Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng việc sử dụng phương pháp dạy hoc trực quan tại các trường mầm non huy...

Tài liệu Thực trạng việc sử dụng phương pháp dạy hoc trực quan tại các trường mầm non huyện Sóc Sơn - Hà Nội

.PDF
50
544
61

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Lí do chon đề tài Chúng ta đang sống trong những năm đầu của thế kỉ XXI, thế kỉ của sự tiến bộ vượt bậc về khoa học và công nghệ, thế kỉ của những con người thông minh, có trình độ chuyên môn cao, tự chủ, năng động và sáng tạo. Vì thế đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài là việc mà quốc gia nào cũng cần phải chú trọng. Hòa chung vào dòng chảy của nhân loại, Việt Nam đã và đang từng bước tiến nhanh trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa, đưa nước ta từ một nước có nền công nghiệp lạc hậu tiến kịp so với các quốc gia khác, hội nhập với xu thế quốc tế. Trong sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia, giáo dục đóng vai trò hết sức quan trọng, nó là động lực cho sự phát triển bền vững và đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho con người, đầu tư cho sự phát triển. Hiện nay, giáo dục đang là mối quan tâm hàng đầu của toàn xã hội, đặc biệt là giáo dục mầm non vì đây là bậc học nền tảng, hình thành cho trẻ những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và lao động, đặt nền móng vững chắc cho các bậc học tiếp theo. Muốn làm được điều này, chúng ta phải tiến hành đồng bộ những vấn đề của bậc học mầm non, phải có nội dung và phương pháp thích họp. Trong đó việc đổi mới phương pháp dạy học là một xu thế tất yếu để nâng cao chất lượng dạy học hiện nay. Đổi mới hoạt động theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập, phát huy sự tự chủ, sáng tạo của học sinh. Thực trạng dạy học hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu của giáo dục nước nhà mà một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó là do việc sử dụng các phương pháp dạy học chưa tốt, chưa thực sự hiệu quả. 1 Hiện nay các phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy học trực quan nói riêng chưa được vận dụng tốt vào trong quá trình dạy học. Yì vậy kết quả đem lại chưa được như mong muốn. Để có cái nhìn khái quát hơn và góp phần nâng cao hiệu quả việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan ở trường mầm non, tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu: “Thực trạng việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan tại các trường mầm non huyện Sóc Sơn - Hà Nội”. 2. Mục đích nghiên cứu Nhằm phát hiện thực trạng việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan tại các trường mầm non huyện Sóc Sơn - Hà Nội. Tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan tại các trường mầm non nhằm nâng cao chất lượng dạy học. 3. Khách thể, đối tượng nghiên cứu - Khách thể nghiên cứu: Phương pháp dạy học ở trường mầm non. - Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan tại trường mầm non. 4. Phạm vi nghiên cứu Phương pháp dạy học trực quan tại các trường mầm non huyên Sóc Sơn - Hà Nội (trường mầm non Tiên Dược, trường mầm non Mai Đình A). 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Tìm hiểu cơ sở lí luân 5.2. Tìm hiểu thực trạng việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan tại các trường mầm non huyên Sóc Sơn - Hà Nội 5.3. Nguyên nhân và giải pháp 6. Giả thuyết khoa học Việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan ở các trường mầm non vẫn chưa đạt kết quả cao, có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó. Nếu 2 phương pháp dạy học trực quan được tổ chức và áp dụng tốt sẽ phát huy được các ưu điểm và hạn chế tối đa các nhược điểm của phương pháp này, đồng thời nâng cao chất lượng dạy học. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết - Phương pháp đọc sách, đọc tài liệu 7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp thống kê phân tích số liệu - Phương pháp quan sát - Phương pháp điều tra, phỏng vấn, hỏi đáp 8. Cấu trúc khoá luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, khoá luận bao gồm 3 chương Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài Chương 2: Thực trạng việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan tại các trường mầm non huyện Sóc Sơn - Hà Nội Chương 3: Nguyên nhân và giải pháp 3 CHƯƠNG1 C ơ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Phương pháp dạy học trực quan được sử dụng từ kiểu dạy học sơ khai nhất của Xôcrat và Khổng Tử để con người nhận thức được thế giới. Bởi lẽ theo họ thế giới hòa tan trong ta và con người có thể nhận thức được chính bản thân họ. Mối quan tâm của Khổng Tử đó là tri thức kinh nghiệm không có sẵn trong mỗi con người, nó được hình thành trong mỗi con người thông qua học tập. Ông khẳng định: “Tính người ta vốn gần nhau”, Khổng Tử rất coi trọng nhận thức cảm tính, con người nhận thức được thế giới phải dựa vào kết quả quan sát các sự vật trực quan. Từ những điều nghe thấy hai ông rút ra được nội dung dạy học. Từ đó “phương pháp trực quan gắn liền với dạy học”. Đầu thế kỉ XVII, nhà giáo dục nổi tiếng người Tiệp Khắc J.A.Kômenski (1592 - 1670) đã gây dựng nhà trường, coi trọng trường học. Ông đã đưa ra nguyên tắc dạy học, lí luận dạy học và phương pháp dạy học của quá trình nhận thức. Ông cho rằng kiến thức càng dựa vào cảm giác thì nó càng xác thực. Nghiên cứu sự vật không chỉ dựa vào cái mà người ta quan sát, chứng minh mà phải căn cứ vào những cái chính mắt mình nhìn, chính tai mình nghe, chính mũi mình ngửi, chính lưỡi mình nếm, chính tay mình sờ... Ý nghĩa cơ bản và họp lí của nguyên tắc này được coi là ở chỗ độc lập với việc nó truyền thụ bằng lời (mà người ta vẫn gọi là dạy chay) một cách giáo điều. Nguyên tắc này giúp học sinh bằng kinh nghiệm của bản thân nhìn thấy được tri thức cụ thể, làm nền tảng cho tư duy. Vì vậy nguyên tắc này được coi là nguyên tắc vàng trong lí luận dạy học. Nguyên tắc này cho rằng ở giai đoạn thấp, trẻ mầm non tư duy cụ thể. Tính cụ thể ấy buộc giáo viên phải minh họa những khả năng gọi là trìu tượng bằng những sự vật có thật trong cuộc sống, 4 bằng những tranh ảnh, mô hình... bằng cách mô tả rõ ràng chi tiết để gợi lại cho học sinh nhớ lại những cái đã học hoặc tưởng tượng những cái chưa hề thấy. Nhà sư phạm J.J.Rutxo (1712 - 1778) cũng kịch liệt phê phán nhà trường đương thời lam dụng lời nói. Ồng đã lớn tiếng: “Đồ vật, đồ vật - hãy đưa ra đồ vật. Tôi không ngừng nhắc đi nhắc lại rằng, chúng ta lạm dụng quá mức lời nói - Bằng cách giảng giải ba hoa, chúng ta chỉ tạo nên con người ba hoa”. Trên cơ sở kế thừa công trinh nghiên cứu của các bậc cha ông đi trước, ngày nay phương pháp dạy học trực quan cũng được rất nhiều nhà nghiên cứu giáo dục quan tâm và đi sâu nghiên cứu các khía cạnh khác nhau. Đặc biệt đã có nhiều tại liệu có giá trị được công bố. về mặt lí luân có tác giả có tác giả Phan Trọng Ngọ, Dương Diệu Hoa, Lê Tràng Định trong cuốn: “Vấn đề trực quan trong dạy học”. Ngoài ra còn rất nhiều tác giả khác quan tâm đến vấn đề này: Đào Thanh Âm, Giáo dục học mầm non, NXB Đại học Sư Phạm. Nguyễn Thị Ngọc Hân, Phương pháp trực quan trong dạy môn tiếng Việt ở bậc học tiểu học. Nguyễn Thị Hoa, Phương pháp trực quan trong việc phát triển vốn tò cho trẻ mẫu giáo bé, Khóa luận tốt nghiệp. Đàm Thị Hoa, vấn đề trực quan trong dạy học môn Tiếng Việt ở tiểu học, Khóa luận tốt nghiệp. 1.2. Một số vấn đề về phương pháp dạy học trực quan 1.2.1. Khái niệm phương pháp dạy học Phương pháp dạy học là phương pháp được xây dựng và vận dụng vào một quá trình cụ thể - quá trình dạy học. Đây là quá trình đặc trưng có tính chất hai mặt, nghĩa là bao gồm hai hoạt động: Hoạt động dạy của thầy và 5 hoạt động học của trò. Hai hoạt động này tồn tại và được tiến hành trong mối quan hệ biện chứng. Hoạt động dạy của thầy đóng vai trò chủ đạo (tổ chức, điều khiển) và hoạt động học của trò đóng vai trò tích cực chủ động (tự tổ chức, tự điều khiển). Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về phương pháp dạy học nhưng ta có thể hiểu: Phương pháp dạy học là tổ hợp các cách thức hoạt động của cả thầy và trò trong quá trình dạy học mà thầy và trò sử dụng để đạt được mục đích dạy học. 1.2.2. Nhóm các phương pháp dạy học trực quan Phương pháp dạy học mà sử dụng những đối tượng và hiện tượng hiện thực (hay những vật mô tả chúng) gọi là các phương pháp dạy học trực quan. Hoạt động nhận thức của trẻ trong quá trình nắm những tri thức và kĩ năng mới trong các buổi học có thể được tổ chức trên cơ sở trình bày trực quan những đối tượng và hiện tượng thích họp. Việc để cho trẻ trực tiếp quan sát các đối tượng có ý nghĩa quan trọng đối với sự hình thành những biểu tượng hoàn chỉnh và phát triển các quá trinh nhận thức - tri giác, trí nhớ, tư duy. Nhóm này bao gồm phương pháp quan sát và phương pháp trình bày trực quan. 1.2.2.1. Quan sát Quan sát là tri giác các sự vật và hiện tượng của thế giới xung quanh một cách có mục đích, có kế hoạch và tương đối lâu dài. Quan sát không chỉ giúp trẻ nhận biết các thuộc tính bên ngoài của các sự vật và hiện tượng mà còn giúp trẻ nhận xét những sự biến đổi của hoàn cảnh xung quanh trong một quá trình. Ví như có thể tổ chức cho trẻ quan sát lao động của người lớn, hoạt động giao thông, hành vi và tập tính của động vật, sự tăng trưởng và phát triển của động vật và thực vật v.v... Để cho trẻ có thể nhận xét những sự biến đổi ấy cần phải tổ chức những quan sát có hệ thống trong thời gian dài (thông qua các cuộc đi dạo trong các mùa ở công viên, rừng cây). 6 Để trẻ quan sát có hiệu quả, giáo viên phải tổ chức hoạt động quan sát. Giúp trẻ nắm hoạt động quan sát, đặt ra nhiệm vụ nhận thức, tập làm theo kế hoạch, hình thành kĩ năng chọn các dấu hiệu đặc trưng, cơ bản theo nhiệm vụ đặt ra. Khi tổ chức quan sát cần chú ý chọn cho trẻ vị trí và thời điểm thích họp để trẻ nhình thấy những đặc điểm nổi bật của đối tượng. Giáo viên chỉ dẫn, đặt ra những câu hỏi để hướng trẻ vào những dấu hiệu khác nhau của đối tượng, tránh cho trẻ phân tán chú ý vào những sự kiện khác. Nội dung quan sát qua các tiết học phải theo hướng phức tạp dần: Chọn đối tượng quan sát khó hơn, xem xét các khía cạnh mới của đối tượng, chuyển sang nhận thức những mối liên hệ giữa các thuộc tính, các sự vật và hiện tượng. Quan sát đươc sử dụng trong giờ học và cả trong cuộc sống hàng ngày. Nó có thể tiến hành trong thời gian ngắn (quan sát hành vi của các con vật, hiện tượng cầu vồng) và trong thời gian dài (quan sát sự phát triển của cây, quan sát các hiện tượng theo mùa). 1.2.2.2. Trình bày trực quan Là phương pháp sử dụng các phương tiện trực quan trong dạy học. Nó được biểu hiện ở các phương pháp trình bày các đồ vật, trình bày tranh ảnh, trinh bày vật mẫu sử dụng phim ảnh và các phương tiện lđ thuật. Cần chú ý rằng, chỉ việc trưng bày một đối tượng hay một hiện tượng (hay những vật mô tả chúng) vẫn chưa bảo đảm để tách ra được những khía cạnh và thuộc tính cần thiết của các đối tượng. Tri giác một cách tự phát của trẻ em không dẫn đến hình thành những biểu tượng đúng đắn về các đối tượng. Cần phải có vai trò của giáo viên trong việc tổ chức quá trình tự giác của trẻ. Giáo viên hướng trẻ vào những khía cạnh và những thuộc tính nổi bật 7 của đối tượng theo một trình tự chặt chẽ, liên kết các tri thức riêng biệt đã hình thành ở trẻ em thành một biểu tượng hoàn chỉnh về nó. Để tính trực quan đạt hiệu quả cao, cần phải chú ý khi lựa chọn các hình thức trực quan. Các thuộc tính được học phải biểu hiện rõ ràng, tạo điều kiện cho trẻ quan sát được thuận lợi nhất các thuộc tính ấy (cho trẻ quan sát động vật khi chúng ăn, khi giao tiếp với các con thú khác, tranh vẽ miêu tả thú vật trong những điều kiện sống tự nhiên.. Cần làm phức tạp từng bước các tài liệu trực quan bằng cách chuyển từ loại hiện vật trực quan sang tài liệu hóa bằng các bảng hiệu, các hình mẫu, các sơ đồ, chuyển dần tò sự vật có chủ đề sang không có chủ đề, từ mối tương quan giữa các tri thức cụ thể sang các tri thức trừu tượng. 