Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng vệ sinh môi trường hộ gia đình và điều kiện nhà ở tại hai xã huyện hư...

Tài liệu Thực trạng vệ sinh môi trường hộ gia đình và điều kiện nhà ở tại hai xã huyện hưng hà tỉnh thái bình năm 2016

.PDF
109
250
65

Mô tả:

1 ĐẶT VẤN ĐỀ Dưới sự tác động của công cuộc đổi mới đất nước, Việt Nam đã có những phát triển vượt bậc về mọi mặt. Nền kinh tế đất nước đang được xây dựng theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Tuy nhiên bên cạnh đó, ô nhiễm môi trường đang là vấn đề đáng lo ngại không những đối với các nước phát triển mà còn là sự thách thức đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Vấn đề ô nhiễm môi trường đang là mối quan tâm của toàn xã hội, đặc biệt là tình trạng ô nhiễm môi trường ở các vùng nông thôn từ nguồn nước, nhà tiêu cho đến chất thải, rác thải trong sinh hoạt của các hộ gia đình, rác thải nguy hiểm từ các khu công nghiệp - chế xuất, hay chất thải từ quá trình chăn nuôi - sản xuất nông nghiệp. Song hành cùng với các đô thị thì nông thôn Việt Nam cũng đang đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường . Chưa bao giờ lượng rác thải sinh hoạt lại nhiều như hiê ̣n nay , trong khi đó, dịch vụ vệ sinh môi trường ở nông thôn hiện chưa phát triển đúng mức, đa phần người dân không tự xử lý phân loại rác nên việc chôn lấp, thu gom, xử lý gặp nhiều khó khăn. Từ năm 2000, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược Quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn (NS & VSMTNT) với mục tiêu đến năm 2020: tất cả cư dân nông thôn được sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn quốc gia với số lượng ít nhất 60 lít/người/ngày, sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh và thực hiện vệ sinh cá nhân, giữ sạch vệ sinh môi trường làng, xã. Trong đó, chương trình mục tiêu quốc gia về NS & VSMTNT là công cụ để thực hiện Chiến lược Quốc gia. Chương trình đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, triển khai qua các giai đoạn (2001 – 2005); (2006 – 2010) và (2011 – 2015) [15]. Theo báo cáo chung Tổ ng quan n gành Y tế Việt Nam năm 2014 2 ở Việt Nam còn một tỷ lệ lớn HGĐ ở nông thôn vẫn sử dụng nhà tiêu chưa hơ ̣p vê ̣ sinh. Xây dựng nông thôn mới ở Thái Bình được Trung ương lựa chọn là một trong năm tỉnh làm điểm về mô hình xây dựng nông thôn mới. Trong Nghị quyết về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011 - 2015, định hướng đến năm 2020 ở tiêu chí thứ 17 về môi trường , tỉnh Thái Bình đã nhấn mạnh đến việc bảo vệ môi trường sinh thái [42]. Hưng Hà là một huyện đồng bằng, nằm ở rìa phía Tây Bắc của tỉnh Thái Bình, với diện tích tự nhiên là 200,42 km²,... Huyện có ba mặt tiếp giáp với sông Hồng, ngoài ra huyện có một mạng lưới các con sông nhỏ, kênh rạch nhỏ, nối thông với các sông Hồng, sông Luộc, sông Trà Lý. Con người cũng có những tác động xấu đến môi trường xung quanh do ý thức , thói quen về xả rác thải , nước thải ra kênh nước thải , đường giao thông của thôn xóm , ảnh hưởng rấ t nhiề u tới vê ̣ sinh môi trường. Để phầ n nào có những đánh giá khách quan về tình hình môi trường nông thôn tại điạ bàn huyện nhà, chúng tôi thực hiện đề tài: “Thực trạng vệ sinh môi trường hộ gia đình và điều kiện nhà ở tại hai xã của huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình năm 2016” với hai mục tiêu như sau: 1. Mô tả thực trạng vệ sinh môi trường hộ gia đình và điều kiện nhà ở tại hai xã của huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình năm 2016. 2. Mô tả kiến thức, thực hành về vệ sinh môi trường của người dân ở địa bàn nghiên cứu năm 2016. 3 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Một số khái niệm - Môi trường là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác động đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật [31]. - Thành phần môi trường là yếu tố vật chất tạo thành môi trường gồm đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật và các hình thái vật chất khác. - Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ gìn, phòng ngừa, hạn chế các tác động xấu đến môi trường; ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, cải thiện, phục hồi môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên nhằm giữ môi trường trong lành. - Chất thải là vật chất được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác… - Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi trường và tiêu chuẩn môi trường gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật. - Ô nhiễm nước là sự thay đổi theo chiều xấu đi các tính chất vật lý, hoá học, sinh học của nước, với sự xuất hiện các chất lạ ở thể lỏng, rắn làm cho nguồn nước trở nên độc hại với con người và sinh vật… [31]. - Nhà ở là một công trình xây dựng bao gồm ba bộ phận: tường, mái, sàn và được dùng để ở (ăn, ngủ, sinh hoạt). - Mái được xếp loại bền chắc nếu được làm bằng một trong hai loại vật liệu chính sau: “bê tông cốt thép”, “ngói (xi măng, đất nung)”. - Tường/bao che được xếp loại bền chắc nếu được làm bằng một trong ba loại vật liệu chính sau: “bê tông cốt thép”, “gạch/đá”, “gỗ/kim loại” [1]. 4 1.2. Thực trạng vệ sinh môi trƣờng hộ gia đình và điều kiện nhà ở Thực trạng vệ sinh môi trường đang diễn ra ngày càng cấp bách và nan giải, chính vì vậy chúng ta cần có cái nhìn tổng quan hơn về thực trạng ô nhiễm môi trường hiện nay ở nước ta. Vấ n đề vê ̣ sinh môi trường (VSMT) không chỉ là vấ n đề sinh hoa ̣t trong pha ̣m vi mỗi hô ̣ gia đình mà còn ở khu vực xung quanh như đường làng , ngõ xóm, hê ̣ thố ng kênh thoát nước , bãi rác của thôn , xóm,…VSMT nói chúng là một lĩnh vực tương đối rộng, nhưng trong phạm vi nghiên cứu này chúng tôi chỉ đề cập đến bốn nội dung: thực trạng nguồn nước, nhà tiêu hộ gia đình, rác thải sinh hoạt và điều kiện nhà ở. Theo một nghiên cứu của Trần Thị Phương và Vũ Phong Túc về “Thực trạng vê ̣ sinh môi trườn g của các hô ̣ gia đình vùng đồ ng bào dân tô ̣c Mông huyê ̣n Bắ c Yên, tỉnh Sơn La năm 2014” cho thấy : Nguồn nước của tất cả các hộ gia đình sử dụng cho sinh hoạt đề u là hệ thống dẫn nước chung máng lần . Tỷ lệ các hộ gia đình có nhà tiêu ở các xã là từ 3% - 37%. Loại nhà tiêu được sử dụng nhiều nhất là nhà tiêu chìm khô có ống thông hơi. Tiêu chí nhà tiêu đảm bảo về xây dựng được thực hiện tốt nhất là “không xây dựng ở nơi thường xuyên bị ngập úng” (71,6%); chỉ số tiêu chuẩn đạt thấp nhất là “có nắp đậy lỗ tiêu” (20,3%) và “ống thông hơi có lưới chống ruồi” (20,3%). Tỷ lệ nhà tiêu đảm bảo về bảo quản và sử dụng đều rất thấp theo từng tiêu chí: hầu hết các tiêu chí đều chỉ đạt ở mức dưới 20%. Hầu hết các hộ gia đình không có hố rác (95,4%) [29]. Kết quả từ nghiên cứu của Hạc Văn Vinh, Đàm Khải Hoàn và Đàm Văn Dũng tại huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên cho thấy tỷ lệ hộ có nhà tạm khá cao (38,1%), nhà kiên cố (20,0%). Tỷ lệ hộ gia đình có nước sạch 55,6 % [44]. Trong nghiên cứu về Thực trạng ô nhiễm môi trường ở thành phố Hà Tĩnh tác giả Đào Văn Quang cho rằng hiện trạng ô nhiễm môi trường còn xảy ra trong và khu vực xung quanh như ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm nguồn nước, 5 việc phát sinh chất thải rắn và chất thải nguy hại. Chính sự ô nhiễm này đã ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe của người lao động cũng như người dân xung quanh. Ngoài ra nó còn ảnh hưởng tới hệ sinh thái xung quanh vùng đặc biệt là hệ thủy sinh [30]. Hoạt động chăn nuôi đã và đang tạo nguồn thu nhập chính cho nhiều hộ nông dân ta ̣i Thái Bình . Theo ước tính, có khoảng 40 - 50% lượng CTR chăn nuôi được xử lý, số còn lại thải trực tiếp thẳng ra ao, hồ, kênh, rạch...[12] 1.2.1. Thực trạng nguồn nước 1.2.1.1. Thực trạng sử dụng nước trên thế giới Cách đây 24 năm, Liên hợp quốc chọn ngày 22-3-1993 làm Ngày Nước thế giới đầu tiên và từ đó đến nay , ngày này vẫn được duy trì là ngày vì nguồn nước sạch toàn cầu. Ngày Nước thế giới hàng năm là dịp để thế giới tập trung sự chú ý về tầm quan trọng của nước ngọt cũng như kêu gọi việc quản lý bền vững nguồn tài nguyên này. Mỗi năm, Ngày Nước thế giới nhấn mạnh một khía cạnh cụ thể. Năm 2016, Liên hợp quốc lấy chủ đề “Nước và việc làm” nhằm đề cập tới vai trò của nước đối với các công việc cũng như sinh kế của người dân [8]. Một báo cáo về: “Các điều kiện môi trường của hộ gia đình có liên quan đến bệnh lý ruột và sự tăng trưởng không ổn định ở nông thôn Bangladesh” cho kết quả như sau: Khi so sánh các dấu hiệu về bệnh lý ruột già môi trường, gánh nặng ký sinh trùng, và tăng trưởng ở 119 trẻ Bangladesh (≤ 48 tháng tuổi) ở vùng nông thôn Bangladesh ở các mức độ sạch sẽ khác nhau của hộ gia đình được xác định bằng các chỉ tiêu khách quan về chất lượng nước và vệ sinh và rửa tay [51]. Một nghiên cứu can thiệp nhằm cải thiện vệ sinh, vệ sinh và cấp nước cho 20 triệu người ở Bangladesh đánh giá hiệu quả của việc thay đổi hành vi và giảm thiểu bệnh tiêu chảy và hô hấp ở trẻ em dưới 5 tuổi. Cụ thể những 6 người tham gia rửa tay với xà bông <3% thời gian xung quanh các sự kiện liên quan đến thực phẩm trong cả hai sự can thiệp và kiểm soát các hộ gia đình ở thời điểm đầu và sau 18 tháng. Chương trình vệ sinh, vệ sinh và cải thiện quy mô lớn đã dẫn đến cải tiến một vài hành vi nhắm mục tiêu, nhưng hành vi còn rất khiêm tốn. Những thay đổi vẫn chưa làm giảm đáng kể về tiêu chảy ở trẻ em và bệnh hô hấp [49]. Các kim loại nặng có thể xâm nhập vào các nguồn nước từ nhiều nguồn, ví dụ như thời tiết của đá và đất. Một nguồn kim loại nặng khác là hoạt động của con người do nuôi trồng, khai thác mỏ, và các hoạt động sản xuất công nghiệp khác. Các báo cáo đã chỉ ra rằng tình trạng ô nhiễm đã tăng lên trong những thập kỷ gần đây ở các nước đang phát triển do phát triển công nghiệp nhanh và tỷ lệ tăng dân số cao dẫn tới sự xuống cấp dần về chất lượng nước, đặc biệt là ở một số nguồn nước tự nhiên [57]. Số liệu từ báo cáo của tác giả Clasen TF và cộng sự khảo sát 46 nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled clinical trial RCT), bao gồm hơn 84.000 người tham gia, đã đạt được các tiêu chí đưa vào. Hầu hết các nghiên cứu được tiến hành ở các quốc gia có thu nhập thấp hoặc trung bình (50 nghiên cứu) với nguồn nước không được cải tiến (30 nghiên cứu) và vệ sinh không được cải thiện hoặc không rõ ràng (34 nghiên cứu)…Các cải tiến về chất lượng nguồn nước ở thời điểm hiện tại chưa có đủ bằng chứng để biết liệu các cải tiến dựa trên nguồn như các giếng khoan đã được bảo vệ , trạm cống chung hay nguồn nước ở cộng đồng có sử dùng clo làm sạch nước làm giảm bệnh tiêu chảy một cách liên tục [47]. Một nghiên cứu chất lượng nước giếng từ các hộ nông thôn và thành thị ở Karnataka Ấn Độ năm 2012 đã tiến hành điều tra chất lượng nước sinh hoạt từ 80 mẫu lấy tại nguồn ở các cộng đồng nông thôn và đô thị. Kết quả thu được như sau: Tỷ lệ ô nhiễm phân, như được biểu hiện bởi sự tăng trưởng 7 của E. coli hoặc Enterococcus spp, là 27,5% (22 mẫu: 12 đô thị và 10 nông thôn). Tổng số coliform được tìm thấy trong 74 nguồn nước hộ gia đình (92,5%) (đô thị là 39 mẫu - 97,5%, nông thôn 35 mẫu- 87,5%) [52]. 1.2.1.2. Thực trạng sử dụng nước tại Việt Nam Nước sạch và vệ sinh là những nhu cầu cơ bản đảm bảo sức khỏe tốt và phát triển giai đoạn đầu đời của mỗi con người . Nước uống không đảm bảo vệ sinh có thể dẫn đến việc bị nhiễm các bệnh nguy hiểm như tả và thương hàn. Theo số liệu từ Báo cáo Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ Việt Nam 2014 cho thấy 92% hộ gia đình sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh – 98,2% sống ở khu vực thành thị và 89,1% sống ở khu vực nông thôn. Tuy nhiên, bất bình đẳng vẫn còn tồn tại giữa các hộ gia đình người dân tộc thiểu số và người Kinh. Chỉ có 75% các hộ gia đình dân tộc thiểu số được tiếp cận với nguồn nước hợp vệ sinh so với 95% các hộ gia đình người Kinh [37]. Kết quả nghiên cứu năm 2012 tại 03 xã vùng nông thôn tỉnh Hải Dương cho kết quả: Đánh giá bằng cảm quan chất lượng nguồn nước tại các xã cho thấy hộ gia đình có nguồn nước hợp vệ sinh xã Thanh Tùng là 57,4%, xã Cẩm Phúc là 56,1% và ở xã Phương Hưng là 49,8%. Nguồn nước được HGĐ sử dụng là nước máy 47%, nước mưa 13%, nước giếng khơi 3,2%, nước giếng khoan 33% và nước sông/hồ/ao 3,8% [27]. Theo kết quả từ báo cáo năm 2011 của Cục quản lý môi trường Y tế - Bộ Y tế cho biết 15,1% số gia đình hiện vẫn đang sử dụng nước sông suối/ao hồ làm nguồn nước chính cho ăn uống và sinh hoạt; 30,4% hộ gia đình có nguồn nước chính không hợp vệ sinh; 4,6% và 15,3% nguồn nước có nguy cơ ô nhiễm cao và rất cao. An Giang là tỉnh có tỷ lệ nguồn nước hộ gia đình có nguy cơ ô nhiễm rất cao lên đến 54,1% và thấp nhất là Hà Tĩnh với 3,6% [10]. Kế t quả nghiên cứu năm 2013 tại 02 xã của tỉnh Hà Nam cho biết: Các nguồn nước chủ yếu người dân 2 xã Tiên Phong và Châu Sơn sử dụng lần 8 lượt là nước mưa đều là 91%; giếng khoan 63% và 90%. 100% gia đình có sử dụng cả nước đào [32]. Theo kết quả nghiên cứu của Vũ Kiên Trung tại 2 xã Ngọc Hồi , Vạn Phúc, huyện Thanh Trì , Hà Nội năm 2014 cho kết quả : xã Ngọc Hồi có tỷ lệ hộ sử dụng các nguồn nước khai thác tại hộ gia đình cao hơn như sử du ̣ng nước mưa cho ăn uống cao hơn 27,1%, sử du ̣ng nước giế ng khoan cho tắm rửa vệ sinh cao hơn 10,5% [39]. Kết quả điều tra nước và nhà ở giữa kỳ thời điểm giữa kỳ 01/4/2014 cho biết có 17,6% nước máy, 54,2% nước giếng khoan, 13,9% nước mưa, nước khe, nước giếng đào không được bảo vệ và các nguồn nước khác chiếm tỷ lệ 14,3% [1]. 1.2.1.3. Thực trạng sử dụng nước ở Thái Bình: 2 Nguồn nước mặt: mật độ sông là 5,72 km/km các dòng sông đều uốn khúc, độ dốc nhỏ từ 0,02-0,05 m/km. Toàn tỉnh có 4 sông lớn là sông Hoá, sông Luộc, sông Trà Lý và sông Hồng, cùng hệ thống các sông trục nội đồng và các ao, hồ có sức chứa hàng triệu mét khối nước ngọt. Đây là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý, cung cấp chủ yếu cho sản xuất nông nghiệp và phần lớn các nhà máy nước sinh hoạt của thành phố Thái Bình, thị trấn Vũ Thư, Tiền Hải, Diêm Điền lấy nước từ nguồn này. Song điều đáng lo ngại là các nguồn nước này hiện nay đang bị ô nhiễm với nguy cơ ngày càng tăng, do nước thải từ thượng nguồn bị ô nhiễm vì các hoạt động nông nghiệp, nước thải công nghiệp gây ra. Theo bản đồ phân đới thuỷ địa hoá thẳng đứng và theo phương nằm ngang thì phía Bắc sông Trà Lý bao gồm các huyện Đông Hưng, Hưng Hà, Quỳnh Phụ và một phần huyện Thái Thuỵ nước ngầm ở đây không bị nhiễm mặn nên có thể sử dụng cho sinh hoạt, sản xuất [33]. Dựa theo kết quả từ nghiên cứu của Ngô Thị Nhu về thực trạng chất lượng giếng và bệnh liên quan ở vùng nông thôn Thái Bình năm 2008 cho 9 chúng ta thấy: Tỷ lệ mắc tiêu chảy chung là 12% và ở đối tượng trẻ em dưới 5 tuổi mắc tiêu chảy là 5,2%, ở độ tuổi ≥ 5 tuổi tỷ lệ này là 12,5%. Bệnh về mắt và da liên quan đến việc sử dụng nước lần lượt là 3,1 và 5,9% [25]. 1.2.2. Nhà tiêu hộ gia đình 1.2.2.1. Tình hình trên thế giới: Một chương trình xây dựng nhà vệ sinh do chính Bộ Y tế Mozambique khởi xướng năm 1976 đã đưa ra những bài học quan trọng cho các nước Châu Phi khác. Mặc dù hàng chục nhà vệ sinh được xây dựng ở các cộng đồng đô thị có thu nhập thấp trong một khoảng thời gian ngắn nhưng chiến dịch đã thất bại nặng nề vì thiếu hướng dẫn kỹ thuật về thiết kế và xây dựng nhà vệ sinh và tình trạng thiếu các vật liệu xây dựng phù hợp. Đáp lại điề u đó , một dự án nghiên cứu đã được đưa ra vào năm 1979 để xác định và phát triển một công nghệ phù hợp và phương pháp để thực hiện cải thiện vệ sinh ở các khu vực ven đô. Điều này dẫn đến đến việc thành lập vào năm 1985 của Chương trình Quốc gia về Vệ sinh Chi phí thấp do các nhà tài trợ, chính quyền Trung ương và cộng đồng người sử dụng tài trợ…Mặc dù có những vấn đề về kinh tế và chính trị bất ổn, 170.496 nhà vệ sinh đã được lắp đặt từ năm1979-1996 [56]. Kết quả nghiên cứu tại huyện Eryuan, tỉnh Vân Nam, Trung Quố c cho biết trong tổng số 90 nhà tiêu được khảo sát. Tỉ lệ phổ biến của nhà tiêu hợp vệ sinh tại các thôn Yongle, Qiandian và Xinzhuang tương ứng là 83,19%, 83,12% và 81,63% [59]. Tại Ethiopia, đến 60% gánh nặng bệnh tật hiện tại là do vệ sinh kém. Nhà vệ sinh bảo hiểm cơ sở đang gia tăng kể từ khi Chương trình khuyến Sức khỏe bắt đầu, trong khi ít chú ý đến chất lượng và sử dụng nhà vệ sinh cơ sở ở nông thôn Ethiopia. Trong nghiên cứu này có tổng số 801 hộ gia đình có nhà vệ sinh được đánh giá về tình trạng sử dụng nhà tiêu của họ. Trong đó có 490 hộ gia đình (chiếm tỷ lệ 61,2%) đạt yêu cầu về sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh [63]. 10 Các yếu tố văn hóa xã hội và hành vi hạn chế việc áp dụng nhà vệ sinh ở vùng nông thôn ven biển bang Odisha ở Ấn Độ. Thói quen, xã hội hóa, các nghi thức vệ sinh và các thói quen hàng ngày khác nhau với giai cấp, giới tính, tình trạng hôn nhân, tuổi tác và lối sống cũng cản trở việc nhận tài trợ từ chính phủ xây nhà vệ sinh [55]. 1.2.2.2. Tại Việt Nam: Bộ Y tế được Chính phủ giao nhiệm vụ chỉ đạo triển khai Chiến lược quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn từ năm 2001-2020 qua 4 giai đoạn. Mục tiêu chính của chiến lược này là phấn đấu đến năm 2015 có 100% số hộ gia đình, 100% trường học và Trạm y tế có nhà tiêu hợp vệ sinh. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Liên Hương nhằm tìm hiểu thực trạng sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh trong cộng đồng dân cư được thực hiện trên cỡ mẫu 1.240 hộ gia đình tại 5 tỉnh Điện Biên, Kon Tum, Ninh Thuận, An Giang, Đồng Tháp năm 2015 cho thấy chỉ có 28,5% số hộ gia đình tham gia nghiên cứu được tiếp cận với nhà tiêu hợp vệ sinh; 40,8% có nhà tiêu nhưng không hợp vệ sinh và 30,7% không có nhà tiêu [19]. Từ kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ Kiên Trung tại 2 xã Ngọc Hồi , Vạn Phúc , huyện Thanh Trì , Hà Nội năm 2014 cho kết quả : 2 xã có tỷ lệ hộ gia đình có nhà tiêu tự hoại lầ n lươ ̣t là 97,0% và 98%. Tỷ lệ nhà tiêu tự hoại hợp vệ sinh không cao (cao nhất là 60,6%) chủ yếu không đạt về tiêu chí bảo quản, sử dụng. Có sự chênh lệch giữa tỷ lệ nhà tiêu hợp vệ sinh giữa điều tra thực tế và số liệu sẵn có ta ̣i điạ phương [39]. Một nghiên cứu tại huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên năm 2010 cho thấy : Tỷ lệ trả lời nhà tiêu hai ngăn là loại nhà tiêu hợp vệ sinh đa ̣t tỷ lê ̣ thấp (37,6%); các tiêu chí khác xa nhà, xa nguồn nước trên 10m chỉ có 19,8% trả lời đúng, tỷ lệ không biết hoặc không trả lời là 23,6%. Tỷ lệ hộ nhà tiêu hợp vệ sinh là 21,1%, tỷ lệ hộ không có nhà tiêu là 36,7%, tỷ lệ đối tượng có thái độ sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh có thể 11 phòng được bệnh đường tiêu hoá thấp (17,8%) [44]. Tỷ lệ hộ gia đình có nhà tiêu hợp vệ sinh đạt tỷ lệ 30,9%, trong đó Kon Tum và Điện Biên có tỷ lệ nhà tiêu hợp vệ sinh thấp nhất lần lượt là và 10,2% và 4,3% [10] Tiếp cận với nhà tiêu hợp vệ sinh của dân số dân tộc thiểu số vẫn là một thách thức lớn, góp phần gây nên tình trạng sức khỏe kém và suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em. Hơn 47% dân số dân tộc thiểu số không được tiếp cận với nhà tiêu hợp vệ sinh. Bên cạnh đó, tỷ lệ phóng uế bừa bãi ở nhóm dân số dân tộc thiểu số ở mức cao: 26% so với chỉ 2% ở nhóm dân tộc Kinh [37]. Nghiên cứu mô tả cắt ngang của Nguyễn Xuân Bái, Trần Thị Phương và Hoàng Thị Hòa về thực trạng nhiễm giun đường ruột của người dân xã Mỹ Tân tỉnh Nam Định năm 2013 cho thấy: Tỷ lệ nhiễm giun chung của đối tượng nghiên cứu là 44,5% trong đó tỷ lệ người dân nhiễm 1 loại giun là 38,0%; tỷ lệ nhiễm 2 loại giun là 6,5% [5]. Nghiên cứu năm 2012 của Ngô Thị Nhu và cộng sự tại ba xã Cẩm Phúc, Thanh Tùng, Phương Hưng tỉnh Hải Dương của cho thấy tỷ lệ HGĐ có nhà tiêu rất cao chiếm 99,2% số HGĐ, tỷ lệ nhà tiêu đạt chuẩn sử dụng là 70,1% [27]. Theo kết quả nghiên cứu của Hoàng Thái Sơn thì thực trạng vệ sinh môi trường tại huyện Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên năm 2009 còn nhiều vấn đề cần lưu tâm đó là: Tỷ lệ số hộ dân có nhà tiêu tuy đạt tỷ lệ lên tới 97,6%, nhưng tỷ lệ số hộ dân có nhà tiêu không hợp vệ sinh còn cao (25,6%); tỷ lệ số hộ gia điǹ h đi ngoài bừa bãi , tỷ lệ chưa có nhà tiêu 2,4% [34]. Một nghiên cứu trước đó tại 03 xã của huyện Vũ Thư năm 2009 của Ngô Thị Nhu về thực trạng nhà tiêu hộ gia đình và kiến thức thực hành nhà tiêu thấm dội nước chiếm 21,7%; nhà tiêu tự hoại là 15,8%; nhà tiêu không hợp vệ sinh chiếm tỷ lệ 50,2%. Trong các loại nhà tiêu hợp vệ sinh, nhà tiêu thấm dội nước chiếm tỷ lệ 48,5%; nhà tiêu tự hoại là 35,5% [26]. Kết quả từ Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 1.800 hộ gia đình tại 6 tỉnh đại diện cho 6 12 vùng sinh thái tại Việt Nam năm 2011-2012 cho thấy: 15,9% số người được phỏng vấn không kể được tên một tiêu chuẩn nào của nhà tiêu hợp vệ sinh (HVS). Tiêu chuẩn được nhiều người biết đến là không làm ô nhiễm môi trường 43,7%, tiếp đến là diệt tác nhân gây bệnh (9,7%) và thấp nhất là cô lập phân người (7,2%). 14,3% số người được phỏng vấn không kể được tên một loại nhà tiêu HVS nào hoặc kể không đúng một loại nhà tiêu HVS nào trong 5 loại nhà tiêu thuộc loại HVS. Loại nhà tiêu HVS được nhiều người biết đến là tự hoại (74,8%), tiếp đến là thấm dội nước (21,4%), hai ngăn (12,8%). 12,1% số người được phỏng vấn không kể được tên một bệnh nào do ô nhiễm phân người gây nên [35]. 1.2.3. Rác thải sinh hoạt 1.2.3.1. Trên thế giới Sigapore là một nước được đô thị hóa 100% và cũng được coi là một trong những đô thị sạch nhất trên thế giới. Ở Sigapore có hai thành phần tham gia chính vào đầu tư cho thu gom và xử lý rác thải là: tổ chức thuộc Bộ Khoa học công nghệ và môi trường chủ yếu thu gom rác thải sinh hoạt từ các khu dân cư và các công ty và hơn 300 công ty tư nhân chuyên thu gom rác thải công nghiệp và thương mại. Ngoài ra, các hộ dân và các công ty ở Sigapore được khuyến khích tự thu gom và xử lý rác thải để có thể giảm được chi phí [23]. Nhật Bản có sự phân công rõ ràng về trách nhiệm trong quản lý chất thải: chất thải từ hộ gia đình thuộc trách nhiệm quản lý của nhà nước. Tại Bỉ, công tác thu gom và xử lý rác thải được các công ty tư nhân đầu tư, hình thành ngành công nghiệp thu gom và xử lý rác thải [43]. 1.2.3.2. Tại Việt Nam Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của xã hội thì tình trạng ô nhiễm môi trường do rác thải sinh hoạt càng trở nên phổ biến , không chỉ với các khu đô thị, thành phố mà nông thôn cũng vậy . Chúng ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh 13 những bãi rác công cộng ngay bên lề đường không được đổ đúng nơi quy định đang phân hủy bốc mùi hôi thối mà không có các giải pháp thu gom hay xử lý. Trên các tuyến đường thành, thị, huyện, xã nhiều đoạn hai bên đường có vô số những đống rác thải do một số người dân sinh sống gần đường mang rác thải đến đổ thành đống. Hoặc dọc những kênh mương nhiều nơi rác thải trôi lềnh bềnh trên mặt nước với mật độ ngày càng dày đặc. Đây là bãi rác tự phát do người dân ở gần đổ ra do ý thức của người dân còn hạn chế, có nhiều vùng còn chưa có bãi rác tập trung và không có đội thu gom rác thải. Chất thải rắn (CTR) sinh hoạt nông thôn có tỷ lệ khá ca o chất hữu cơ và phần lớn là chất hữu cơ dễ phân hủy (chiếm khoảng 65%). Theo ước tính, với lượng chấ t thải phát sinh khoảng 0,3kg/người/ngày thì lượng rác thải sinh hoạt phát sinh năm 2013 khoảng 18.200 tấn/ngày, tương đương với 6,6 triệu tấn/năm. Các loại CTR sinh hoạt phát sinh có sự phân hóa tương ứng với số dân nông thôn của từng vùng, theo đó Đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long có lượng CTR sinh hoạt nông thôn phát sinh lớn nhất [12]. Hiện nay biện pháp phổ biến nhất cho việc xử lý rác là chôn lấp , tuy nhiên ngoài ưu điể m của phương pháp chôn lấ p chấ t thải rắ n là xử lý đươ ̣c khố i lươ ̣ng lớn chấ t thải , chi phí đầ u tư và chi phí xử lý nhỏ thì công nghệ chôn lấp và xử lý rác thải không hợp vệ sinh tại các địa phương đang thực hiện lâu nay đã phát sinh nhiều bất cập và nghiêm trọng nhất đó là nó chiế m nhiề u diê ̣n tić h đấ t , thời gian phân hủy châ ̣m , gây ô nhiễm khu vực xử lý . Ví dụ như quá trình phân hủy các chất hữu cơ sẽ gây mùi , các côn trùng gây bê ̣nh (ruồ i , muỗi ,…), gây ra các vu ̣ cháy nổ , ô nhiễm nguồ n nước ảnh hưởng tới giao thông do rơi vaĩ rác thải khi vâ ̣n chuyể n , đă ̣c biê ̣t là lươ ̣ng nước rò rỉ từ rác thải , lươ ̣ng nước này khi xâm nhâ ̣p vào môi trường nó sẽ gây tác đô ̣ng xấ u đế n môi t rường xung quanh (đấ t, nước). Theo khảo sát của Chi cục Bảo vệ môi trường (Sở Tài nguyên và Môi trường Thái Bình): Trung bình mỗi ngày có khoảng 758 tấn rác thải sinh hoạt 14 phát sinh tại khu vực nông thôn của tỉnh Thái Bình. Để bảo vệ môi trường và cảnh quan nông thôn, tỉnh đã áp dụng một số giải pháp như chôn lấp, ủ phân vi sinh và mới đây nhất là công nghệ lò đốt rác. Tuy nhiên đến nay, những giải pháp trên đang dần bộc lộ những hạn chế... Bình quân mỗi xã lượng rác thải khoảng từ 5 - 10 tấn mỗi ngày, trong đó 60% lượng rác này được thu gom bằng biện pháp thủ công (xe cải tiến, xe thồ, xe đẩy tay) và không được xử lý bằng công nghệ hợp tiêu chuẩn vệ sinh môi trường [16]. Kết quả nghiên cứu của Ngô Thị Nhu về thực hành của người dân về thu gom rác có 62,7% hộ gia đình bỏ rác vào túi nilon; 78,9% hộ gia đình không phân loại rác trước khi đổ. Thực hành về phòng chống ô nhiễm nguồn nước đúng chỉ có 13,1% đến 32% với các hoạt động. Chỉ có 41,4% số hộ gia đình có ủ phân trước khi sử dụng và 58,6% ủ đúng thời gian quy định [27]. Hiện nay, khu vực nông thôn ở Thái Bình có 267 xã, trong đó thành phố Thái Bình 09 xã; huyện Đông Hưng 43 xã; huyện Hưng Hà 33 xã; huyện Kiến Xương 36 xã, huyện Quỳnh Phụ 36 xã; huyện Thái Thụy 47 xã; huyện Tiền hải 34 xã; huyện Vũ Thư 29 xã. Theo điều tra của Sở Tài nguyên và Môi trường năm 2013, toàn tỉnh có khoảng 380 bãi rác tự phát không đảm bảo về vệ sinh môi trường, trong đó: Quỳnh Phụ có 70 bãi rác, Hưng Hà có 53 bãi rác, Thái Thụy có 55 bãi rác, Đông Hưng có 99 bãi rác, Tiền Hải có 20 bãi rác, Kiến Xương có 49 bãi rác, Vũ Thư có 34 bãi rác [33]. Kế t quả từ nghiên cứu của Đặng Thị Vân Quý và cộng sự năm 2013 tại 02 xã của tỉnh Hà Nam cho biết 52% và 55% là tỷ lệ hộ gia đình có hố rác [32]. Để giải bài toán xử lý CTR nông thôn, tháng 10/2013 tỉnh Thái Bình đã triển khai thí điểm lò đốt CTR sinh hoạt với tổng mức đầu tư của dự án là 4,2 tỷ đồng. Tháng 2/2014, công trình được đưa vào hoạt động với diện tích 3.000m2, cách xa khu dân cư trên 1km, hoạt động theo mô hình lò đốt kết hợp chôn lấp [12]. 15 Theo bà Trần Thị Hải, Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Hưng Hà cho biết: Hiện nay, 35/35 xã, thị trấn ở Hưng Hà có quy hoạch bãi chứa rác thải sinh hoạt theo tiêu chí NTM, trong đó 16 xã, thị trấn được UBND tỉnh hỗ trợ kinh phí đầu tư xây dựng lò đốt rác. Đến nay, 4 xã đã xây dựng và đưa vào hoạt động ổn định gồm Minh Khai, Minh Hòa, Đoan Hùng, Điệp Nông; hai xã đã lắp đặt và chuẩn bị đưa vào sử dụng, các xã còn lại tiếp tục đầu tư xây dựng các hạng mục công trình như đường, tường bao xung quanh… để hoàn thiện công trình. Tỷ lệ thu gom rác thải trong toàn huyện đạt từ 80 - 85%, chủ yếu tập trung ở những xã đã về đích nông thôn mới (NTM) [18]. 1.2.4. Điều kiện vệ sinh nhà ở Trong chiến lược phát triển của quốc gia điều kiện ở của hộ dân cư là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá sự phát triển. Cuộc điều tra về Dân số và nhà ở năm 2014 với sự trợ giúp kỹ thuật và tài chính của Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) thu thập thông tin về điều kiện ở cơ bản của các hộ dân cư. Điều kiện nhà ở của các hộ gia đình ở nông thôn được mô tả tóm tắt như sau: Tỷ lệ bình quân số người/ 1 hộ gia đình là 3,5 người/hộ ở Đồng bằng sông Hồng trong đó: 10,1% hộ có một người, 66,9% hộ có từ 2-4 người, 20,5% hộ có từ 5-6 người và trên 7 người/hộ là 2,5% [1]. Tổng điều tra Dân số và nhà ở năm 2009 đã chỉ ra rằng, tổng số dân của nước ta tại thời điểm 1/4/2009 có 85.846.997 người. Như vậy, Việt Nam là nước đông dân thứ 3 ở Đông Nam Á (sau In-đô-nê-xi-a và Phi-líp-pin) và đứng thứ 13 trong số những nước đông dân nhất thế giới. Số người sống ở khu vực thành thị là 25.436.896 người, chiếm 29,6% và ở khu vực nông thôn là 60.410.101 người, chiếm 70,4% tổng dân số. Dân số nam là 42.413.143 người, chiếm 49,4% và nữ là 43.433.854 người, chiếm 50,6% tổng dân số. Số liệu Tổng điều tra cũng chỉ ra sự khác biệt giữa các vùng, miền về các chỉ tiêu nhân khẩu học, chỉ tiêu kinh tế - xã hội và mức độ khác nhau trong việc đạt được các mục tiêu Thiên niên kỷ [21]. 16 Tình trạng nhà ở là một trong những nội dung cơ bản nhất khi đánh giá chất lượng sống của hộ dân cư. Đây được xem là thông tin quan trọng phục vụ công tác lập kế hoạch phát triển đất nước. Tình trạng nhà ở của hộ dân cư được phân ra thành 2 loại: “có nhà ở” và “không có nhà ở”. Theo số liệu của Tổng cục thống kê năm 2014 về thực trạng phân bố nhà và loại nhà ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng như sau: Tại Thái Bình tính đến năm 2009 tổng số nhà là 496.714 căn nhà trong đó vùng nông thôn số nhà chiếm tới 90,11% là 447.627 nhà với 96,78% nhà kiên cố, 2,86% nhà bán kiên cố, 0,36% nhà thiếu kiên cố, nhà đơn sơ và không xác định. Điều này cho thấy tại Thái Bình dân cư chủ yếu tập trung ở vùng nông thôn…tỷ lệ hộ có nhà ở năm 2014 ở Thái Bình chiếm tỷ lệ cao nhất về nhà ở kiên cố với 98,4%, ở Hải Phòng chiếm tỷ lệ thấp nhất là 80,1% [6]. Ở các vùng nông thôn, mật độ giao thông ít hơn, có thể xa các khu công nghiệp nên chất lượng không khí ngoài trời và trong nhà thường ít ô nhiễm hơn. Tuy nhiên ô nhiễm nhà ở cũng cần được quan tâm, đặc biệt ở những nước đang phát triển, là nơi nhà ở chưa được cải thiện, tiện nghi sinh hoạt thấp kém, bếp ở ngay trong nhà, sử dụng các nhiên liệu làm chất đốt và không có ống khói để thoát hơi khí độc, đặc biệt các hơi khí độc do phân huỷ chất hữu cơ từ rác thải, nước thải, phân người, phân gia súc không được thu gom xử lý đúng [7]. Theo kết quả điều tra trên quy mô 600 hộ gia đình về tình trạng vệ sinh nhà ở tại tỉnh Thái Bình của tác giả Phạm Văn Trọng cho thấy : nhà bê tông là 63,2%, nhà xây lợp ngói là 33,2%, nhà lợp lá là 0,8% [38]. 1.2.5. Không khí: Ô nhiễm môi trường không khí đang là một vấn đề bức xúc đối với môi trường đô thị, công nghiệp và các làng nghề ở nước ta hiện nay. Ô nhiễm môi trường không khí có tác động xấu đối với sức khoẻ con người (đặc biệt là gây ra các bệnh đường hô hấp), ảnh hưởng đến các hệ sinh thái và biến đổi khí hậu (hiệu ứng "nhà kính", mưa axít và suy giảm tầng ôzôn,…). 17 Ở hầu hết các đô thị nước ta đều bị ô nhiễm bụi, nhiều nơi bị ô nhiễm bụi trầm trọng, tới mức báo động. Các khu dân cư ở cạnh đường giao thông lớn và ở gần các nhà máy, xí nghiệp cũng bị ô nhiễm bụi rất lớn. Ở nước ta hiện nay hoạt động xây dựng nhà cửa, đường sá, cầu cống,... rất mạnh và diễn ra ở khắp nơi, đặc biệt là ở các đô thị. Nhân dân ở nông thôn nước ta thường đun nấu bằng củi, rơm, cỏ, lá cây và một tỷ lệ nhỏ đun nấu bằng than. Nhân dân ở thành phố thường đun nấu bằng than, dầu hoả, củi, điện và khí tự nhiên (Gas). Đun nấu bằng than và dầu hoả sẽ thải ra một lượng chất thải ô nhiễm đáng kể, đặc biệt nó là nguồn gây ô nhiễm chính đối với môi trường không khí trong nhà, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của người dân. 1.3. Kiến thức và thực hành của ngƣời dân về vệ sinh môi trƣờng 1.3.1. Trên thế giới Esrey S. A và cộng sự đã phân tích dữ liệu về 119 trẻ sơ sinh sống tại 20 làng ở Lesotho- Canada từ giai đoạn 6 tháng 1984-1985 để đánh giá hiệu quả của nhà vệ sinh và tăng cường sử dụng nước đối với tăng trưởng. 62% trẻ sơ sinh sống trong các gia đình không có nhà vệ sinh và không tăng sử dụng nước giữa 2 mùa. Chỉ có 3% tăng sử dụng nước và có nhà vệ sinh, 19% có nhà vệ sinh, nhưng không tăng sử dụng nước. Tăng 16% việc sử dụng nước, nhưng không có nhà vệ sinh [48]. Một nghiên cứu trên quy mô 75 ngôi làng ở vùng nông thôn của Ấn Độ bao gồm 16.403 cá thể từ ba cấp độ liên lạc xã hội (bạn bè trực tiếp, cộng đồng mạng xã hội và làng xã) dự đoán đáng kể quyền sở hữu nhà vệ sinh cá nhân, nhưng hiệu quả mạnh nhất đã được tìm thấy ở cấp cộng đồng mạng xã hội. Ở các cộng đồng có sự gắn kết mạng cao, khả năng giảm được bất cứ cá nhân nào sẽ có nhà vệ sinh. Hiệu quả này chỉ có ý nghĩa ở các cấp thấp hơn về quyền sở hữu nhà vệ sinh, cho thấy vai trò của sự gắn kết mạng lưới trong việc tạo điều kiện cho tiêu chuẩn không thuộc sở hữu nhà nước [58]. 18 Nghiên cứu tại Periurban, Maputo, Mozambique, chọn mẫu ngẫu nhiên, được phân tầng theo mật độ tập trung, chủ yếu là các hộ gia đình do nữ làm chủ ở KaTembe, huyện của thành phố lớn nhất Maputo, Mozambique. Cuộc khảo sát bao gồm các câu hỏi về tính đầy đủ, khả năng tiếp cận và khả năng chi trả của nước, vệ sinh cơ sở vật chất , và quản lý chất thải cũng như nhận thức về bệnh tật và thói quen vệ sinh an toàn… Mặc dù là một phần của thủ đô, người dân KaTembe phải đối mặt với một loạt các thách thức về vệ sinh, như đã được khám phá thông qua phân tích đầy đủ, khả năng tiếp cận, chi phí hợp lý và các vấn đề nhận thức [46]. Một cuộc khảo sát ở trong 292 hộ gia đình tại 25 làng ở Odisha nông thôn, Ấn Độ với thiết bị điều tra là màn hình khảo sát hành vi sử dụng nhà tiêu (PLUMs) được đặt tại đây cho người dân tự trả lời bằng cách tương tác với màn hình đó. Màn hình tương tác đã được lắp đặt trong 2 tuần và các hộ gia đình đã trả lời các khảo sát về hành vi sử dụng nhà vệ sinh của họ. Các số liệu trung bình báo cáo các sự kiện hàng ngày "bình thường" cho mỗi hộ gia đình. Có sự đồng ý giữa việc sử dụng nhà tiêu thường lệ và các sự kiện ghi lại trung bình hàng ngày của PLUMs . Có sự đồng ý trung bình khi so sánh báo cáo hàng ngày được sử dụng trong 48 giờ trước đó với số lượng trung bình hàng ngày [61]. Nghiên cứu đánh giá nhận thức, thực tiễn và kiến thức của các cộng đồng về các khu nhà vệ sinh ở vùng nông thôn phía đông Zambia năm 2015. Kết quả cho thấy nhà vệ sinh không được xây dựng trong mỗi hộ gia đình Các nhà vệ sinh hiện có trong khu phố. Các nhà vệ sinh được cho là đóng góp vào việc vệ sinh tốt chủ yếu do họ ngăn không cho lợn ăn phân người. Nam giới bày tỏ sự miễn cưỡng từ bỏ việc đi vệ sinh nơi công cộng chủ yếu do các điều cấm kỵ liên quan đến nhà vệ sinh với luật pháp [62]. 19 1.3.2. Tại Việt Nam Những năm gần đây, các hoạt động nông nghiệp cùng với những hoạt động dịch vụ, sinh hoạt đã xuất hiện tình trạng ô nhiễm môi trường có tính chất nghiêm trọng ở khu vực nông thôn nước ta. Môi trường không đảm bảo làm ảnh hưởng tới rất nhiều khía cạnh của kinh tế, văn hóa và xã hội mà ở góc độ của nghiên cứu này chúng tôi đặc biệt lưu ý đến vấn đề sức khỏe con người. Con người bị ảnh hưởng chủ yếu bởi các vấn đề như: Ô nhiễm môi trường nước, nhà ở đáp ứng các yêu cầu tối thiểu về vệ sinh – an toàn, nhà tiêu chưa hợp vệ sinh, rác thải sinh hoạt tràn lan chưa được xử lý,... Kết quả nghiên cứu: “Tình hình sử dụng nước sạch của các hộ gia đình tại xã Tân Thới, huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ năm 2014” của Lê Thị Trúc Phương, Phan Thị Trung Ngọc cho biết tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nguồn nước sạch để uống là 96,2%, trong đó có 2,5% hộ gia đình uống trực tiếp không xử lý (nước mưa) và các hộ gia đình còn lại đều uống nước sau khi đã đun sôi; 86,3% hộ gia đình dùng nước sạch để chế biến thức ăn; 84% hộ gia đình rửa - làm sạch thực phẩm bằng dùng nước sạch và 79,3% hộ gia đình có nước sạch để tắm giặt [28]. Theo kế t quả nghiên cứu ở đố i tươ ̣ng ho ̣c sinh trung ho ̣c cơ sở ta ̣i huyê ̣n Ba Vi,̀ Hà Nội năm 2013 cho thấ y 74,8% học sinh cho rằng nước máy là nước sạch. Có 18,5% học sinh liệt kê được đủ 3 tính chất của nước sạch. Tỷ lệ học sinh cho rằng dùng nước không sạch gây bệnh đường tiêu hóa; gây bệnh da niêm mạc lần lượt là 72% và 81,1%. Có 67,8% học sinh mong muốn được dùng nước máy là nước sinh hoạt tại trường. Đa số học sinh muốn được uống các loại nước hợp vệ sinh do nhà trường chuẩn bị (70,9%). Nguồn nước chủ yếu các em được sử dụng sinh hoạt tại trường là nước máy (49%) và nước giếng khoan (31,1%) [17]. 20 Kết quả thu được từ nghiên cứu của Hạc Văn Vinh và cộng sự tại Thái Nguyên năm 2010 cho thấy: Thái độ, kiến thức và thực hành về sử dụng nguồn nước sạch, nhà tiêu hợp vệ sinh của đối tượng nghiên cứu chưa cao. Với đặc điểm khu vực miền núi, có các dân tộc khác nhau sinh sống, những tập quán văn hóa của người dân còn nhiêu điểm lạc hậu, hơn nữa với điều kiện kinh tế còn khó khăn, tỷ lê hộ nghèo còn cao cũng ảnh hưởng đến việc xây dựng các công trình vệ sinh đạt yêu cầu như giếng đào có thành, tìm kiếm và sử dụng nguồn nước sạch, xây dựng nhà tiêu hợp vệ sinh: Nhà tiêu hai ngắn, ủ phân tại chỗ [44]. Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Hà, Dương Chí Nam về Thực trạng xây dựng, sử dụng và bảo quản nhà tiêu hộ gia đình ở 6 tỉnh Việt Nam năm 2014 cho biết tại địa bàn nghiên cứu: hơn 90% HGĐ có nhà tiêu, trong đó 72,4% nhà tiêu hợp vệ sinh, chủ yếu là tự hoại (51%) và thấm dội nước (14,7%). So với năm 2006, tỷ lệ HGĐ có nhà tiêu tự hoại đã tăng 359,5% (từ 11,1 - 51%, tỷ lệ HGĐ có nhà tiêu đạt tiêu chuẩn vệ sinh về xây dựng, sử dụng và bảo quản đã tăng 257,8% (64,4% so với 18%) [14]. Kết quả nghiên cứu tại 02 xã của huyện Thanh Trì, Hà Nội năm 2014 cho biết: Tỷ lệ người dân có kiến thức đúng một phần về nhà tiê u hợp vệ sinh vệ sinh tại xã Vạn Phúc cao hơn Ngọc Hồi . Tuy nhiên , mức độ quan tâm đến kiến thức xây dựng , bảo quản, sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh không cao tương ứng với tỷ lệ nhà tiêu tự hoại chưa hợp vệ sinh [39]. Theo tác giả Vũ Phong Túc năm 2013 trong nghiên cứu Xử lý rác thải sinh hoạt của người dân tại 03 xã của huyện Tiền Hải cho biết: Thành phần của rác thải tại hộ gia đình phần lớn là thức ăn thừa chiếm tỷ lệ cao là 75,4%; 21,4 – 27,4 % là tỷ lệ rác thải khác. Ba xã Phương Công, Tây Ninh và Vũ Lăng tại địa bàn nghiên cứu chủ yếu có hình thức thu gom là cho rác vào túi nilon và đạt tỷ lệ là 88,8% [41].
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan