CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG “SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC”
NĂM 2007
Tên công trình:
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG TÁC NHÂN
ẢNH HƯỞNG ĐẾN KIẾN THỨC, HÀNH VI,
THÁI ĐỘ CỦA CÁC EM HỌC SINH LỚP 12
VỀ VẤN ĐỀ SỨC KHỎE SINH SẢN
(Điển
cứu Trường PTTH Nguyễn Huệ - Q. 9
và Trường PTTH Gia Định - Q. Bình Thạnh)
Thuộc nhóm ngành: XH2b
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
0
CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG “SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC”
NĂM 2007
Tên công trình:
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG TÁC NHÂN
ẢNH HƯỞNG ĐẾN KIẾN THỨC, HÀNH VI,
THÁI ĐỘ CỦA CÁC EM HỌC SINH LỚP 12 VỀ
VẤN ĐỀ SỨC KHỎE SINH SẢN
(Điển
cứu Trường PTTH Nguyễn Huệ - Q. 9
và Trường PTTH Gia Định - Q. Bình Thạnh)
Thuộc nhóm ngành: XH2b
Người hướng dẫn : GV. Vũ Toản
Thực hiện : Nguyễn Thị Anh Vy (chủ nhiệm)
Võ Thị Như Quỳnh
Phan Thị Kim Liên
Trần Thị Quỳnh Ni
Thành phố Hồ Chí Minh năm 2007
MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI
BGD&ĐT : Bộ Giáo Dục và Đào Tạo
LHQ : Liên Hiệp Quốc
UNESCO : Tồ Chức Văn Hóa Thế Giới
UNFPA : Từ Cairô đến Bắc Kinh: Đưa những khuyến nghị của chương trình
hành động thuộc hội nghị quốc tế về dân số và phát triển (ICPD) vào dự thảo
chương trình hành động của hội nghị phụ nữ thế giới lần thứ tư
GDGT : Giáo dục giới tính
ĐHSPHN1 : Đại Học Sư Phạm Hà Nội 1
QHTD : Quan hệ tình dục
SKSS : Sức khỏe sinh sản
TPHCM : Thành Phố Hồ Chí Minh
PTTH : Phổ Thông Trung Học
Mục lục
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ....................................................................2
3. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................................5
4. Khách thể và phạm vi khảo sát .......................................................................5
4. 1. Khách thể nghiên cứu ...........................................................................5
4. 2. Phạm vi khảo sát ..................................................................................5
5. Mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................5
5. 1. Mục tiêu tổng quát ................................................................................5
5. 2. Mục tiêu cụ thể .....................................................................................6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ...........................................................................6
6. 1.Ý nghĩa lý luận ......................................................................................6
6. 2.Ý nghĩa thực tiễn ...................................................................................6
7. Phươmg pháp nghiên cứu ...............................................................................7
Chương 1: Cơ sở lý luận
1. Lý thuyết sử dụng ..........................................................................................8
1.1 Lý thuyết xã hội hóa .....................................................................................8
1.2 Lý thuyết về sự lựa chọn hợp lý ....................................................................9
1.3 Lý thuyết hành động .....................................................................................9
2. Các khái niệm chính sử dụng trong đề tài .....................................................10
3. Khung lý thuyết ...........................................................................................16
4. Giả thuyết nghiên cứu ..................................................................................16
Chương 2: Kết quả nghiên cứu
2. 1. Vài nét sơ lược về trường Phổ thông Trung học Nguyễn Huệ và trường Phổ
thông Trung học Gia Định ...............................................................................19
2. 1. 1 Trường Phổ thông Trung học Gia Định ............................................19
2. 1. 2 Trường Phổ thông Trung học Nguyễn Huệ ......................................19
2. 2. Đặc điểm mẫu nghiên cứu .......................................................................20
2. 3. Những khó khăn và thuận lợi trong quá trình nghiên cứu đề tài.
2. 3. 1. Khó khăn ........................................................................................20
2. 3. 2. Thuận lợi ........................................................................................21
2. 4. Thực trạng kiến thức của học sinh phổ thông trung học về vấn đề sức khỏe
sinh sản ............................................................................................................21
2. 4. 1. Kiến thức của học sinh về vấn đề sức khỏe sinh sản......................... 22
2. 4. 2. Thái độ của học sinh về vấn đề sức khỏe sinh sản ........................... 33
2. 4. 3. Hành vi của các em học sinh về vấn đề sức khỏe sinh sản ...............38
2.5. Các tác nhân tác động đến kiến thức, hành vi và thái độ của học sinh về vấn
đề sức khỏe sinh sản ........................................................................................41.
2.5.1 Tác nhân nhà trường ..........................................................................41
2.5.2 Tác nhân gia đình ...............................................................................47
2.5.3. Tác nhân bản thân - xã hội................................................................ 52
2.6. Nhu cầu của các em học sinh về vấn đề sức khỏe sinh sản ........................54
2.6.1. Nhu cầu về kiến thức .......................................................................55
2.6.2. Nhu cầu về sự hỗ trợ của gia đình, nhà trường và xã hội ...................57
Chương 3: Kết luận và đề xuất
3. 1. Kết luận ...................................................................................................64
3. 2. Một số đề xuất .........................................................................................66
Tài liệu tham khảo. ...........................................................................................68
Phụ lục..............................................................................................................69
TÓM TẮT CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
Đề tài nhằm tìm hiểu thực trạng kiến thức của các em học sinh lớp 12 về vấn đề
sức khỏe sinh sản, đồng thời đi sâu nghiên cứu những tác nhân: gia đình, nhà trường
và bản thân học sinh đã tác động như thế nào đến mức độ hiểu biết của học sinh về vấn
đề sức khỏe sinh sản.
Bên cạnh đó, đề tài còn tìm hiểu nhu cầu mong muốn tiếp cận các loại hình
thông tin sức khỏe sinh sản của học sinh và từ cơ sở những kết quả thu được, chúng tôi
đã đưa ra một số giải pháp và đề xuất nhằm góp phần nâng cao sự hiểu biết của học
sinh Phổ thông Trung học một cách hiệu quả hơn trong sự định hướng của gia đình,
nhà trường và xã hội.…..
Hi vọng đề tài sẽ là tài liệu tham khảo có ý nghĩa thực tiễn cho các ban ngành
có liên quan và những ai quan tâm đến vấn đề sức khỏe sinh sản.
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, tình trạng mang thai ngồi ý muốn trong giới trẻ
thành thị ngày càng trở nên đáng báo động, Theo bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phượng,
nguyên giám đốc bệnh viện Từ Dũ: trên thế giới, mỗi năm có khoảng 600 ngàn người
chết do thai nghén và 70 ngàn người chết do nạo phá thai. Trong đó, Việt Nam là một
trong những nước có tỉ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới, 70 ngàn ca mỗi năm mà phần
lớn là những phụ nữ chưa lập gia đình. Một thực tế cụ thể như ở Thành phố Hồ Chí
Minh với khoảng 8 triệu dân, mỗi năm có hơn 10 ngàn ca sinh trong đó số lượng ca
nạo phá thai cũng chiếm tỷ lệ tương đương, Bác sĩ Ngọc Phượng có cho biết thêm:
năm 2004, bệnh viện có thêm 30 ngàn trường hợp nạo phá thai, trong đó gần 5 ngàn
em gái dưới 19 tuổi, đây là một con số đáng báo động cho bản thân trẻ vị thành niên,
gia đình và cả toàn xã hội. Gần đây các nhà Xã Hội Học thường nhấn mạnh đến việc
quan hệ tình dục trước hơn nhân, đặc biệt là vấn đề quan hệ tình dục tuổi vị thành
niên, một nghiên cứu mới đây cho thấy có từ 6% – 8% học sinh, sinh viên đã có quan
hệ tình dục trước hôn nhân dẫn đế tình trạng nạo phá thai và quan hệ tình dục không
an toàn, đây là môi trường thuận lợi dễ lây lan các bệnh truyền nhiễm ảnh hưởng đến
sức khỏe, tâm lý của phụ nữ nói chung và nữ học sinh, sinh viên nói riêng. Những hậu
quả nêu trên cho ta nhìn nhận một thực trạng bất cập, báo động về tình trạng nạo phá
thai gia tăng ở tuổi vị thành niên, trong khi vấn đề này được nhắc đến rất nhiều trên
các phương tiện truyền thông đại chúng, phải chăng là nội dung thông tin và mô hình
truyền thông chưa đáp ứng đúng nhu cầu tìm hiểu thông tin về vấn đề sức khỏe sinh
sản của học sinh? Để tìm ra mấu chốt của vấn đề này chúng tôi mong muốn tìm hiểu
mức độ kiến thức của học sinh về vấn đề này, đồng thời xác lập mô hình truyền thông
và mô hình giáo dục phù hợp về sức khỏe sinh sản nhằm trang bị cho các em đầy đủ
kiến thức, tự tin bước vào tương lai. Với những lý do trên chúng tôi đã chọn vấn đề
“Thực trạng và những tác nhân ảnh hưởng tới sự hiểu biết, thái độ và hành vi về sức
khỏe sinh sản của các em học sinh lớp 12 tại TPHCM” (trường hợp Trường PTTH
Nguyễn Huệ - quận 9 và Trường Gia Định - quận Bình Thạnh) làm đề tài nghiên cứu.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
- Trên thế giới:
Vấn đề giáo dục giới tính, chăm sức sức khỏe sinh sản là một vấn đề mang tính
toàn cầu, thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhà quản lý, hoạch
định chính sách thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Có thể nói cho đến nay, mảng chủ đề
nghiên cứu này khơng mới nhưng các công trình nghiên cứu liên quan thường mới tập
trung đề cập đến sự biến đổi hành vi giới tính và vấn đề giáo dục giới tính nhìn từ góc
độ y học và đạo đức. Các kết quả nghiên cứu này đã phản ánh sự biến đổi to lớn về độ
tuổi quan hệ tình dục lần đầu phụ thuộc vào đặc điểm văn hóa, chuẩn mực xã hội.
Thanh thiếu niên ở các nước phương Tây quan điểm về vấn đề giới tính, quan hệ tình
dục, sống thử trước hôn nhân phóng thoáng hơn ở các nước phương Đông phong kiến
cho nên tỷ lệ thanh thiếu niên có quan hệ tình dục trước hôn nhân khá cao.
- Ở Mỹ tỉ lệ quan hệ tình dục ở tuổi 19 khá cao 77% ở nam và 69% ở nữ (nghiên
cứu 1979).
- Ở Brazin tỉ lệ quan hệ tình dục rất cao 91% ở nam và 48% ở nữ có quan hệ tình
dục ở tuổi 20, 21.
- Ở Australia, một cuộc khảo sát cho thấy ở độ tuổi 20 có 58% nam và 48% ở nữ
có quan hệ tình dục.
- Ở Châu Á, thanh thiếu niên có QHTD muộn hơn:
- Ở Nhật chỉ 15% nam và 7% nữ có QHTD ở tuổi 16 đến 21, hay là Thái Lan có
15% nữ ở tuổi 19 có QHTD trước khi lập gia đình.
Những nghiên cứu trên đã cho thấy có sự thay đổi hành vi ứng xử tình dục, vấn
đề chăm sức sức khỏe nói chung và sức khỏe sinh sản nói riêng. Tuy nhiên, cũng chỉ
dừng lại ở khuôn khổ của vấn đề tình dục, giáo dục giới tính và sự phát triển ấy chỉ
dừng lại ở một số nước phương Tây, còn ở phương Đông vấn đề này còn bị xem là
nhạy cảm, tế nhị, bị cấm.
Bắt đầu từ năm 1968 giáo dục giới tính và sức khỏe tình dục đã được khẳng định
và trở thành một trong những nội dung trọng tâm của Liên Hợp Quốc về giáo dục nâng
cao chất lượng dân số.
2
1980 UNESCO đã đánh dấu tầm quan trọng của giáo dục đời sống gia đình và giới
tính trong giáo dục con người.
- Ở nước ta:
Việt Nam là một nước phương Đông phong kiến, ảnh hưởng từ văn hóa Nho
giáo nên vấn đề giới tính và tình dục thường là vấn đề nhạy cảm, ít được nói ra. Từ sau
thời kỳ đổi mới, giáo dục giới tính đã được bắt đầu nói đến trên các tạp chí và môn học
ở trường sư phạm, các chương trình nghiên cứu dân số.
Nghị quyết đầu tiên của chính phủ 1961 về dân số đã ghi rõ ở điều 1 “vì sức
khỏe người mẹ, vì hạnh phúc và sự hài hòa của gia đình, để giáo dục và chăm sóc con
cái tốt hơn cần hướng dẫn sinh đẻ một cách thích hợp”. Như vậy, từ lâu chính sách
phát triển dân số đã gần như kế hoạch hoá gia đình với sức khỏe sinh sản, năm 1988
BGD&ĐT đã giao cho viện khoa học và giáo dục Việt Nam thực hiện đề án
VIE/88/P09 dưới sự tài trợ của UNFPA và UNESCO LHQ.
Đề án VIE/88/P09 về “Giáo dục đời sống gia đình” đã triển khai ở 19 tỉnh. Đề
án nghiên cứu sâu và rộng các vấn đề như: quan niệm về tình yêu và tình dục trong
hôn nhân, quan niệm về đới sống gia đình và kế hoạch hóa gia đình, nguyện vọng đối
với việc học tập về đời sống gia đình. Nội dung của đề án thể hiện sự thử nghiệm giáo
dục đời sống gia đình và giới tính cho học sinh 9,10,12. Ở nước ta, nội dung giáo dục
đời sống gia đình là trọng tâm của chương trình 9 và 12 (đây là chương trình giáo dục
giới tính học đường của Bộ giáo dục, nhằm trang bị kiến thức về giới tính và sức khỏe
sinh sản cho học sinh phổ thông). Đây là lần đầu tiên học sinh học được một cách hệ
thống về những điều bí ẩn, của chính mình và của mối quan hệ với người khác giới.
Bên cạnh đó còn có nhiều công trình nghiên cứu khác như: Điều tra cơ bản nhằm đưa
GDGT và giáo dục đời sống gia đình vào nhà trường sư phạm (khoa tâm lý giáo dục,
trường ĐHSPHN 1).
Đề tài nghiên cứu về “giáo dục giới tính, kế hoạch hóa gia đình và giáo dục đời
sống gia đình” của Ngô Đặng Minh Hằng.
Đề tài “nhận thức thái độ của học sinh trường sư phạm Phú Yên, về những nội
dung cơ bản của kế hoạch hóa gia đình” của Đinh Thị Dậu cũng đề cập đến một số vấn
3
đề trong nội dung giáo dục giới tính.
Đề tài việc mang thai, nạo phá thai ở tuổi vị thành niên tại TP. HCM (Trần
Tuấn Phát, luận văn thạc sĩ, khoa Xã Hội Học chuyên ngành Xã Hội Học, Hà Nội
1999).
Nhìn chung các nghiên cứu trên đã đề cập đến tầm quan trọng của việc đưa giáo
dục giới tính vào trường học, khảo sát về sự hiểu biết, thái độ của học sinh phổ thông,
sinh viên nhằm tìm hiểu thực trạng và kiến nghị về việc nâng cao kiến thức về giới
tính cho học sinh, thái độ của học sinh về việc đưa giáo dục giới tính vào trường học.
Bên cạnh đó vấn đề này cũng được sự quan tâm của giới y học trong một số đề tài là:
Nghiên cứu kiến thức thái độ hành vi tính dục của sinh viên lứa tuổi 18 đến 24
tại TPHCM của tác giả Dương Đăng Hanh (luận văn thạc sĩ khoa học y học, chuyên
ngành sản phụ khoa 1999).
“Đánh giá sự trưởng thành tích cực của học sinh từ 6 đến 10 tuổi nội thành
TPHCM” thực hiện bởi Trương Thị Nguyệt Hảo (luận văn thạc sĩ khoa học y học
chuyên ngành sản phụ khoa 1999)
Nghiên cứu sự trưởng thành tính dục, kiến thức và thái độ về sức khỏe sinh sản
của học sinh Phổ thông Trung học tại TPHCM do Trần Anh Tuấn thực hiện (luận văn
thạc sĩ khoa học y học, chuyên ngành sản phụ khoa 1999).
Nghiên cứu kiến thức thái độ hành vi tính dục của học sinh Phổ thông Trung
học tại TPHCM do Nguyễn Đức Trí Dũng thực hiện 1999 (luận văn thạc sĩ khoa học y
học, chuyên ngành sản phụ khoa 1999).
Nhìn chung các nghiên cứu kể trên tập trung vào tìm hiểu kiến thức của học
sinh về vấn đề liên quan đến giới tính, sức khỏe sinh sản vị thành niên và quan hệ tình
dục. Ngồi ra còn có một số bài viết trên các đăng trên các báo, tạp chí liên quan khác.
Từ mặt bằng nghiên cứu trên cho thấy nghiên cứu thực trạng về vấn đề có liên
quan đến sức khỏe sinh sản không phải là ít. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy rằng các
nghiên cứu cụ thể về sức khỏe sinh sản và giới tính chỉ mới tập trung đến vấn đề đưa
mô hình giáo dục giới tính, tuyên truyền giáo dục sức khỏe sinh sản vào trường học.
Vấn đề nạo phá thai và quan hệ tình dục trước hôn nhân của thanh thiếu niên. Nhưng
4
trong thực tế cho thấy các vấn đề này được đưa vào trường học chỉ mang tính hình
thức sơ sài. Do vậy chúng tôi mong muốn được dựa trên những công trình nghiên cứu
cũ sẽ tiến hành nghiên cứu về thực trạng và những nhân tố tác động đến kiến thức, thái
độ hành vi, về sức khỏe sinh sản lớp 12. Đi sâu nhằm khảo sát thực trạng và kiến thức
sức khỏe sinh sản và làm rõ những tác nhân ảnh hưởng đến kiến thức, thái độ và hành
vi của học sinh ở TPHCM qua việc nghiên cứu 2 trường cụ thể. Qua đó tìm kiếm hình
thức tiếp cận phù hợp với vấn đề vốn được xem là nhạy cảm này, đồng thời cũng làm
rõ sự khác biệt về giới trong nhu cầu tìm hiểu, cung cấp và chia sẻ thông tin.
3. Đối tượng nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài đã xác định đối tượng nghiên cứu là thực trạng
kiến thức của các em học sinh về sức khỏe sinh sản, đồng thời đi lí giải các tác nhân
tác động đến kiến thức, thái độ hành vi về sức khỏe sinh sản của học sinh lớp 12.
4. Khách thể và phạm vi khảo sát
4.1. Khách thể nghiên cứu:
Dựa vào mục tiêu và đối tượng nghiên cứu, nhóm nghiên cứu xác định khách
thể nghiên cứu là học sinh Trung học Phổ thông.
4.2. Phạm vi khảo sát:
Do điều kiện thời gian hạn hẹp, chúng tôi xác định giới hạn phạm vi khảo sát ở
khối lớp 12 của trường PTTH Nguyễn Huệ - Q. 9 và khối lớp 12 của trường PTTH
Gia Định - Q. Bình Thạnh.
Sức khỏe sinh sản thì nó là một phạm trù khá rộng, ở giới hạn nghiên cứu đề tài
này nhóm nghiên cứu chúng tôi chỉ khảo sát vấn đề sức khỏe sinh sản ở khía cạnh
nhận thức, thái độ và hành vi về sức khỏe sinh sản học sinh lớp 12, đồng thời tìm hiểu
nhu cầu của các em về những dịch vụ cung cấp thông tin SKSS trong học sinh hiện
nay.
5. Mục tiêu nghiên cứu
5. 1. Mục tiêu tổng quát:
Tìm hiểu thực trạng và tìm kiếm các tác nhân ảnh hưởng đến kiến thức, thái độ
5
và hành vi sức khỏe sinh sản của học sinh lớp 12 tại hai trường Phổ thông Trung học
Nguyễn Huệ và Gia Định.
5. 2. Mục tiêu cụ thể :
Với mục tiêu chung như trên, trong giới hạn về thời gian và trình độ nghiên
cứu, chúng tôi chỉ tập trung xem xét cụ thể những khía cạnh sau:
- Tìm hiểu thực trạng kiến thức sức khỏe sinh sản của học sinh lớp 12 và những
vấn đề liên quan sức khỏe sinh sản đến như: thông tin - giáo dục - truyền thông về sức
khỏe sinh sản, nạo hút thai an toàn, các bệnh lây qua đường tình dục, sức khỏe vị
thành niên, ….
- Những yếu tố (gia đình, nhà trường, xã hội) tác động đến vấn đề sức khỏe sinh
sản của học sinh lớp 12.
- Tìm hiểu nhu cầu thông tin của các em về sức khỏe sinh sản, nhu cầu của các
em muốn trang bị thêm kiến thức gì về sức khỏe sinh sản và hình thức truyền thông,
giáo dục nào phù hợp, hiệu quả với các em.
- Sự khác biệt về giới đối với nhu cầu và phương pháp tiếp cận thông tin về sức
khỏe sinh sản.
- Qua thực trạng và các nhu cầu tìm hiểu thông tin của các em về sức khỏe sinh
sản, chúng tơi tìm kiếm một mô hình giáo dục phù hợp về vấn đề giáo dục giới tính và
sức khỏe sinh sản cho một trường hợp khảo sát cụ thể. Đó là trường PTTH Nguyễn
Huệ và trường PTTH Gia Định.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn:
6.1. Ý nghĩa lý luận :
Với tính chất và đặc trưng của đề tài chúng tôi chọn lý thuyết xã hội hoá là lý
thuyết nền tảng xuyên suốt đề tài. Kết quả nghiên cứu của đề tài là quá trình vận dụng,
củng cố lý thuyết xã hội hoá trong nghiên cứu ứng dụng. Qua đó khẳng định vai trị to
lớn của môi trường gia đình, nhà trường và xã hội trong quá trình xã hội hoá cá nhân.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Đề tài giúp nhằm nghiên cứu có điều kiện vận dụng các kiến thức đã học vào
6
thực hành nâng cao năng lực, qua đó nắm vững kiến thức để áp dụng vào thực tế cuộc
sống. Đồng thời cố gắng tìm kiếm, xây dựng mô hình tiếp cận phù hợp cho học sinh.
Kết quả đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho khoa và trường, là cơ sở cho nghiên
cứu về sau phát triển đề tài sâu và rộng hơn.
7. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài đã sử dụng các phương pháp sau:
* Phương pháp thu thập thông tin:
- Thu thập và phân tích tư liệu sẵn có.
- Phát phiếu điều tra: 173 bảng hỏi.
- Phỏng vấn sâu:
+ Phỏng vấn sâu giáo viên: 9 cuộc.
+ Phỏng vấn sâu học sinh: 2 cuộc.
+ Phỏng vấn sâu phụ huynh: 3 cuộc.
- Thảo luận nhóm: 2 cuộc (học sinh nam và học sinh nữ).
* Phương pháp xử lí thông tin theo phương pháp Xã hội học.
- Mã hoá và phân tích thông tin định tính.
- Xử lí SPSS và phân tích số liệu.
7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Các lý thuyết áp dụng:
1.1. Lý thuyết xã hội hoá
Các nhà xã hội học đã nhận định: quá trình xã hội hoá là quá trình làm cho con
người từ một thực thể sinh học trở thành một thực thể xã hội.
Quá trình quá độ mà theo đó chúng ta có thể tiếp nhận được nền văn hóa của
xã hội nơi chúng ta được sinh ra – một quá trình chúng ta đạt được những đặc trưng xã
hội của bản thân, học được các suy nghĩ, ứng xử thích hợp với xã hội của chúng ta
được gọi là quá trình xã hội hóa.
Xã hội hóa một trong những phạm trù cơ bản của Xã Hội Học. Nhờ quá tình
xã hội hóa mà xã hội có thể tồn tại và luân chuyển nền văn hóa của mình từ thế hệ này
qua thế hệ khác.
Các nhà xã hội học đã thống nhất, phân chia xã hội hóa thành ba giai đoạn:
- Giai đoạn xã hội hoá trong gia đình
- Giai đoạn xã hội hoá trong nhà trường
- Giai đoạn xã hội hoá trong môi trường xã hội
Ngay từ trong gia đình vấn đề về sức khỏe sinh sản đã được quan tâm khi còn
bé thông qua những lời dạy dỗ, khuyên răn, … nhưng giáo dục về sức khỏe sinh sản
trong gia đình không mang tính chính thức.
Tuy nhiên, những kiến thức về sức khỏe sinh sản sẽ được củng cố, hình thành
một cách có hệ thống khi tiếp thu ở trường, lớp. Nhưng, hầu như ở các trường học hiện
nay, giáo dục giới tính, trong đó, có giáo dục sức khỏe sinh sản, vẫn chưa được xem là
một môn học chính thức như các môn học khác.
Mặt khác, trong thời đại hiện nay, với sự bùng nổ thông tin, thì những vấn đề về
sức khỏe sinh sản rất phong phú và đa dạng, nhưng đa phần đây là những thông tin
thiếu định hướng, nên việc tiếp thu không có chọn lọc dễ dẫn đến sự sai lệch trong
nhận thức và hành vi.
8
Nhưng, trong môi trường xã hội, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến các nhóm bạn
cùng trang lứa, cùng độ tuổi. Chính những nhóm bạn này là nơi cung cấp, chia sẻ cho
nhau những thông tin về sức khỏe sinh sản, điều đó chứng tỏ, tác động, vai trò to lớn
của các nhóm bạn cùng lứa tuổi.
Lý thuyết xã hội hóa sẽ là lý thuyết chủ đạo, xuyên suốt đề tài chúng tôi. Ngoài
ra, chúng tôi còn áp dụng các lý thuyết khác nhằm bổ sung, làm rõ cho lý thuyết xã hội
hoá
1.2. Lý thuyết về sự lựa chọn hợp lí
Đại diện cho lý thuyết này là nhà tâm lý học người Mỹ Coleman
Ông cho rằng: mỗi người tự xem xét một loạt các kích thích và lựa chọn ra
những kích thích phù hợp, có ích cho bản thân mình, những kích thích nào không phù
hợp hoặc không có ích sẽ bị loại bỏ, khước từ. Đó chính là sự lựa chon hợp lí.
Khi đứng trước những vấn đề giới tính, cách riêng là vấn đề sức khỏe sinh sản,
học sinh sẽ đặt ra những câu hỏi: giới tính là gì? Sức khỏe sinh sản là gì? Học sức
khỏe sinh sản để làm gì? Nó có giúp ích gì cho bản thân không?
Từ những câu hỏi đó, học sinh đã biết đến sức khỏe sinh sản, và thời đại hiện
nay, một cách dễ dàng nhất là các em chỉ cần online là có thể có được một số lượng
kiến thức khổng lồ, từ những đều thu nhận được, các em sẽ có sự lựa chọn cho bản
thân mình.
Tuy nhiên, cần có sự định hướng để giúp cho các em nhìn nhận, quan tâm về
sức khỏe sinh sản một cách đúng đắn..
1.3. Lý thuyết hành động.
Đại diện cho lý thuyết này là nhà Xã Hội Học người Đức: Max Weber
Ông đã đưa ra một hệ thống mang tính khuôn mẫu bao gồm bốn kiểu hành
động:
- Hành động do cảm xúc: phần lớn hành động của con người là do cảm xúc.
Đây là những hành động mang tính tự phát, cũng một con người, cũng một hoàn cảnh
nhưng có thể có những hành động khác nhau tùy theo cảm xúc. Nhiều khi, các em
9
không có chủ đích tìm kiếm những kiến thức về sức khỏe sinh sản nhưng trong một
hoàn cảnh nào đó, các em nghe bạn bè nói về sức khỏe sinh sản, các em lại mong
muốn tìm hiểu nó, vì tò mò hơn là mục đích học tập.
- Hành động mang tính truyền thống: Tức là khi con người hành động theo một
thói quen, xuất phát từ những gì được xã hội hóa ngay từ thuở còn thơ. Đối với truyền
thống Á Đông thì những vấn đề về giới tính hay về sức khỏe sinh sản là những vấn đề
hết sức tế nhị, vì thế, khi tiếp thu những vấn đề này thông thường chỉ được chấp nhận
ở một khía cạnh nào đó trong phạm vi cho phép, nếu vượt qua ngưỡng đó thì sẽ bị xã
hội lên án.
- Hành động hợp lí về giá trị: là những hành động có tính định hướng giá trị.
Khi nhìn nhận vấn đề giới tính, cách riêng là vấn đề sức khỏe sinh sản, các em sẽ tìm
hiểu xem: những thông tin đó có thật sự cần thiết cho bản thân không? Có quan trọng
không? Hay ở tuổi các em những vấn đề đó có phù hợp không? Vấn đề đó có được
mọi người chấp nhận không? …
- Hành động hợp mục đích: người hành động phải suy nghĩ và quyết định xem
mình chọn mục đích nào và dùng phương tiện nào để đạt được mục đích. Khi các em
nhận thấy, những kiến thức sức khỏe sinh sản là quan trọng và cần thiết thì các em sẽ
quan tâm thông qua những nơi mà các em cho là đáng tin cậy, nơi tin cậy đó có thể là:
cha, mẹ, hay anh chị, và bạn bè cùng lứa tuổi, … để tâm sự, chia sẻ về những vấn đề
đó
Tuy nhiên, bốn loại hành động này không có một ranh giới rõ ràng mà chúng có
sự đan xen với nhau.
2. Các khái niệm:
- Khái niệm sức khỏe sinh sản:
Sức khỏe sinh sản là một trạng thái hồn hảo về thể chất, tinh thần và xã hội ở
mọi vấn đề liên quan đến bộ máy sinh sản, đến các chức năng và quá trình hoạt động
sinh sản, không chỉ đơn thuần là tình trạng không có bệnh tật hoặc đau ốm.
Như vậy, sức khỏe sinh sản có nghĩa là mọi người có hoạt động giới tính thỏa
mãn và an toàn, có khả năng sinh sản và được tự do quyết định thời gian sinh con và
10
số con, phụ nữ và nam giới có quyền được thông tin và có quyền hướng các dịch vụ kế
hoạch hóa gia đình an toàn, hiệu quả theo sự lựa chọn của mình.
- Khái niệm giới tính:
Là một khái niệm rộng, trước hết đó là giới sinh vật, nghĩa là thuộc nam hoặc
nữ về mặt sinh học (ngoại hình, nhiễm sắc thể khả năng sinh sản …) với những đặc
tính sẵn có, bẩm sinh không thay đổi.
Giới tính là một đặc điểm nền tảng có tính chất sinh học - xã hội của con người.
Những đặc điểm giới tính sinh học là tiền đề, là cơ sở vật chất tạo nên sự khác biệt giới
tính. Mặc khác giới tính còn do các mối quan hệ xã hội chi phối. Xã hội quy định,
đánh giá con người theo những phẩm chất đạo đức, tư thế tác phong riêng phù hợp với
giới tính, thể hiện ở phong tục tập quán, đạo đức xã hội. Xã hội quy định sự phân công
lao động nam và nữ khác nhau. Xã hội chi phối sự đánh giá những yếu tố có nguồn
gốc sinh học. Ngay cả lĩnh vực tình dục cũng được xã hội thừa nhận theo những tiêu
chuẩn đạo đức, văn hóa nhất định.
Còn giới là hành vi, tâm lý theo kiểu nam nữ được hình thành do ảnh hưởng của
xã hội hay một nền văn hóa nào đó. Các tiêu chuẩn để xác định giới tính vì vậy không
bền vững.
Giáo dục giới tính tức là giáo dục phẩm chất của giới theo những chuẩn mực do
nền văn hóa của xã hội đó quy định.
- Khái niệm nhận thức:
Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan của chủ thể, là quá tình tạo thành
trí thức trong bộ óc con người về hiện thực khách quan (theo tâm lý học nhận thức).
Hoạt động nhận thức là hoạt động rất đặc trưng của con người. Nó là một lĩnh vực hết
sức phức tạp. Nhận thức là hoạt động của chủ thể nhằm khám phá thế giới xung
quanh, nhằm tìm ra chân lý hay sự thật về những thuộc tính và quy luật khách quan
của một sự vật cụ thể. Quá trình nhận thức diễn ra ở nhiều mức độ khác nhau, song để
đánh giá nhận thức của theo các mức độ nhận thức hay đánh giá con người về một vấn
đề nào đó chúng ta có thể đánh giá theo các mức độ nhận thức hay đánh giá một cách
giản đơn theo hai hướng: nhận thức đúng hay chưa đúng.
11
Hoạt động nhận thức bao gồm nhiều quá trình khác nhau ở những mức độ phản
ánh khác nhau như: cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng … những quá trình này sẽ
tạo ra những sản phẩm khác nhau. Do đó, việc các em nhận thức về giáo dục giới tính
cũng trải qua nhiều giai đoạn tuổi ấu thơ, thiếu nhi, vị thành niên. Những hình ảnh mà
các em bắt gặp trong thực tế cuộc sống đã đi vào trong tiềm thức các em và đến một
giai đoạn nhất định thì cảm giác, tri thức, tư duy, tưởng tượng, của các em trở nên
phong phú và nhận thức về vấn đề này một cách cụ thể hơn, chính xác hơn.
Tuy nhiên mức độ nhận thức cao – thấp – đúng – sai của học sinh về vấn đề này
khác nhau.
- Khái niệm thái độ:
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt định nghĩa “thái độ” được hiểu theo hai khía
cạnh:
- Mặt biểu hiện bề ngoài của ý nghĩ, tình cảm đối với ai hay việc gì, thông qua
nét mặt, cử chỉ, lời nói, hành động.
- Ý thức, cách nhìn nhận, đánh giá và hành động theo một hướng nào đó trước
sự việc, vấn đề gì.
(Đại Từ điển Tiếng Việt, Nguyễn Như Ý, NXB Văn hóa thông tin)
Vậy thì theo nhóm nghiên cứu, thái độ của học sinh đối với vấn đề sức khỏe
sinh sản là những ý nghĩ, những suy nghĩ của học sinh về vấn đề này được bộc lộ ra
bên ngoài thông qua những phản ứng của các em đối với vấn đề này (cởi mở hay ngại
ngùng, e thẹn, ủng hộ hay không ủng hộ, đồng tình hay bác bỏ) theo quan điểm và
cách nhìn nhận riêng của từng học sinh về vấn đề sức khỏe sinh sản mà học sinh có
những phản ứng khác nhau.
- Khái niệm hành vi:
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt của nhà xuất bản Giáo dục: Hành vi là cách ứng
xử trong hoàn cảnh nhất định được biểu hiện bằng lời nói, cử chỉ, hành động nhất
định.
12
“Hành vi” theo cách hiểu của nhóm nghiên cứu đó là việc học sinh thể hiện sự
hiểu biết, nắm bắt được các kiến thức về sức khỏe sinh sản thông qua việc học sinh tự
chăm sóc, vệ sinh cá nhân hành ngày, tìm kiếm các thông tin về sức khỏe sinh sản trên
các phương tiện truyền thông đại chúng và qua những người xung quanh (gia đình,
bạn bè, …) và hành vi còn là sự quan tâm và nhu cầu tìm hiểu thêm về những kiến
thức về giáo dục giới tính mà học sinh chưa biết đến hoặc chưa được nghe nói, …
- Khái niệm gia đình
Gia đình là khái niệm được rất nhiều môn khoa học nghiên cứu dưới những góc
độ khác nhau, và mỗi nhà nghiên cứu lại đưa ra những định nghĩa của riêng mình để
phục vụ cho công tác nghiên cứu của họ. Do vậy khái niệm gia đình vô cùng đa dạng,
phong phú.
Trước hết phải kể đến những khái niệm gia đình của các nước khác. Trong
“Dictionnairre de Sociologie” định nghĩa về gia đình như sau: “Nhóm người gắn bó
với nhau bằng một liên hệ hôn nhân, huyết thống hay là việc nhận con nuôi. Có sự tác
động qua lại giữa chồng và vợ, giữa bố và mẹ, giữa cha mẹ với con cái, giữa anh chị
em và họ hàng xa hơn”.1
Một định nghĩa khác trong “La Sociologie et les Sciences de Societé”: “Gia
đình chỉ có vợ chồng hay gia đình hẹp, gồm có bố, mẹ và con cái còn nhỏ tuổi là hình
thức gia đình phương Tây hiện đại. Người ta cũng gọi nó là “gia đình học sinh”, “gia
đình hạt nhân”, “gia đình mở rộng”. Tất cả các hình thức gia đình của nền văn minh
khác nhau hiện nay trong sự phát triển của chúng ta cho thấy một khuynh hướng đi tới
gia đình một vợ, một chồng ấy. Mỗi thành viên của cặp vợ chồng thuộc về hai gia
đình: gia đình mà người đó sinh ra, gia đình định hướng và gia đình mà người đó tạo
ra do cuộc hôn nhân của anh ta, gia đình sinh sản”2.
Theo “Từ điển Xã Hội Học” của Gun Ter Endruweit và Gisela Trommsdorff,
“Gia đình là một nhóm thuộc loại đặc biệt vì nó biểu hiện một cấu trúc vai trị nhất
định (bố/mẹ/con gái/con trai/cháu/em…), với nó thì sự tách biệt về giới tính và thế hệ
là tiêu chí của cơ cấu gia đình (một hay đa thế hệ; nam hay nữ) và qua nó sẽ chuyển
1
2
Tương lai, Lại bàn về gia đình từ hướng tiếp cận xã hội học, Tạp chí Xã hội học, số 2, 1994, 62.
Tương Lai, bđd, tr. 62.
13
- Xem thêm -