1.2.3. Các loại đồ dùng trực quan - Tranh: Là những tác phẩm hội họa phản ánh hình thức, đường nét, hình mảng, màu sắc. - Anh: Là những tác phẩm nghệ thuật ghi lại hình ảnh các đối tượng vào phim bằng máy ảnh sau đó in, phóng trên giấy ảnh. - Mô hình: Là những vật cùng hình dạng, có thể thu nhỏ, phóng to nhằm mô phỏng hình dạng, cấu tạo, hoạt động của vật gốc, để nhằm nghiên cứu học tập. Ví dụ mô hình đắp bằng cát, bằng đất. Các loại mô hình này nói về khung cảnh rừng núi, biển cả, hang đá, vườn hoa... - Vật mẫu: Là những vật sẵn có trong tự nhiên, trong đời sống xã hội được dùng nguyên dạng (con cá, con ve, múi bưởi,...) hoặc đã được xử lí (mẫu ngâm, mẫu nhồi, mẫu ép khô.. - Băng ghi âm: Là loại làm bằng vật liệu từ tính, ghi lại âm thanh (lời nói, âm nhạc, tiếng động) và phát lại nội dung đó qua máy ghi âm. 8 - Băng ghi hình: Là loại làm bằng vật liệu từ tính, ghi lại đồng thời hình ảnh và âm thanh của các sự vật, hiện tượng trong thiên nhiên, trong đời sống xã hội và phát lại nội dung đó qua máy thu hình. - Phim đèn chiếu: Là loại hình phim ghi lại hình ảnh các đối tượng nghiên cứu và được chiếu lên màn ảnh trong quá trình quan sát trực tiếp qua ống nhòm. - Đĩa mềm vi tính: Là loại đĩa dùng để hiển thị các thông tin bằng kênh chữ, kênh hình, kênh hình động và kênh âm thanh có kết luận thông tin chọn lọc phong phú, đa dạng. 1.3. Vai trò của đồ dùng trực quan trong dạy học tại trường mầm non 1.3.1. Đẩy mạnh hoạt động nhận thức của học sinh - Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học ở trường mầm non giúp trẻ nhận thức một cách nhanh nhất những hành động, chuyển ngôn ngữ bên ngoài thành ngôn ngữ bên trong, là tư duy từ chỗ chưa biết đến hiểu biết, đến kĩ năng, kĩ xảo và vận dụng vào thực tiễn. - Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học giúp trẻ biết cách tổ chức có kế hoạch, có suy nghĩ, biết tư duy một cách độc lập linh hoạt, biết cách ghi nhớ khoa học, họp lí, biết tưởng tượng một cách chính xác, đúng hướng. 1.3.2. Giúp học sinh tự khám phá hoàn chỉnh kiến thức - Theo hướng dạy học đổi mới, lấy học sinh làm trung tâm, học sinh tự khám phá chiếm lĩnh tri thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên thì đồ dùng trực quan trở nên đắc lực trong từng môn học. - Các đồ dùng trực quan làm cụ thể hóa, chính xác hóa những nội dung kiến thức ở bài giảng của cô, thông qua tranh, ảnh minh họa trẻ có thể tự hiểu một cách cụ thể về các sự việc, nhân vật sự kiện được mô tả trong bài học. Nhiều đồ dùng trực quan nhất là băng ghi âm, ghi hình, máy chiếu trực tiếp trình bày nội dung kiến thức cơ bản của đối tượng nghiên cứu dưới dạng hệ 9 thống hóa, khái quát hóa, đơn giản hóa hiện thực phức tạp muôn màu muôn vẻ của đời sống tự nhiên và xã hội tạo điều kiện cho các em biết phân tích, so sánh, suy nghĩ độc lập để tìm ra tri thức. 1.3.3. Phát triển trí tuê cho trẻ Phát triển trí tuệ là một trong năm nhiệm vụ giáo dục trẻ ở trường mầm non. Trong quá trình sử dụng đồ dùng trực quan giáo viên đã rèn luyện cho học sinh năng lực quan sát, năng lực ghi nhớ, tưởng tượng, phân tích, tổng họp. Đó là những năng lực trí tuệ cần thiết cho trẻ nhằm phục vụ quá trình học tập và cuộc sống. 1.3.4. Giáo dục nhăn cách cho học sinh Giáo dục mầm non có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho trẻ thông qua các hoạt động học tập, vui chơi, sinh hoạt tập thể. Trong hoạt động học tập thông qua hệ thống tranh, ảnh, vật thật, vật mẫu... Các em được biết đến những cảnh sắc thiên nhiên, đất nước con người, văn hóa của dân tộc (hình ảnh Chùa Một Một, Hồ Gươm, Lăng Bác Hồ...) từ đó trẻ biết yêu quý thiên nhiên, có thái độ bảo vệ và gìn giữ những di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh của đất nước, qua đó làm phong phú và đẹp thêm tâm hồn của trẻ. Như vậy sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học ở trường mầm non đã góp phần bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm đạo đức, hình thành phẩm chất con người mới, con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 1.3.5. Kích thích hứng thú nhận thức của học sình Như ta đã biết hứng thú là trạng thái được đặc trưng bởi khát vọng học tập, sự nỗ lực, tự nguyện trong quá trình nghiên cứu, khám phá nắm vững tri thức. Hứng thú học tập là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình nhận thức của trẻ. Vì thế để kích thích hứng thú của trẻ cần phải sử dụng các 10 đồ dùng trực quan trong dạy học, giúp các em có hứng thú khám phá tri thức từ những đồ dùng trực quan. Mặt khác quá trình dạy học ở trường mầm non, trực quan rất quan trọng bởi vì lúc này tư duy của trẻ là tư duy trực quan hành động, các bé thích khám phá các sự vật, hiện tượng bằng các giác quan. Nếu chỉ nghe cô giáo giải thích bằng lời thì trẻ sẽ nhàm chán không hiểu bài nhưng khi cô sử dụng các đồ dùng trực quan trong giờ học, tạo điều kiện cho trẻ được trực tiếp sử dụng các đồ dùng dạy học một cách hợp lí sẽ giúp trẻ nhận biết chính xác các đồ vật, sự vật, hiện tượng và còn biết cả chức năng, công dụng của chúng. Ví dụ: Khi hình thành biểu tượng hình vuông cho trẻ, nếu chỉ được nghe cô mô tả về hình dạng của hình vuông và so sánh với hình tròn hay hình tam giác mà trẻ đã biết thì các cháu sẽ không biết hình vuông là hình như thế nào. Nhưng nếu cô cho trẻ được quan sát các hình vuông bằng bìa, bằng nhựa trong các bức tranh, sau đó cho trẻ gọi tên các hình đó, tìm được hình vuông trong nhóm có nhiều loại thì biểu tượng hình vuông sẽ đậm nét trong trẻ. Được nghe cô nói, xem cô làm mẫu trẻ sẽ dễ dàng thực hiện các thao tác nhưng biểu tượng chỉ trở thành bền vững khi trẻ được trực tiếp thực hiện các hoạt động và rút ra nhận xét. Vì vậy sau khi nhận biết, gọi tên và tìm hình vuông cô cho trẻ dùng các que tính xếp thành hình vuông, đếm số que tính và so sảnh chiều dài các que tính trẻ sẽ có nhận thức đầy đủ về hình vuông: cả về hình dạng và tính chất đặc trưng: “Hình vuông được xếp bằng 4 que tính dài bằng nhau”. Khi đó trẻ có thể so sánh được sự giống và khác nhau giữa hình vuông với hình chữ nhật, hình tam giác qua dấu hiệu đặc trưng của đường bao. Như vậy nhờ có đồ dùng trực quan, các khái niệm toán học được mô hình hóa trở nên dễ hiểu đối với trẻ và làm trẻ chú ý tới phần quan trọng chủ yếu của vấn đề cần lĩnh hội. 11 Việc sử dụng đồ dùng trực quan trong giờ học giúp trẻ tiếp thu bài học một cách nhanh chóng, trẻ tích cực hoạt động trong các hoạt động. Nhìn chung phương pháp trực quan được sử dụng nhiều trong giờ học của trẻ tại trường mầm non đó là trực quan nghe, trực quan nhìn, trực quan nghe nhìn. 1.3.6. Hợp lí hóa quá trình dạy học của giáo viên và học sình Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học góp phần hợp lí hóa quá trình dạy học của giáo viên vì nhiều hoạt động dạy học đã được bản thân đồ dùng trực quan thể hiện, chẳng hạn như việc sử dụng tranh, ảnh có sẵn có thể thay cho việc cô giáo phải vẽ mẫu lên bảng... Chính vì vậy, sử dụng đồ dùng trực quan giáo viên phải giảm nhẹ việc trình bày, giảng giải mà tập trung vào quá trình hướng dẫn hỗ trợ quá trình hoạt động của trẻ. Ngoài ra việc sử dụng đồ dùng trực quan còn họp lí hóa quá trình học của trẻ. Vì thay cho việc chỉ nghe cô giảng chay chuyển sang hành động với đồ dùng trực quan, làm giảm bớt sự căng thẳng, mệt mỏi tăng cường hứng thú giúp cho quá trinh học tập hiệu quả hơn. Đối với trẻ mẫu giáo được quan sát tranh, ảnh, đĩa mềm vi tính... sẽ giúp trẻ phát triển tai nghe, phát triển lời nói, trẻ không chỉ phát âm đúng mà còn diễn đạt tốt ý nghĩ của mình. 1.4. Chức năng của đồ dùng trực quan trong dạy học ở trường mầm non Đồ dùng trực quan là công cụ đắc lực để đạt mục đích dạy học. Đồ dùng trực quan thể hiện bốn chức năng sau: + Chức năng minh họa: Đồ trực quan minh họa làm sàng tỏ những nội dung giáo viên trình bày, minh họa lời bình giảng của giáo viên, bổ sung thêm thông tin, hình ảnh mà giáo viên không thể trình bày được. + Chức năng thông tin: Đồ dùng trực quan đóng vai trò chính trọng việc cung cấp những nội dung thông tin để học sinh học tập, thực hành. 12 + Chức năng định hướng: Định hướng bằng hình ảnh thị giác giúp cho trẻ thấy rõ hơn hình dáng, cử chỉ, hành động diện mạo... điều chỉnh cho “bức tranh tự nhiên” trong tưởng tượng của mỗi trẻ. + Chức năng bồi dưỡng: Bồi dưỡng vốn sống, tình cảm, thẩm mĩ, năng lực trí tuệ và tư tưởng cho trẻ thông qua đồ dùng trực quan. Qua đây chúng ta thấy rằng đồ dùng trực quan có vị trí vô cùng quan trọng trong quá trình dạy học ở trường mầm non. Sử dụng đồ dùng trực quan giúp cho giờ dạy đạt hiệu quả cao hơn, hướng dẫn trẻ tham gia sử dụng đồ dùng trực quan, bồi dưỡng cho trẻ phương pháp quan sát, suy nghĩ, diễn tả, nghiên cứu độc lập và tự giải quyết vấn đề. Vì vậy việc sử dụng đồ dùng dạy học trực quan ở trường mầm non là cần thiết. 1.5. Đặc điểm tâm lí của trẻ mẫu giáo Trẻ ở độ tuổi mẫu giáo (từ 3 đến 6 tuổi) là giai đoạn có nhiều biến đổi quan trọng về tâm lí, sinh lí. Ở độ tuổi này năng lực chú ý của trẻ còn thấp, trí nhớ kém bền vững, chủ yếu là tư duy trực quan hành động, tư duy trừu tượng bước đầu được hình thành và phát triển nhưng còn yếu. Trong giai đoạn này trẻ luôn hiếu động, thích các đồ chơi mới lạ, hấp dẫn với nhiều màu sắc sặc sỡ nhưng rất nhanh chán. Đối với trẻ những điều mới lạ thường kích thích các em tò mò, muốn tìm hiểu, khám phá. Nhận thức của trẻ vẫn mang tính cảm tính đi từ cái cụ thể đến cái khái quát, từ tư duy cụ thể đến tư duy trừu tượng. Do vậy phương pháp dạy học trực quan thường được giáo viên sử dụng nhiều trong các tiết học ở bậc học mầm non. Việc sử dụng phương pháp này cũng được căn cứ vào đặc điểm tâm lí và sự phát triển tư duy của trẻ ở các độ tuổi. 1.5.1. Trẻ mẫu giáo bé (từ 3 đến 4 tuổi) Ở độ tuổi mẫu giáo bé tư duy của trẻ có một bước ngoặt rất căn bản. Đó là sự chuyển tư duy từ bình diện bên ngoài vào bình diện bên trong mà thực chất đó là việc chuyển những hành động định hướng bên ngoài thành những 13 hành động định hướng bên trong theo cơ chế nhập tâm. Quá trình tư duy của trẻ đã bắt đầu dựa vào những hình ảnh của sự vật và hiện tượng đã có trong đầu, cũng có nghĩa là chuyển từ kiểu tư duy trực quan hành động sang kiểu tư duy trực quan hình tượng. Như vậy lứa tuổi mẫu giáo, trong hoạt động tư duy của trẻ tồn tại hai kiểu: kiểu tư duy trực quan - hành động là kiểu tư duy đã có trước đây nay vẫn tiếp tục phát triển và kiểu tư duy trực quan - hình tượng là kiểu tư duy vừa mới nảy sinh mà xu thế của nó là vươn lên chiếm vị trí ưu thế. Như vậy trong khá nhiều trường họp, khi giải quyết bài toán, kiểu tư duy trực quan hành động vẫn còn lấn át kiểu tư duy trực quan hình tượng mới được hình thành. Vì vậy việc giáo dục, phát triển tư duy cho trẻ ở thời điểm này là giúp trẻ tích lũy nhiều biểu tượng bằng cách cho trẻ quan sát, tiếp xúc, va chạm với sự vật, hiện tượng muôn màu muôn vẻ, đồng thời rèn luyện các giác quan để tăng cường khả năng thu nhận những ấn tượng bên ngoài nhằm làm cho thế giới biểu tượng của trẻ ngày một phong phú. Mặt khác vẫn phải tổ chức cho trẻ hoạt động một cách tích cực đối với thế giới đồ vật bằng nhiều phương thức khác nhau để nắm vững chức năng và cách thức sử dụng chúng, làm cho quá trinh nhập tâm được thực hiện dễ dàng. Vì như vậy cũng chính là thúc đẩy quá trình chuyển hành động định hướng bên ngoài thành hành động định hướng bên trong. Đó là một bước ngoặt cơ bản trên con đường phát triển tư duy, làm cho tư duy của trẻ đạt tới trình độ tư duy theo kiểu con người, tức là tư duy ở bình diện bên trong, giúp trẻ dần đi sâu vào những mối quan hệ, liên hệ có tính quy luật giữa các sự vật và hiện tượng của thế giới bên ngoài. 1.5.2. Trẻ mẫu giáo nhỡ (từ 4 đến 5 tuổi) Đây là giai đoạn phát triển mạnh tư duy trực quan hình tượng. Đầu tuổi mẫu giáo, trẻ đã biết tư duy bằng hình ảnh trong đầu nhưng do biểu tượng còn nghèo nàn và tư duy mới được chuyển tò bình diện bên ngoài vào bình diện 14 bên trong nên trẻ chỉ mới giải được một số bài toán đơn giản theo kiểu tư duy trực quan - hình tượng. Cùng với sự hoàn thiện hoạt động vui chơi và sự phát triển các hoạt động khác (như vẽ, nặn, kể chuyên, xây dựng, đi chơi, đi dạo...) vốn biểu tượng của trẻ mẫu giáo nhỡ được giàu lên thêm nhiều, chức năng kí hiệu phát triển manh, lòng ham hiểu biết và hứng thú nhận thức tăng lên rõ rệt. Đó là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của tư duy trực quan hình tượng và đây cũng là thời điểm kiểu tư duy đó phát triển mạnh mẽ nhất, tất nhiên nó vẫn chưa thể tách rời những hoạt động vật chất và hoạt động thực tiễn của trẻ. Tư duy trực quan - hình tượng phát triển mạnh cho phép trẻ em ở độ tuổi mẫu giáo nhỡ giải được nhiều bài toán thực tiễn mà trẻ thường gặp trong đời sống. Tuy vậy vì chưa có khả năng tư duy tưởng tượng nên trẻ chỉ mới dựa vào những biểu tượng đã có, những kinh nghiêm đã trải qua để suy luận ra những vấn đề mới. Vì vậy trong khá nhiều trường họp chúng chỉ dừng lại ở các hiện tượng bên ngoài mà chưa đi được vào bản chất bên trong. Cũng do đó trẻ rất dễ lẫn lộn thuộc tính bản chất và không bản chất của sự việc và hiện tượng xung quanh. Chẳng hạn một cháu bé bốn tuổi trông thấy một em bé người Nga đang đi xe đạp ba bảnh trên vỉa hè liền kêu lên: “ơ kìa một ông già bé” chả là vì cháu thấy em bé người Nga này có mớ tóc vàng nhạt hơi giống tóc bạc của ông ngoại ở nhà. Trẻ vào bệnh viện thấy ai mặc áo trắng cũng đều gọi là “bác sĩ”. Cứ theo đà suy luận này thì tư duy của trẻ sẽ có nguy cơ biến thành lối tư duy theo lối kinh nghiệm chủ nghĩa. Do đó trong khi giúp trẻ phát triển mạnh tư duy hình tượng cần phải uốn nắn những suy luận lệch lạc của trẻ, cung cấp cho trẻ những hiểu biết cần thiết để có được những suy luận đúng hơn. Trước hết đó là việc cung cấp biểu tượng cho trẻ một cách phong phú và đa dạng, hệ thống hóa và chính xác dần các biểu tượng qua những buổi đi chơi, đi dạo, 15 qua các câu chuyện kể, qua các bức tranh, bài hát, phim đèn chiếu, điện ảnh hoặc truyền hình... Tư duy trực quan - hình tượng phát triển mạnh, đó là điều kiện thuận lợi nhất để giúp trẻ cảm thụ tốt những hình tượng nghệ thuật được xây dựng nên trong các tác phẩm văn học nghệ thuật do các văn nghệ sĩ xây dựng nên bằng những hình tượng đẹp. Đồng thời cần giúp trẻ tạo ra những tiền đề cần thiết để làm nảy sinh những yếu tố ban đầu của kiểu tư duy trừu tượng. Loại tư duy này sẽ được phát triển ở giai đoạn sau và chỉ có thể phát triển một cách lành mạnh khi nó có chỗ dựa là những hình tượng rõ ràng, đa dạng và đúng đắn. 1.5.3. Trẻ mẫu giáo lớn (từ 5 đến 6 tuổi) Ở tuổi mẫu giáo lớn có sự xuất hiện kiểu tư duy trực quan hình tượng mới - tư duy trực quan sơ đồ và những yếu tố của kiểu tư duy logic. Tư duy trực quan - sơ đồ giúp trẻ một cách có hiệu lực để lĩnh hội những tri thức ở trình độ khái quát cao, từ đó mà hiểu được bản chất của sự vật. Nhưng kiểu tư duy này vẫn nằm trong phạm vi của kiểu tư duy trực quan - hình tượng nói chung và do đó nó bị hạn chế khi trẻ cần giải các bài toán đòi hỏi phải tách biệt những thuộc tính quan hệ mà không thể hình dung một cách trực quan dưới dạng hình tượng nữa. Vì như chúng ta đã biết trong suốt tuổi mẫu giáo kể cả giai đoạn cuối cùng (độ tuổi mẫu giáo lớn) hoạt động tâm lí của trẻ đặc biệt nhạy cảm với những hình tượng cụ thể, sinh động về các sự vật, hiện tượng của hiện thực và tiếp thu những tri thức được biểu hiện dưới dạng trực quan - hình tượng là dễ dàng hơn hết. 16 CHƯƠNG 2 THựC TRẠNG VIỆC s ử DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRựC QUAN TẠI CÁC TRƯỜNG MẦM NON HUYỆN SÓC SƠN - HÀ NỘI Để tìm hiểu thực trạng việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan tại các trường mầm non huyện Sóc Sơn - Hà Nội, tôi đã sử dụng phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi có kết họp với phương pháp trò chuyện và phương pháp quan sát các tiết học của giáo viên ở hai trường mầm non Tiên Dược và mầm non Mai Đình A. Đối tượng điều tra: Ban giám hiệu và giáo viên. Tổng số phiếu phát ra: 28 phiếu, trong đó trường mầm non Mai Đình A là 14 phiếu, trường mầm non Tiên Dược 14 phiếu. Tổng số phiếu thu lại là: 28 phiếu. 2.1. Thực trạng trình độ đội ngũ giáo viền và đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục 2.1.1. Thực trạng trình độ đội ngũ giáo viên Tổng số giáo viên ở trường mầm non Tiên Dược là 37 người, giáo viên ở trường Mai Đình A là 28 người, thực trạng trình độ được biểu diễn dưới bảng số lượng sau. Bảng 1: Thực trạng về trình độ giáo viền của các trường Trình độ Đại học Cao đăng Trung câp T rư ờ n g v\ ^ SL % SL % SL % MN Tiên Dược 26 70,3 3 8,1 8 21,6 MN Mai Đình A 17 60,7 2 7,1 7 25 17 Từ kết quả điều tra ở bảng 1 chúng ta có thể thấy trình độ của giáo viên ở hai trường này là khá cao. Giáo viên có trình độ cao đẳng và đại học chiếm tỉ lệ lớn. Đây là một kết quả rất đáng mừng. Tuy nhiên phần lớn giáo viên này được đào tạo chắp vá, qua nhiều hệ, nhiều loại hình đào tạo nên năng lực thực tế chưa tương thích với trình độ đào tạo vì thế mà giáo viên thiếu cập nhật thông tin, đổi mới trong phương pháp giảng dạy, khả năng đáp ứng yêu cầu của chương trình giáo dục mầm non mới còn rất hạn chế. Bên cạnh đó cũng còn có nhiều giáo viên chỉ có trình độ trung cấp: Trường mầm non Tiên Dược có 21,6%. Trường mầm non Mai Đình A là 25%. Các giáo viên này chủ yếu là những người đã có tuổi, có thâm niên công tác trên 20 năm nên trình độ và năng lực giảng dạy thường không cao chỉ chủ yếu là làm các cô nuôi. Bảng 2: Thực trạng xếp loại giáo viên của các trường Xêp loại Trường MN Tiên Dược MN Mai Đình A Giỏi cấp tỉnh Giỏi cấp Giỏi cấp huyện trường Còn lại SL % SL % SL % SL % 4 10,8 7 18,9 11 29,7 15 40,5 3 10,7 5 17,9 7 25 16 57,1 Nhìn vào bảng số liệu trên chúng ta thấy được kết quả đáng mừng của đội ngũ giáo viên mầm non. Mặc dù tỉ lệ giáo viên đạt thành tích xếp loại giỏi cấp trường, cấp huyện, cấp thành phố còn hạn chế. Tuy nhiên đây thực sự là những giáo viên rất tài năng và tâm huyết với nghề. Họ sẽ là những cốt cán trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy, cập nhật, ứng dụng các khoa học 18 công nghệ mới vào giảng dạy góp phần đưa chất lượng giáo dục mầm non đi lên một tầm cao mới. 2.1.2. Thực trạng đội ngũ quản lí giáo dục Qua điều tra tôi thu được kết quả như sau: Bảng 3: Thực trạng đội ngũ quản lí giáo dục Trình độ Đại học Cao đăng Trung câp T rư ờ a g ^ \^ SL % SL % SL % MN Tiên Dược 2 66,7 1 33,3 0 0 MN Mai Đình A 1 33,3 2 66,7 0 0 Từ kết quả điều tra ở bảng 3 ta thấy ở các trường mầm non hiện nay hầu hết đều đã có đủ ba cán bộ quản lí giáo dục bao gồm: 1 hiệu phó phụ trách chuyên môn, 1 hiệu phó phụ trách dinh dưỡng và 1 hiệu trưởng. Đội ngũ cán bộ quản lí có trình độ đào tạo cao chủ yếu là cao đẳng và đại học không có giáo viên nào có trinh độ trung cấp. Điều này sẽ giúp cho việc quản lí trang thiết bị, đồ dùng dạy học ở các trường mầm non dễ dàng và đạt hiệu quả cao hơn. 2.2. Thực trạng nhận thức của giáo viên về phương pháp dạy học trực quan ở trường mầm non Khỉ được hỏi chị hiểu như thế nào về phương pháp dạy học trực quan? Tôi đã thu được kết quả như sau: Trong tổng số 28 phiếu điều tra có 22 giáo viên (chiếm tới 78,6%) cho rằng phương pháp dạy học trực quan là phương pháp sử dụng các phương tiện dạy học trực quan sinh động, cụ thể như: tranh, ảnh, vật thật, mô hình... vào quá trình dạy học, giúp trẻ được tiếp xúc, tri giác trực tiếp với đối tượng, từ đó mà trẻ nắm được kiến thức một cách nhanh chóng và hiệu quả. 19 14,3% giáo viên được hỏi cho rằng phương pháp dạy học trực quan ở trường mầm non hiện nay là phương pháp mang đến cho trẻ những giờ học sinh động, lí thú, bổ ích, phát triển thẩm mĩ và tăng tính tích cực nhận thức cho trẻ. 7,1% số người còn lại nói đây là phương pháp rất cần thiết. Như vậy nhìn chung giáo viên mầm non bước đầu đã có những nhận thức đúng đắn về phương pháp dạy học trực quan. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc sử dụng hiệu quả phương pháp dạy học trực quan cũng như việc nâng cao chất lượng dạy học ở bậc học mầm non trong giai đoạn hiện nay. 2.2.1. Thực trạng nhận thức của giáo viên về vai trò của việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan ở trường mầm non Với câu hỏi việc sử dụng phương pháp dạy học trục quan tại trường mầm non có cần thiết hay không? Vì sao? Tôi đã thu được kết quả như sau: Sau khi điều tra kết quả thu được cho thấy 100% giáo viên mầm non cho rằng việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan là rất cần thiết. Để lí giải cho điều này 53,6% giáo viên cho rằng vì ở trẻ mẫu giáo tư duy trực quan hành động phát triển mạnh, trẻ tiếp thu kiến thức mới một cách hiệu quả thông qua việc tri giác trực tiếp đối tượng. 28,6% giáo viên giải thích rằng việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan làm cho giờ học sinh động, hấp dẫn hơn, phát huy tính tích cực nhận thức của trẻ, trẻ sẽ ghi nhớ kiến thức mới lâu hơn. Bên cạnh đó 17,9% giáo viên được hỏi lại có cách lí giải khác cho việc cần thiết phải sử dụng phương pháp dạy học trực quan như sau: lứa tuổi mầm non là lứa tuổi trẻ rất hiếu động, thích khám phá những điều mới lạ, trẻ rất thích những đồ chơi mới, lạ mắt, hấp dẫn với nhiều màu sắc sặc sỡ. Điều này 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan