị trí công tác. 2 (3) Xác định hiệu quả của can thiệp bằng truyền thông giáo dục sức khỏe trong phòng ngừa bệnh chàm tay của nhân viên y tế. 2. Tính cấp thiết của đề tài Bệnh chàm tay gây ra tác hại rất nhiều, đã có người lao động phải nghỉ việc từ 1 - 4 tuần hoặc chuyển nghề. Làm nghề y mà phải chuyển nghề là một thiệt hại cho xã hội (người bệnh, ngành y) vì nghề y là một nghề nghiệp được đào tạo lâu dài, kinh nghiệm được đúc kết trong quá trình làm việc. Ở nước ta, cho đến hiện nay, bệnh chàm tay vẫn chưa được đưa vào danh mục bệnh nghề nghiệp. Do vậy đề tài có tính cần thiết quan trọng và thực tiễn, giúp các nhà quản lý biết được mức độ của bệnh chàm tay và có thêm những luận điểm, chứng cứ để đưa bệnh chàm tay vào danh mục bệnh nghề nghiệp. 3. Những đóng góp mới của luận án Luận án đã xác định được tỉ lệ hiện mắc thời khoảng 1 năm bệnh chàm tay của nhân viên y tế tại quận 5 thành phố Hồ Chí Minh năm 2013 là 15,6%. Các yếu tố liên quan đến bệnh chàm tay của nhân viên y tế gồm: cơ địa dị ứng, nhóm tuổi nghề (≥5 năm), số lần rửa tay (>5 lần) và vị trí công tác (bác sỹ khối ngoại). Truyền thông giáo dục sức khỏe giúp nâng cao kiến thức phòng bệnh và tăng cường hành vi phòng ngừa bệnh (hành vi đeo găng tay và dùng kem dưỡng da tay). 4. Bố cục luận án Luận án dày 117 trang không kể phụ lục và tài liệu tham khảo; gồm 4 chương; 37 bảng; 12 hình; 1 biểu đồ; 1 sơ đồ; 121 tài liệu tham khảo (25 tài liệu tiếng Việt; 96 tài liệu tiếng Anh) và phụ lục. Bố cục luận án gồm: đặt vấn đề: 2 trang; tổng quan tài liệu: 37 trang; đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 20 trang; kết quả: 21 trang; bàn luận: 35 trang; kết luận: 1 trang; kiến nghị: 1 trang và 3 bài báo có nội dung liên quan với luận án đã được công bố. 3 1. CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Sơ lược về bệnh nghề nghiệp và bệnh da nghề nghiệp Bệnh nghề nghiệp là những bệnh phát sinh do điều kiện lao động có hại của nghề nghiệp tác động đến người lao động. Ở nước ta, Bộ Lao Động-Thương Binh và Xã Hội đã chia bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm thành 5 nhóm, trong đó bệnh da nghề nghiệp được xếp riêng thành 1 nhóm (hiện tại có 4 bệnh được bảo hiểm). Bệnh da nghề nghiệp gặp ở mọi ngành nghề từ công nghiệp, nông lâm ngư nghiệp đến các ngành dịch vụ (y tế), thể thao. Bệnh da nghề nghiệp được xếp theo 4 loại căn nguyên sau: cơ học, lý học, hóa học, sinh học. Thường gặp nhất là do chất hóa học, chiếm tỉ lệ 90%. 1.2. Đại cương về bệnh chàm tay Bệnh chàm tay là một dạng của bệnh chàm, liên quan đến các ngón tay và lòng bàn tay. Bệnh thường ảnh hưởng cả hai bàn tay. Phần lớn có khởi đầu là khô da tay, tay trở nên sần sùi, tróc vảy, viêm đỏ và sau đó là nứt da tay. Bệnh chàm tay có 5 dạng lâm sàng chính (bảng 1.1) Bảng 1.1. Các dạng lâm sàng của bệnh chàm tay Phân loại Đặc điểm lâm sàng Kích ứng Mọi vị trí Cơ chế Chẩn đoán Hiệu ứng gây Bằng cách loại hại trực tiếp trừ không đặc hiệu Dị ứng Thể tạng Mặt lưng bị nhiều Hiện hơn mặt lòng bàn tay Có thể lan đến cổ tay. Có thể bị từ nhỏ. tượng quá mẫn muộn Làm Patch test Dựa vào bệnh Không rõ sử và đặc điểm lâm sàng 4 Phân loại Đặc điểm lâm sàng Mụn Tổ đỉa nước, Cơ chế bóng Dựa vào đặc nước ở lòng bàn tay Không rõ điểm lâm sàng và rìa ngón tay Tăng sừng Chẩn đoán Mảng dày sừng ở Dựa vào đặc lòng bàn tay > mặt Không rõ điểm lâm sàng lưng tay Chàm tay có thể trầm trọng hơn hoặc/và có thể khởi phát do một số yếu tố chính như sau: tiếp xúc với các hóa chất gây kích ứng da như: xà bông, dầu gội đầu, dầu xả, các hóa chất tẩy rửa và vệ sinh nhà cửa, chất dung môi, xi-măng, dầu mỡ… 1.3. Bệnh chàm tay của nhân viên y tế qua các nghiên cứu 1.3.1. Tỉ lệ hiên mắc bệnh chàm tay của NVYT Có nhiều nghiên cứu về tỉ lệ mắc bệnh chàm tay liên quan đến nghề y, đối tượng nghiên cứu bao gồm: nhân viên y tế, điều dưỡng, bác sỹ hoặc sinh viên điều dưỡng. Các nghiên cứu về đề tài này được thực hiện với bộ câu hỏi, hoặc vừa sử dụng bộ câu hỏi vừa khám lâm sàng (khám da tay). Bảng 1.2. Tỉ lệ hiện mắc bệnh chàm tay của nhân viên y tế qua y văn Đối tượng Quốc gia Cỡ mẫu % hồi đáp % bệnh nghiên cứu NVYT Hà Lan 1232 56,9 12 (2013) Đan NVYT 3181 71 21 Mạch (2009) Trung ĐD (2004) 214 96,3 18,3 Quốc BS (2005) 361 79,2 12,9 Nhật Bản ĐD (2003) 363 84 35 5 Quốc gia Úc Hàn Quốc Đối tượng nghiên cứu ĐD (2006) BS (2004) SVĐD (2004) ĐD (2005) SVĐD (2006) Cỡ mẫu % hồi đáp % bệnh 1162 895 232 74 34,3 85,9 53,3 25,1 18,5 262 58,8 50,0 270 74,8 10,4 BS: bác sỹ, ĐD: điều dưỡng, NVYT: nhân viên y tế, SVĐD: sinh viên điều dưỡng 1.3.2. Các yếu tố liên quan đến bệnh chàm tay của NVYT Có nhiều đề tài nói về mối liên quan giữa bệnh chàm tay và các đặc điểm của NVYT. Các đề tài mô tả cho thấy bệnh có liên quan đến các yếu tố như: cơ địa dị ứng, mức độ rửa tay (các kết quả này hằng định qua các nghiên cứu) và tìm ra một số dị ứng nguyên gây bệnh chàm tay như: ethanol, iode, chlorhexidine, acrylate, găng tay cao su. Có 2 đề tài đoàn hệ theo dõi dọc bệnh chàm tay ở sinh viên điều dưỡng được thực hiện tại Đức (2005) và Hà Lan (2013) xác định thâm niên công tác có liên quan đến bệnh chàm tay. Điểm mạnh của các nghiên cứu là chiều thời gian rõ rệt; xác định được số mới mắc bệnh chàm tay theo bộ câu hỏi là 6,7%; theo khám lâm sàng là 4,8% (2005). Tỉ suất mới mắc bệnh chàm tay ở sinh viên điều dưỡng năm 2013 (Hà Lan) là 13,7% người-năm học. Ngoài ra có một nghiên cứu bệnh chứng về chàm tay ở điều dưỡng được thực hiện tại Đài Loan vào năm 2011 Kết quả cho thấy chàm thể tạng là yếu tố nguy cơ cao đối với bệnh chàm tay (OR hiệu chỉnh =3,763; KTC95%: 2,399 - 5,901 và p<0,001). Bên cạnh đó thâm niên công tác cũng liên quan đến chàm tay (OR=1,524; KTC95%: 1,067 - 2,177 và p=0,021). Giữa những người không bị 6 chàm thể tạng thì số lần rửa tay (trên 6 lần) là yếu tố liên quan đến bệnh chàm tay (OR=3,02; KTC95%: 1,26 -7,23 và p =0,0131). Hình 1.1. Các yếu tố liên quan đến bệnh chàm tay của NVYT 1.3.3. Các nghiên cứu can thiệp nhằm thay đổi hành vi trong phòng ngừa bệnh chàm tay của nhân viên y tế Năm 1999, tại Đức, tác giả Loffler và cộng sự tiến hành nghiên cứu can thiệp kéo dài 3 năm (1999 - 2002) tại 14 trường điều dưỡng nhằm dự phòng nguyên phát bệnh da nghề nghiệp cho nhân viên y tế. Nhóm can thiệp là nhóm được nhận một chương trình giảng dạy mọi vấn đề liên quan đến phòng ngừa nguyên phát và nhóm chứng là nhóm không có chương trình này. Đơn vị để chọn phân bố ngẫu nhiên vào nhóm can thiệp là trường. Chương trình giảng dạy bao gồm các kiến thức về: cấu trúc da, cách dự phòng bệnh chàm tay (dùng kem dưỡng da, cách rửa tay, cách tẩy trùng bàn tay). Kem dưỡng da được cung cấp cho mọi sinh viên (nhóm can thiệp và nhóm chứng), ghi nhận lượng kem sử dụng và đánh giá việc sử dụng kem dưỡng da bằng kỹ thuật huỳnh quang. Kết quả: ở nhóm can thiệp, tình trạng da tay tốt hơn so với nhóm chứng. Trong khi ở nhóm chứng, sau 3 năm, da tay bị bệnh 7 nhiều (OR=4,8; KTC95% 2,9 - 7,8). Điểm mạnh của nghiên cứu đó là thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng. Điểm hạn chế của đề tài là thời gian can thiệp lâu (3 năm) đưa đến tỉ lệ mất mẫu cao (37,6%). Năm 2001, tại Copenhagen, Held và cộng sự làm nghiên cứu can thiệp để điều tra liệu một chương trình giáo dục sức khỏe có hiệu quả trong việc phòng ngừa các bệnh da ở bàn tay. Nghiên cứu được tiến hành ở 107 sinh viên điều dưỡng, nhóm can thiệp có 61 người, nhóm chứng có 46 người, theo dõi trong 10 tuần thực tập tại bệnh viện. Tất cả những người tham gia đều nhận được bộ câu hỏi, khám da tay, đo chỉ số TEWL và làm patch test. Kết quả cho thấy: chỉ số TEWL tăng ở nhóm chứng (p<0,005); làm patch test phát hiện dị ứng nguyên gồm: nickel, hỗn hợp tạo mùi thơm, colophonium, hỗn hợp mercapto. Điểm mạnh của nghiên cứu đó là thử nghiệm can thiệp có nhóm chứng, có phân tích thông tin của nhóm bỏ cuộc. Điểm hạn chế của đề tài này là không kiểm soát được sự lây nhiễu thông tin giữa 2 nhóm, không có làm mù, không nêu được RR và NNT. Vào năm 2005, tại miền Bắc nước Đức, Tác giả Dulon và cộng sự, tiến hành nghiên cứu can thiệp ngẫu nhiên có nhóm chứng ở đối tượng là điều dưỡng khoa Lão để dự phòng bệnh da nghề nghiệp. Mục đích của nghiên cứu này là để điều tra liệu một chương trình chăm sóc da cho điều dưỡng khoa Lão bằng lời khuyên và huấn luyện cho điều dưỡng cách làm giảm bệnh chàm tay, làm thay đổi hành vi có liên quan đến công việc để bảo vệ da và tăng việc cung cấp các sản phẩm chăm sóc da. Đo lường hiệu quả của can thiệp (hành vi bảo vệ da tay) tại thời điểm ban đầu và 3 tháng sau can thiệp. Kết quả: tại thời điểm ban đầu, không có sự khác biệt về hành vi giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng. Sau 3 tháng theo dõi, bệnh chàm tay ở nhóm can thiệp giảm từ 26% xuống còn 17% (p=0,02); tình trạng chàm tay ở nhóm chứng không 8 thay đổi; hành vi dùng kem dưỡng da (p=0,002) và lót bông gòn dưới găng tay (p=0,001) ở nhóm can thiệp tăng so với nhóm chứng. Năm 2009, tại Đan Mạch, tác giả Ibler và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có làm mù để so sánh hiệu quả giữa giáo dục sức khỏe (giáo dục chăm sóc da và tư vấn cá nhân) so với điều trị thông thường bệnh chàm tay của nhân viên y tế. Mục đích của nghiên cứu là đánh giá hiệu quả phòng ngừa thứ phát (giáo dục sức khỏe) so với điều trị thông thường trong bệnh chàm tay của nhân viên y tế. Biện pháp can thiệp là giáo dục sức khỏe về chăm sóc da và tư vấn cá nhân dựa trên kết quả tìm dị ứng nguyên của patch test và prick test. Kết quả (sau 5 tháng): chỉ số HECSI giảm ở nhóm can thiệp so với nhóm chứng (p<0,001); chỉ số chất lượng cuộc sống ở nhóm can thiệp cải thiện hơn so với nhóm chứng (p<0,003); hành vi bảo vệ da (cách rửa tay, đeo găng tay) ở nhóm can thiệp tốt hơn so với nhóm chứng. 1.3.4. Các công trình nghiên cứu về chàm tay ở Việt Nam Tại Việt Nam, các công trình nghiên cứu bệnh chàm tay vẫn còn ít. Có nhiều đề tài nghiên cứu về bệnh da (từ bệnh da nhiễm trùng đến bệnh da miễn dịch dị ứng, tân sinh) ở các ngành nghề nhưng riêng về bệnh chàm tay thì số lượng rất ít. Cụ thể là có đề tài nghiên cứu về chất lượng cuộc sống của bệnh nhân bị chàm tay, chàm tay ở công nhân xây dựng; riêng đối tượng là nhân viên y tế thì chưa có. 2. CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu Dân số mục tiêu là các nhân viên y tế bao gồm bác sỹ và điều dưỡng/nữ hộ sinh đang làm việc trong các bệnh viện công lập tại quận 5 thành phố Hồ Chí Minh. Dân số chọn mẫu gồm nhân viên y tế đang làm việc trong các bệnh viện công lập tại quận 5 thành phố Hồ Chí 9 Minh năm 2013 (44 khoa phòng). Đối tượng nghiên cứu gồm nhân viên y tế được chọn ngẫu nhiên từ danh sách, thỏa theo tiêu chí đưa vào và loại ra. Tiêu chuẩn đưa vào nghiên cứu bao gồm các đối tượng sau đây: - Các nhân viên y tế đang làm việc không phân biệt biên chế hay hợp đồng. - Đồng ý tham gia nghiên cứu và trả lời bảng thu thập thông tin. - Có thời gian làm việc trong ngành y tối thiểu 6 tháng. Tiêu chuẩn loại ra bao gồm các đối tượng sau đây: - Không trực tiếp tham gia hoạt động khám chữa bệnh. - Không có mặt trong ngày khám da tay 2.2. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu: Giai đoạn 1: mô tả cắt ngang có phân tích. Giai đoạn 2: can thiệp bằng truyền thông giáo dục sức khỏe dựa vào mô hình niềm tin sức khỏe. 10 Cỡ mẫu nghiên cứu giai đoạn 1: cỡ mẫu được tính theo công thức sau: n= 2 Z1−α/2 P(1 − P) d2 Trong đó: với độ tin cậy 95% α = 0,05 (xác suất sai lầm loại 1) d = 0,04 (sai số cho phép) Z 1 – α /2 = 1,96 (với α = 0,05) Có 2 đề tài nghiên cứu bệnh chàm tay ở nhân viên y tế, tỉ lệ hiện mắc thời khoảng 1 năm bệnh chàm tay là 21% và 12%. P được chọn là 21%, thay vào công thức ta có: n ≈ 399 Dự trù mất mẫu là 10%, do đó cỡ mẫu sẽ là: 399/0,9 ≈ 444 Cỡ mẫu nghiên cứu giai đoạn 2: cỡ mẫu cho nghiên cứu can thiệp được tính theo công thức kiểm định hai số trung bình: 2 n= (Z1−α + Z1−β ) (𝜎12 + 𝜎22 /r) 2 (𝜇1 − 𝜇2 )2 Giả định có 80% cơ hội, ở mức ý nghĩa 5% để so sánh 2 trung bình của mẫu cặp (trước và sau can thiệp): α=0,05 và Z975=1,96; 1-β=0,8 và Z0,8=0,84 Cỡ mẫu cho kiến thức: n1=n2=57 Cỡ mẫu cho hành vi: n1=n2=48 Cỡ mẫu cho thiết kế can thiệp: n1=n2=57 Kỹ thuật chọn mẫu: ngẫu nhiên hệ thống. Công cụ thu thập số liệu: bộ câu hỏi cấu trúc tự điền, bảng điểm HECSI Phân tích số liệu: Phương pháp phân tích thống kê sẽ theo sát với các mục tiêu đề ra như sau: 11 - Giai đoạn 1 (thiết kế cắt ngang): báo cáo tần số và % các biến số: giới, cơ địa dị ứng, nhóm tuổi nghề, mức độ rửa tay, bệnh chàm tay; báo cáo PR và KTC95% của PR; báo cáo OR và KTC95% của OR; hồi qui logistic đa biến để khử các yếu tố gây nhiễu và tương tác. - Giai đoạn 2 (thiết kế can thiệp): báo cáo tần số và % các biến số: giới, nhóm tuổi nghề, cơ địa dị ứng, mức độ rửa tay; mô tả số trung bình và độ lệch chuẩn của kiến thức, hành vi trước và sau can thiệp; xác định hiệu quả của can thiệp đến kiến thức và hành vi phòng ngừa bệnh. Kiểm soát sai lệch: để kiểm soát sai lệch chọn lựa, dân số chọn mẫu phải theo đúng như các tiêu chí được đề ra ở phần đối tượng nghiên cứu; theo đúng các tiêu chí đưa vào và loại ra. Để hạn chế sai lệch do hồi tưởng, các yếu tố tiền căn bệnh và các yếu tố liên quan đến bệnh chàm tay được giới hạn trong khoảng thời gian 12 tháng gần nhất. Đạo đức nghiên cứu: nghiên cứu này tuân thủ đạo đức nghiên cứu y khoa. Các đối tượng nghiên cứu đã được giải thích rõ ràng về mục đích và ý nghĩa của nghiên cứu, và chỉ có đối tượng đồng thuận tham gia vào nghiên cứu mới được nhận bộ câu hỏi và khám bệnh da. Tất cả đối tượng tham gia nghiên cứu đều được khám bệnh da và trong trường hợp phát hiện mắc bệnh (chàm tay hoặc bệnh da) sẽ được điều trị, khuyến cáo và tư vấn đúng chuyên khoa. Biện pháp can thiệp không xâm lấn: truyền thông sức khỏe nhằm gia tăng hành vi phòng ngừa bệnh. Đề tài đã được hội đồng đạo đức của đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh chấp thuận cho nghiên cứu theo công văn số 60/ĐHYDHĐ ngày 12 tháng 02 năm 2015. 12 3. CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ Giai đoạn 1 của nghiên cứu được tiến hành trong thời gian từ tháng 02/2013 đến tháng 7/2013 các bệnh viện quận 5. Có 415 nhân viên y tế đã trả lời bộ câu hỏi và có mặt đầy đủ trong ngày khám da tay. Trong đó, 100% thỏa tiêu chí nghiên cứu với đầy đủ thông tin được đưa vào phân tích. Tỉ lệ nhân viên y tế tham gia vào nghiên cứu là 93% (415/483). Giai đoạn 2 được tiến hành từ 11/2016-04/2017. Có 107 đối tượng tham gia với đầy đủ thông tin được đưa vào phân tích. Tỉ lệ tham gia 94% (107/114). Kết quả được thể hiện như sau: 3.1. Tỉ lệ hiện mắc bệnh chàm tay của nhân viên y tế Bảng 3.1. Tỉ lệ bệnh chàm tay và đặc điểm chung của nhân viên y tế Tần số Tỉ lệ % Đặc điểm Giới Nữ 240 57,8 Nam 175 42,2 Vị trí công tác Điều dưỡng 230 55,4 BS khối nội 102 24,6 BS khối ngoại 83 20,0 Cơ địa dị ứng Không 324 79,1 Có 91 21,9 Nhóm tuổi nghề Dưới 5 năm 120 28,9 ≥ 5 năm 295 71,1 Mức độ rửa tay 0-5 lần 88 21,2 6-10 lần 136 32,8 >10 lần 191 46,0 Dùng dung dịch sát khuẩn nhanh Không 333 80,2 Có 82 19,8 13 Đặc điểm Tỉ lệ hiện mắc thời khoảng 1 năm bệnh chàm tay Tần số Tỉ lệ % 65 15,6 Bảng 3.1 cho thấy: nữ nhiều hơn nam; điều dưỡng nhiều hơn bác sỹ; nhóm tuổi nghề trên 5 năm chiếm đa số; tỉ lệ bệnh chàm tay qua khám da tay là 6,5%; tỉ lệ hiện mắc thời khoảng 1 năm bệnh chàm tay của NVYT là 15,6%. 3.2. Các yếu tố liên quan đến bệnh chàm tay Bảng 3.2. Các yếu tố liên quan đến bệnh chàm tay qua bộ câu hỏi Bệnh Không PR (KTC95%) p chàm tay bệnh n (%) n (%) Giới tính Nữ 41 (17,1) 199 (82,9) 1,2 (0,8 - 1,9) 0,3 Nam 24 (13,7) 151 (86,3) 1 Cơ địa dị ứng Có 21 (23,1) 70 (76,9) 1,7 (1,1 - 2,7) 0,03 Không 44 (13,6) 280 (86,4) 1 Nhóm tuổi nghề ≥ 5 năm 54 (18,3) 241 (81,7) 2,0 (1,1 - 3,7) 0,02 Dưới 5 năm 11 (9,2) 109 (90,8) 1 Mức độ rửa tay >10 lần 39 (20,4) 152 (79,6) 3,6 (1,5 - 8,8) 0,002 6-10 lần 21 (15,4) 115 (84,6) 2,7 (1,1 - 6,9) 0,03 0-5 lần 5 (5,7) 83 (94,3) 1 Vị trí công tác BS ngoại 19 (22,9) 64 (77,1) 2,6 (1,2 - 5,4) 0,008 Điều dưỡng 37 (16,1) 193 (83,9) 1,8 (0,9 - 3,6) 0,08 BS nội 9 (8,8) 93 (91,2) 1 Bảng 3.2 cho thấy chàm tay có liên quan có ý nghĩa thống kê với cơ địa dị ứng, nhóm tuổi nghề, mức độ rửa tay và vị trí công tác. 3.3 Hiệu quả của truyền thông giáo dục sức khỏe 14 Bảng 3.3. Đặc điểm mẫu ở thời điểm T0 và T1 Đặc điểm NCT (n=57) NC (n=50) p Thời điểm T0 Giới 15 (26,3) Nam 20 (40) 0,13* Nữ 42 (73,7) 30 (60) Nghề nghiệp 37 (64,9) Điều dưỡng 32 (64) 0,9* Bác sỹ 20 (35,1) 18 (36) Mức độ rửa tay 0 - 5 lần/ngày 4 (7,0) 5 (10) 6 - 10 lần/ngày 13 (22,8) 12 (24) 0,5* 11 - 20lần/ngày 29 (50,9) 14 (28) > 20 lần/ngày 11 (19,3) 19 (38) Nhóm tuổi nghề 0 - 5 năm 13 (22,8) 10 (20) 0,7* >5 năm 44 (77,2) 40 (80) Chàm tay Không 55 (96,5) 47 (94) 0,5* Có 2 (3,5) 3 (6) HECSI 17 ±1,4 13,6 ± 5,5 0,7** Kiến thức phòng bệnh 5,4 ± 2,2 5,7 ± 1,2 0,4** Dùng kem dưỡng da 0,7 ± 0,7 0,4 ± 0,4 0,003** Đeo găng tay 1,0 ± 0,7 0,9 ± 0,8 0,4** Thời điểm T1 Mất mẫu 2 (3,5) 2 (4) 0,8* Bệnh chàm tay 0 4 (8) 0,03* Kiến thức phòng bệnh 8,9 ± 0,9 5,9 ± 1,3 <0,001** Dùng kem dưỡng da 1,2 ± 0,5 0,4 ± 0,5 <0,001** Đeo găng tay 1,6 ± 0,5 0,9 ± 0,8 <0,001** Số liệu trình bày là số ca (%) hoặc trung bình ± độ lệch chuẩn *: phép kiểm chi bình phương **: phép kiểm T test 15 Bảng 3.4. Sự thay đổi về kiến thức và hành vi giữa 2 nhóm từ T0-T1 NCT (n=57) NC (n=50) Số điểm Số điểm p p Độ khác biệt trong khác biệt ∆NCT-∆NC p Kiến thức T0 5,4 (0,3) 5,7 (0,2) T1 8,9 (0,1) 5,9 (0,2) ∆=T1-T0 3,5 (0,2) <0,001 0,2 (0,3) 0,5 3,3 (0,4) <0,001 Dùng kem dưỡng da tay T0 0,8 (0,1) 0,4 (0,1) T1 1,2 (0,1) 0,4 (0,1) ∆=T1-T0 0,4 (0,1) <0,01 0 0,4 (0,1) <0,01 Đeo găng tay T0 1,0 (0,1) 0,9 (0,1) T1 1,6 (0,1) 0,9 (0,1) (∆=T1-T0) 0,6 (0,1) <0,01 0 0,6 (0,2) <0,01 Số liệu trình bày là trung bình (sai số chuẩn) Trung bình và sai số chuẩn được ước lượng bằng hồi quy tuyến tính Bảng 3.4 cho thấy: tại thời điểm ban đầu, không có sự khác biệt giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng về giới, nghề nghiệp, mức độ rửa tay, nhóm tuổi nghề, bệnh chàm tay, chỉ số HECSI. CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN Qua xử lý số liệu thu thập được bằng bộ câu hỏi: giai đoạn 1 của nghiên cứu có 415 nhân viên y tế đã trả lời bộ câu hỏi và có mặt trong ngày khám da tay tại 9 bệnh viện công lập quận 5 thành phố Hồ Chí Minh; giai đoạn 2 có 107 đối tượng là nhân viên y tế của bệnh viện An Bình và CTCH tham gia vào nghiên cứu, rút ra được một số nhận xét sau đây: 16 4.1. Đặc điểm mẫu giai đoạn 1 Tỉ lệ tham gia vào nghiên cứu là 93% (415/444), như vậy tỉ lệ mất mẫu là 7%. Với tỉ lệ này vẫn đảm bảo độ lớn của cỡ mẫu, hạn chế những sai lệch do cơ hội vì trong lúc tính toán cỡ mẫu đã dự trù mất mẫu 10%. Kết quả thống kê cho thấy điều dưỡng nhiều hơn bác sỹ (bảng 3.1). Tỉ số điều dưỡng/bác sỹ trong mẫu (230/185=1,2) cũng tương đương với thống kê của Bộ Y Tế năm 2013 (điều dưỡng/bác sỹ=1,4). Đa số nhân viên y tế rửa tay trên 5 lần trong một ngày làm việc thường nhật. Điều này tương tự như báo cáo tại Thổ Nhĩ Kỳ của tác giả Ozyazicioglu và cộng sự: 58% nhân viên y tế rửa tay trên 10 lần trong ngày làm việc. Khám da tay, chẩn đoán chàm tay và chấm điểm HECSI được thực hiện bởi các bác sỹ da liễu trong ngày hẹn đến khám và thu lại bộ câu hỏi. Tỉ lệ bệnh chàm tay qua khám da tay là 6,5%. Dạng lâm sàng thường gặp nhất là dạng mụn nước. Điểm trung bình của chỉ số HECSI là 20,2 ±5,3 (dao động từ 15 – 37): tương đồng với điểm HECSI của các bệnh nhân bị chàm tay trong các nghiên cứu tại Đan Mạch năm 2009 (điểm trung bình của HECSI=19,9). So sánh với tỉ lệ bệnh chàm tay trong dân số chung của một số nước qua khám da tay (Mỹ, Hà Lan): tỉ lệ thay đổi từ 0,5%-3,2%, tỉ lệ chàm tay của nhân viên y tế trong đề tài này cao hơn nhiều. Tương tự các nghiên cứu khác cũng cho thấy tỉ lệ chàm tay qua khám lâm sàng của Nha Sỹ, ĐD đều cao hơn nhiều so với tỉ lệ chàm tay trong dân số chung. Đây là một trong hai đặc trưng trong định nghĩa bệnh nghề nghiệp của tổ chức lao động quốc tế. Khám lâm sàng được coi là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán bệnh chàm tay. Tuy nhiên việc thực hiện rất tốn kém vì cần bác sỹ chuyên 17 khoa da liễu thăm khám và kết luận chẩn đoán bệnh. Chính vì vậy mà các đề tài nghiên cứu bệnh chàm tay được chẩn đoán bằng khám lâm sàng rất ít so với các đề tài được thực hiện bằng bộ câu hỏi. Việc chẩn đoán bệnh chàm tay bằng bộ câu hỏi, mặc dù không chính xác như việc chẩn đoán bằng khám lâm sàng, nhưng do tính khả thi, ít tốn kém và dễ thực hiện nên được nhiều tác giả ứng dụng. Do kết cấu của bộ câu hỏi, các triệu chứng về bệnh chàm tay được hỏi trong 12 tháng (“bạn có bị các triệu chứng... trong vòng 12 tháng qua?”), do đó tỉ lệ bệnh chàm tay theo bộ câu hỏi được gọi là tỉ lệ hiện mắc thời khoảng 1 năm 4.2. Tỉ lệ hiện mắc thời khoảng 1 năm bệnh chàm tay Tỉ lệ hiện mắc thời khoảng một năm bệnh chàm tay của nhân viên y tế năm 2013 là 15,6% (bảng 3.1). Kết quả này thấp hơn kết quả nghiên cứu tại Đan Mạch (21%) và cao hơn kết quả nghiên cứu tại Hà Lan (12%). Các đề tài tại các nước trong khu vực (Trung Quốc, Đài Loan…) trên đối tượng hoặc là ĐD, hoặc là BS; tỉ lệ hiện mắc thay đổi từ 12,9% - 18,3%. Như vậy, kết quả của đề tài này cũng tương đồng với tỉ lệ chàm tay của NVYT các nước trong khu vực. So sánh với tỉ lệ hiện mắc bệnh chàm tay trong dân số chung (được thực hiện bằng bộ câu hỏi) ở một số quốc gia (Hà Lan, Thụy Điển, Na Uy: dao động từ 8,2%-10,6%): tỉ lệ hiện mắc bệnh chàm tay ở nhân viên y tế cao hơn nhiều so với tỉ lệ bệnh chàm tay trong dân số chung. Như vậy, bệnh chàm tay qua khám da tay và bệnh chàm tay qua bộ câu hỏi ở đối tượng là nhân viên y tế đều cao hơn nhiều so với bệnh chàm tay trong dân số chung. 4.3. Các yếu tố liên quan đến bệnh chàm tay - Nhóm tuổi nghề: Kết quả phân tích thống kê cho thấy bệnh chàm tay có liên quan có ý nghĩa thống kê với nhóm tuổi nghề (xem 18 bảng 3.2). Mốc thời gian để nghiên cứu bệnh nghề nghiệp thay đổi tùy theo loại bệnh. Trong đề tài này chọn mốc thời gian là 5 năm để dễ so sánh với các đề tài đã công bố bởi vì trong nghiên cứu tương tự trước đây, các tác giả thường lấy mốc là 5 năm. So sánh với các đề tài theo dõi dọc ở đối tượng là sinh viên điều dưỡng của Klaus và Visser: tỉ lệ chàm tay tăng theo năm học của sinh viên. Đề tài của tác giá Lan tại Đài Loan (thiết kế nghiên cứu bệnh chứng) ở đối tượng là điều dưỡng cho thấy nhóm có thâm niên cao bị chàm tay nhiều hơn (OR=1,524; p=0,021 và KTC95%: 1,067 - 2,177). Xét về mặt y học chứng cứ thì các kết quả từ nghiên cứu phân tích có độ mạnh hơn các nghiên cứu mô tả trong việc diễn đạt các yếu tố nguy cơ. Như vậy, thâm niên công tác là yếu tố nguy cơ của bệnh chàm tay và kết quả này hằng định qua các nghiên cứu. - Cơ địa dị ứng: kết quả thống kê cho thấy bệnh chàm tay có liên quan đến cơ địa dị ứng (bảng 3.2). Điều này cũng tương tự như kết quả nghiên cứu tương tự của Smith và cộng sự được thực hiện: tại Hàn Quốc (trên đối tượng nghiên cứu là sinh viên điều dưỡng) với OR=4,2; p =0,0083; KTC95%: 1,5 - 12,8; tại Trung Quốc trên đối tượng là điều dưỡng với OR=4,6; p=0,0096; KTC95%: 1,4 - 15,0. Các nghiên cứu khác như: nghiên cứu tại Thổ Nhĩ Kỳ của Ozyazicioglu cũng cho kết quả tương tự là bệnh chàm tay có liên quan với tiền căn dị ứng (p<0,01); nghiên cứu tại Ba Lan năm 2006 của Szepietowski (chàm tay của điều dưỡng) đã nhận thấy rằng bệnh chàm tay có liên quan đến tiền căn viêm mũi dị ứng (p<0,0001); gần đây nhất, tác giả Ibler và cộng sự cũng tìm ra sự liên quan giữa cơ địa dị ứng thể tạng và bệnh chàm tay (p<0,001). Tại Đài Loan, nghiên cứu bệnh chứng của tác giả Lan ở đối tượng là điều dưỡng cho thấy chàm thể tạng là yếu tố nguy cơ của bệnh chàm tay (OR hiệu chỉnh =3,763; KTC95%:
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng