Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng và giải pháp thúc đẩy hoạt đông đấu thầu qua mạng ở Việt Nam ...

Tài liệu Thực trạng và giải pháp thúc đẩy hoạt đông đấu thầu qua mạng ở Việt Nam

.PDF
85
297
95

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG NGỌC BÍCH THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG ĐẤU THẦU QUA MẠNG Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Quản lý kinh tế Mã số: 8340410 LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ ĐÌNH ÁNH HÀ NỘI, 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Những giải pháp và kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào. Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc Tác giả luận văn Hoàng Ngọc Bích DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BMT Bên mời thầu CĐT Chủ đầu tư CNTT Công nghệ thông tin DA Dự án DNNN Doanh nghiệp nhà nước ĐTQM Đấu thầu qua mạng HSDT Hồ sơ dự thầu HSMT Hồ sơ mời thầu KQĐT Kết quả đấu thầu QĐPD Quyết định phê duyệt TMĐT Thương mại điện tử UBND Ủy ban Nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa QLNN Quản lý nhà nước MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1 Chương 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẤU THẦU QUA MẠNG............................... 5 1.1 Những vấn đề cơ bản về đấu thầu ...................................................................... 5 1.2. Đấu thầu qua mạng ........................................................................................... 20 1.3. Kinh nghiệm quốc tế về đấu thầu qua mạng .................................................... 27 1.4 Các điều kiện đảm bảo hiệu quả của hoạt động đấu thầu qua mạng................ 33 Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐẤU THẦU QUA MẠNG Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2009-2017 .................................................................................... 35 2.1. Quá trình hình thành và phát triển đấu thầu qua mạng ở Việt Nam .......................... 35 2.2 Thực trạng công tác đấu thầu qua mạng ở Việt Nam giai đoạn 2009-2017 .... 37 2.3. Đánh giá công tác đấu thầu qua mạng ở Việt Nam.......................................... 48 Chương 3: GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG ĐẤU THẦU QUA MẠNG 62 3.1 Bối cảnh và những vấn đề mới đặt ra đối với đấu thầu qua mạng ................... 62 3.2 Định hướng nhằm thúc đẩy đấu thầu qua mạng............................................... 63 3.3 Giải pháp nâng cao hiệu quả đấu thầu qua mạng. ............................................ 63 KẾT LUẬN .................................................................................................................. 77 DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU Sơ đồ 1.1: Mô hình đấu thầu qua mạng .............................................................. 21 Bảng 1.2 Tỷ lệ tiết kiệm đạt được khi ứng dụng mua sắm công qua mạng ....... 26 Sơ đồ 2.1: Bộ máy tổ chức quản lý nhà nước về đấu thầu tại Việt Nam. .......... 36 Biểu 2.2: Tổng số gói thầu thực hiện bằng hình thức đấu thầu qua mạng tại Việt Nam ............................................................................................................. 46 Bảng 2.3: Thời gian tiết giảm được khi đấu thầu qua mạng .............................. 47 Bảng 2.4: Nguồn vốn dành cho đầu tư phát triển (Báo cáo của Bộ KHĐT năm 2017) .................................................................................................................... 48 Bảng 2.5:Mức độ tiết kiệm mua sắm công từ 2013-2016 .................................. 49 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong nền kinh tế hiện đại, đấu thầu là phương thức hiệu quả nhất để chủ đầu tư lựa chọn những nhà thầu có khả năng hoàn thành dự án với mức giá hợp lý nhất trong bất kỳ nền kinh tế của quốc gia nào. Đấu thầu càng quan trọng hơn khi xem xét trong lĩnh vực mua sắm công, khi nguồn ngân quỹ không thuộc sở hữu của một cá nhân cụ thể nào. Chỉ có đấu thầu mới có thể giúp sử dụng hiệu quả ngân sách công. Qua quá trình quan sát thực tiễn, phương pháp đấu thầu truyền thống ngày càng bộc lộ những hạn chế trọng yếu như chi phí thực hiện cao, sự không minh bạch, lách luật, sự can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp vào kết quả đấu thầu. Để giảm thiểu các yếu điểm trên, đấu thầu qua mạng là phương pháp tốt nhất có thể áp dụng. Theo kinh nghiệm từ các nước đi trước và nhận được sự trợ giúp nhiệt tình của Chính phủ Hàn Quốc, Việt Nam đang từng bước triển khai áp dụng đấu thầu qua mạng để nâng cao hiệu quả của hoạt động đấu thầu. Hiện nay, đấu thầu qua mạng đang trở thành xu thế tất yếu của nhiều quốc gia trên thế giới, áp dụng phương thức này ở Việt Nam rõ ràng là một bước đi lớn trong công tác đấu thầu. Triển khai đấu thầu qua mạng mang lại những lợi ích kinh tế rõ rệt. Hình thức đấu thầu mới này góp phần nâng cao hiệu quả của công tác đấu thầu, tạo môi trường cạnh tranh, công bằng minh bạch cho các nhà thẩu, giúp tiết kiệm thời gian, chi phí cho các bên tham gia đấu thầu. Từ báo cáo của các nước đã áp dụng thành công như Hàn Quốc, Singapore hay Úc thì đấu thầu qua mạng có thể giúp tiết kiệm chi phí từ 3% đến 20% ngân sách chi cho tổ chức đấu thầu, tiết kiệm được 10% chi phí mua sắm thường xuyên. Báo cáo của các địa phương cho thấy một phần ngân sách quốc gia, địa phương đã được tiết kiệm thông qua công tác đấu thầu, nhất là đấu thầu rộng rãi. Một số quan điểm còn cho rằng, nếu Việt Nam triển khai hình thức đấu thầu qua mạng hoàn toàn thì sẽ tiết kiệm thêm cho ngân sách hàng tỷ USD. Theo ước tính, tổng giá trị gói thầu thực hiện 1 theo Luật đấu thầu hàng năm tại Việt Nam khoảng hơn 20 tỷ USD. Như vậy, nếu triển khai thành công đấu thầu qua mạng cho tất cả các gói thầu thì có thể tiết kiệm cho ngân sách nhà nước từ 600 triệu USD đến 4 tỷ USD mỗi năm. Với những hiệu quả, lợi ích của đấu thầu qua mạng, việc áp dụng phương thức này rất cần được nghiên cứu một cách khoa học, đặc biệt là giải pháp thúc đẩy hoạt động đấu thầu qua mạng. Trước những yêu cầu thực tiễn nêu trên, tác giả đã chọn đề tài nghiên cứu: “Thực trạng và giải pháp thúc đẩy hoạt đông đấu thầu qua mạng ở Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ chuyên ngành quản lý kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Do đấu thầu qua mạng ngày càng chứng tỏ được những đặc tính ưu việt, có nhiều tác giả đã quan tâm tới vấn đề này và khai thác từ nhiều khía cạnh khác nhau, đứng trên góc độ của các bên khác nhau trong quy trình đấu thầu. Luận văn Thạc Sỹ Nghiêm Ngọc Dũng năm 2013 đã đề cập đến thực trạng và ứng dụng đấu thầu điện tử tại Việt Nam trong lĩnh vực mua sắm chính phủ [10, tr80]. Giai đoạn này là giai đoạn tương đối mới với khái niệm đấu thầu qua mạng, nên những nội dung được đề cập vẫn còn chung và chưa nêu được các vấn đề mang tính thời sự ở giai đoạn sau. Trong luận văn Thạc sỹ năm 2014 của Phạm Trung Kiên với đề tài “Quản lý nhà nước về hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa trong lĩnh vực công ở Việt Nam”, đấu thầu qua mạng được xem xét từ góc độ quản lý nhà nước [14, tr80]. Tác giả đã nêu được sự cần thiết của hành lang pháp lý làm cơ sở triển khai đấu thầu qua mạng, tuy nhiên vẫn chưa nêu rõ những khó khăn của việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này. Gần đây nhất là luận văn Thạc sỹ Kiều Minh Sơn về quản lý đấu thầu mua sắm thiết bị xây dựng tại Tổng công ty Điện lực dầu khí Việt Nam, năm 2016, có nêu lên thực trạng về đấu thầu tại một đơn vị nhà nước, song việc khai thác đấu thầu qua mạng tại đơn vị này vẫn còn hạn chế [17, tr80]. Ngoài ra, các nghiên cứu chuyên đề hay các báo cáo về đấu thầu qua 2 mạng của báo đấu thầu hay Bộ Kế hoạch và đầu tư cũng góp phần nâng cao nhận thức về hình thức này. Hơn nữa, các bài viết này cũng chỉ ra những lợi thế và khó khăn trong áp dụng đấu thầu qua mạng. Một số bài viết chỉ rõ khó khăn của đấu thầu qua mạng là đến từ ý chí quyết tâm chính trị, nội dung này sẽ được đề cập tại chương 2 của Luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những ưu điểm và hạn chế của mua sắm thương mại điện tử nói chung và đấu thầu qua mạng nói riêng, luận văn đánh giá thực trạng triển khai đấu thầu qua mạng tại Việt Nam, những nguyên nhân của các kết quả đạt được và các hạn chế cần khắc phục. Dựa vào đó để đề xuất các biện pháp nhằm hoàn thành lộ trình triển khai đấu thầu qua mạng 100% trong tương lai, góp phần tiết kiệm ngân sách nhà nước, tránh lãng phí. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Công tác Đấu thầu qua mạng ở Việt Nam Phạm vi nghiên cứu: Giai đoạn từ năm 2009 đến nay, trong đó tập trung vào nghiên cứu từ năm 2013 đến nay. Phạm vi nghiên cứu trong luận văn này là đấu thầu qua mạng cho các dự án sử dụng ngân sách nhà nước, trong mối quan hệ so sánh với các nước đã thành công trong đấu thầu qua mạng, đặc biệt là Hàn Quốc. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp sau đã được sử dụng: - Phương pháp phân tích, tổng hợp để có những đánh giá, những kết luận, những đề xuất mang tính khoa học, phù hợp với lý luận và thực tiễn của công tác đấu thầu qua mạng tại Việt Nam - Phương pháp so sánh để làm rõ sự giống và khác nhau của vấn đề nghiên cứu qua các giai đoạn, để từ đó có các nhận xét, đánh giá và đề xuất các giải pháp thúc đẩy đấu thầu qua mạng trong thời gian tới - Phương pháp thống kê trên cơ sở thu thập các tài liệu, nghiên cứu về vấn đề đấu thầu qua mang để thấy xu hướng và hiệu quả mà đấu thầu qua mạng mang lại. 3 Ngoài ra luận văn có sử dụng những kết quả đã nghiên cứu và được công bố trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài, luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về cơ bản, việc nghiên cứu về đấu thầu qua mạng trong các dự án mua sắm công giúp áp dụng phương thức mới nhằm tiết kiệm ngân sách, giảm lãng phí. Hơn nữa, nó còn giúp nước ta bắt kịp với những tiến bộ công nghệ, chuẩn bị kỹ càng cho cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Ngoài ra, từ các nghiên cứu về đấu thầu qua mạng, hệ thống thủ tục hành chính trong đấu thầu cũng được cải cách. Hệ thống này sẽ bớt rườm rà, thuận tiện hơn và minh bạch hơn, dẫn tới lợi ích nhiều hơn cho các đối tượng tham gia đấu thầu. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương. Chương 1: Lý luận cơ bản về đấu thầu và đấu thầu qua mạng. Chương 2: Thực trạng đấu thầu qua mạng ở Việt Nam hiện nay. Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp thúc đẩy hoạt động đấu thầu qua mạng tại Việt Nam. 4 Chương 1 LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẤU THẦU QUA MẠNG 1.1 Những vấn đề cơ bản về đấu thầu 1.1.1 Khái niệm đấu thầu Đấu thầu là một phương thức giao dịch đặc biệt. Nó dựa vào tính chất cạnh tranh công khai của thị trường. Hiểu đơn giản, đấu thầu là một hoạt động mua sắm đặc biệt mà người mua yêu cầu một hoặc nhiều người bán cung cấp những hàng hóa, dịch vụ mình cần với mức giá tốt nhất, tức là sử dụng đồng tiền một cách hiệu quả nhất. Theo từ điển Tiếng Việt (do Viện ngôn ngữ khoa học biên soạn, xuất bản năm 1998) đấu thầu được giải thích là “đọ công khai, ai nhận làm nhận bán với điều kiện tốt nhất thì được giao cho làm hoặc được bán hàng. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam “Đấu thầu là phương thức giao dịch đặc biệt, theo đó người muốn xây dựng một công trình (người gọi thầu) công bố trước các yêu cầu và điều kiện xây dựng công trình để người nhận xây dựng công trình (người dự thầu) công bố giá mà mình muốn nhận. Người gọi thầu sẽ lựa chọn người chủ thầu nào phù hợp với điều kiện của mình, và giá thấp hơn. Phương thức đấu thầu được áp dụng tương đối phổ biến trong việc mua sắm tài sản và xây dựng các công trình tư nhân và Nhà nước”. Theo khái niệm này, đấu thầu bị giới hạn chỉ dành cho lĩnh vực xây lắp, chỉ là một phần trong những hoạt động đấu thầu ngày nay thực hiện. Theo quy chế đấu thầu hiện nay của Việt nam, đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu. Bên mời thầu là chủ DA, chủ đầu tư hoặc pháp nhân đại diện hợp pháp của chủ DA, chủ đầu tư được giao trách nhiệm thực hiện công việc đấu thầu. Nhà thầu là tổ chức kinh tế có đủ tư cách pháp nhân tham gia đấu thầu. Nhà thầu là nhà xây dựng trong đấu thầu xây 5 lắp, là nhà cung cấp trong đấu thầu mua sắm hàng hóa, nhà tư vấn trong đấu thầu tuyển chọn tư vấn, là nhà đầu tư trong đấu thầu lựa chọn đối tác đầu tư. Theo Điều 4, Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 của Việt Nam, thì “đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu để ký kết và thực hiện hợp đồng cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp; lựa chọn nhà đầu tư để ký kết và thực hiện hợp đồng dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư, dự án đầu tư có sử dụng đất trên cơ sở bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế”. Từ các định nghĩa được trích dẫn ở trên, bản chất của đấu thầu là hoạt động mua bán đặc biệt, trong đó người mua- thường là bên mời thầu có quyền chọn người bán- nhà thầu tốt nhất một cách công khai theo một quy trình nhất định. Trong đấu thầu, tính cạnh tranh của các nhà thầu được xem xét như là yếu tố quyết định. Trước đây, khi nền kinh tế Việt Nam còn ở chế độ bao cấp, người mua không có quyền lựa chọn những hàng hóa phù hợp, thậm chí còn mua theo kiểu tem phiếu. Chỉ đến khi nền kinh tế Việt Nam theo chế độ kinh tế thị trường định hướng XHCN thì tính cạnh tranh xuất hiện, người mua được quyền quyết định chọn người bán. Khái niệm về đấu thầu cũng dần được hình thành và được chấp nhận như một điều tất yếu. 1.1.2 Đặc điểm của hoạt động đấu thầu Đấu thầu và đấu giá thường được hiểu là giống nhau. Tuy nhiên, trong hai hình thức này có những sự khác biệt cơ bản. Đấu giá hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó người bán hàng tự mình hoặc thuê người tổ chức đấu giá thực hiện việc bán hàng hoá công khai để chọn người mua trả giá cao nhất. Đấu giá là việc tạo ra sự bình đẳng và môi trường cạnh tranh công bằng khi tất cả người tham gia trả giá đều có cơ hội ngang nhau, giúp quan hệ mua bán diển ra nhanh chóng, với thời gian và địa điểm xác định, thúc đẩy trao đổi thương mại phát triển. Trong khi đó, đấu thầu là khi bên mua có thể lựa chọn được người cung ứng hàng hóa, dịch vụ thỏa mãn tốt nhất yêu cầu mình đặt ta, giảm chi phí 6 đầu tư và tăng lợi ích cho mua sắm hàng hóa, tìm kiếm người cung ứng dịch vụ, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh về giá cả, năng lực, chất lượng của hàng hóa, dịch vụ đó. Đấu thầu có những đặc điểm chung với các hoạt động thương mại khác. Cụ thể là đấu thầu hàng hóa, dịch vụ được thực hiện bởi những nhà thầu tham dự có tư cách pháp nhân; được thực hiện nhằm mục đích sinh lời; có đối tượng là các hàng hóa, dịch vụ được phép lưu thông theo quy định của Pháp luật và quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia đấu thầu được xác lập theo những hình thức pháp lý nhất định do pháp luật quy định. Bên cạnh đó, đấu thầu cũng có những đặc trưng cơ bản liên quan đến quy mô bên mua và bên bán, đối tượng mua sắm, giá mua-bán, và hành lang pháp lý của đấu thầu. Thứ nhất, người mua có quyền lựa chọn người bán với quy mô lớn. Sự lựa chọn trong hoạt động đấu thầu đặc biệt hơn mua bán hàng hóa thông thường vì người mua sẽ đưa ra các yêu cầu và tổ chức một “cuộc thi” để những người bán có khả năng tới tham dự và cạnh tranh với nhau. Đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là một quá trình gồm nhiều giai đoạn. Muốn tiến hành hoạt động đấu thầu, các bên phải thực hiện qua nhiều giai đoạn mời thầu, dự thầu, mở thầu, xét thầu, xếp hạng và lựa chọn nhà thầu, công bố kết quả đấu thầu đến ký kết hợp đồng. Mỗi giai đoạn của quá trình đấu thầu đều hướng tới một mục tiêu khác nhau nhưng giữa chúng vẫn có mối liên hệ mật thiết, gắn bó. Vì vậy, quy mô của sự lựa chọn trong hoạt động đấu thầu lớn hơn hẳn các hoạt động mua bán khác. Thứ hai, hàng hóa trong hoạt động đấu thầu thường có giá trị lớn, số lượng nhiều hoặc có yêu cầu khắt khe về kỹ thuật. Điều kiện để nhiều người bán quan tâm đến cuộc đấu thầu thường là người mua phải đem lại lợi ích cho bên bán bằng cách đặt hàng với số lượng lớn hoặc giá trị hàng hóa cao, kéo dài trong tương lai. Hoặc một trường hợp khác là khi hàng hóa, dịch vụ có yêu cầu đặc biệt về kỹ thuật, không thể áp dụng hình thức mua bán thông thường mà phải tổ chức đấu thầu. Khi đã đăng yêu cầu trên 7 các phương tiện thông tin đại chúng, người bán hàng phù hợp sẽ tìm đến cuộc đấu thầu và đưa ra các thỏa thuận. Thứ ba, trong đấu thầu có nhiều mức giá khác nhau mà các bên tham gia phải phân biệt được. Muốn đạt được thỏa thuận khi đấu thầu, cả người bán và người mua cần nắm được các mức giá của một cuộc đấu thầu. Khi bắt đầu, bên mời thầu đưa ra một mức ngân sách có thể để người bán dựa vào đó giới thiệu những sản phẩm đạt đủ yêu cầu với mức giá thấp hơn hoặc bằng mức ngân sách. Mức ngân sách không phải là giá mua mà là giá trần của sản phẩm thường gọi là giá gói thầu. Mỗi người mua sẽ đưa ra các mức giá khác nhau. Mức giá cuối cùng của sản phẩm sẽ là mức giá của nhà thầu trúng tuyển và được đưa vào ký kết hợp đồng chính thức. Thứ tư, cơ sở pháp lý của đấu thầu là các loại hồ sơ mời thầu, đấu thầu Đấu thầu hàng hóa, dịch vụ được thực hiện dưới hình thức pháp lý là hồ sơ mời thầu và hồ sơ dự thầu. Hồ sơ mời thầu là văn bản do bên mời thầu lập ra, trong đó thể hiện đầy đủ những yêu cầu về mặt kỹ thuật, tài chính, thương mại… của hàng hóa, dịch vụ cần mua sắm, sử dụng và những điều kiện khác của gói thầu. Căn cứ vào hồ sơ dự thầu, bên mời thầu xem xét, lựa chọn người thắng cuộc để ký kết hợp đồng. Những hồ sơ này chính là những căn cứ pháp lý làm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ đấu thầu hàng hóa, dịch vụ. Thứ năm, trong đấu thầu có rất nhiều các khoản đặt cọc. Thông thường, trong mua bán, người ta hay sử dụng việc đặt cọc để đảm bảo cho việc mua hàng hay người mua là người chi trả các khoản đặt cọc. Tuy nhiên, khi tham gia đấu thầu, các nhà thầu tức là người bán lại phải thực hiện nhiều lần đặt cọc khác nhau trong cả quá trình như bảo đảm dự thầu, bảo lãnh hợp đồng, bảo lãnh tạm ứng dự án. Vì việc tổ chức đấu thầu diễn ra phức tạp và đòi hỏi khá nhiều chi phí như thành lập tổ chuyên gia đấu thầu, tổ kiểm định, tổ 8 chức buổi đấu thầu … nên những khoản đặt cọc này sẽ đảm bảo cho bên mời thầu không bị thiệt khi nhà thầu bỏ tham gia đấu thầu. Đặc điểm cuối cùng là tiêu chí lựa chọn. Trong các hoạt động mua sắm khác, tiêu chí lựa chọn có thể là giá cả, mối quan hệ tùy theo mục tiêu hướng tới của các bên tham gia. Tuy nhiên, trong hoạt động đấu thầu, tiêu chí lựa chọn quan trọng nhất là kỹ thuật, đó là tiêu chí tiên quyết cho mọi đánh giá. Vì bên mời thầu luôn đưa ra mức giá trần cho nhà thầu nên giá cả không phải là yếu tố được quan tâm đầu tiên, chỉ cần nhỏ hơn và bằng mức giá trần cho phép. Tất cả các hồ sơ dự thầu đều được đánh giá kỹ càng về kỹ thuật, những nhà thầu nào vượt qua được yêu cầu kỹ thuật mới xem xét tới giá cả. Như vậy, bản thân hoạt động đấu thầu đã thể hiện chất lượng của hoạt động mua bán trao đổi. 1.1.3 Vai trò và ý nghĩa của đấu thầu 1.1.3.1 Vai trò của đấu thầu Thứ nhất, hoạt động đấu thầu mang lại lợi ích cho bên mời thầu (người mua) Đấu thầu là một công cụ quan trọng của nền kinh tế thị trường, giúp người mua (bên mời thầu) và người bán (nhà thầu) gặp nhau thông qua cạnh tranh. Nó giúp nhà thầu mua được hàng hóa dịch vụ mình cần một cách tốt nhất, còn chủ đầu tư thì tiết kiệm được chi phí tìm hiểu thông tin về sản phẩm và người cung cấp cũng như được đăng tải miễn phí thông tin yêu cầu của mình trên các phương tiện thông tin đại chúng. Ngoài ra, khi tổ chức đấu thầu, người mua còn được tư vấn một cách miễn phí về sản phẩm bởi nhà thầu và được đưa ra những giải pháp thực hiện công việc khác nhau cho sản phẩm khác nhau mà vẫn đáp ứng được yêu cầu của bên mua. Bên mua sẽ thu thập được nhiều thông tin như cách sử dụng sản phẩm hiệu quả, những sản phẩm có thể thay thế với sản phẩm cần mua thông qua các bản chào hàng, hay hồ sơ dự thầu, hồ sơ đáp ứng, hồ sơ đề xuất. Điều này tạo cơ hội để bên mời thầu phát hiện và có thể sử dụng sản phẩm mới. Trong xây lắp, đôi khi nhờ đấu thầu, chủ đầu tư được hưởng dịch vụ 9 tư vấn miễn phí về thiết kế ý tưởng. Hơn nữa, bên mua còn có điều kiện phát hiện và tiếp cận được với những người cung cấp mới. Bằng cách tổ chức đấu thầu cạnh tranh rộng rãi, bên mời thầu có thể tìm được những nhà cung cấp tiềm năng mới tốt hơn những đối tác truyền thống. Đôi khi họ cung cấp sản phẩm tốt hơn, với mức giá hợp lý hơn, giúp chủ đầu tư tiết kiệm chi phí mua sắm hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức đấu thầu là một hình thức thể hiện quyền lực của người mua, vì vậy có thể làm tăng uy tín của bên mời thầu trong môi trường kinh doanh. Nếu thực hiện đấu thầu một cách nghiêm túc thì bên mời thầu sẽ tạo được sự tin tưởng đối với nhà thầu và do đó nhà thầu cũng sẽ tham gia một cách nghiêm túc. Thứ hai, đấu thầu mang lại lợi ích cho bên dự thầu. Nếu mục đích của bên mời thầu khi tổ chức đấu thầu là mua được sản phẩm đáp ứng yêu cầu với giá hợp lý nhất, thì mục đích của các nhà thầu là bán được sản phẩm với giá mình muốn với số lượng lớn, trong thời gian lâu dài. Đấu thầu cũng là động lực để nhà thầu phải phát huy tối đa khả năng cạnh tranh của mình bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra sản phẩm mới hay hạ giá sản phẩm. Một tác dụng khác của đấu thầu đối với các nhà thầu là cơ hội làm quen với các nhà thầu khác. Mỗi khi tham gia đấu thầu, các nhà thầu có thể giao lưu, từ đó có thể học hỏi lẫn nhau hoặc nảy sinh những mối quan hệ hợp tác để cùng phát triển trong tương lai. Đối với nhà cung cấp mới hoặc chưa có tiếng tăm trên thị trường thì đấu thầu là cách giúp họ tự khẳng định mình và sự thành công sẽ mang lại cho các nhà thầu cơ hội để phát triển. Đây cũng là một hình thức xây dựng thương hiệu. Thông thường những dự án được đưa ra đấu thầu là những dự án lớn, nhiều người biết tới, việc trúng thầu là một cách quảng cáo tốt nhất, tạo niềm tin cho các khách hàng khác. Thứ ba, đấu thầu mang lại lợi ích cho nền kinh tế - xã hội. Đấu thầu là một công cụ quan trọng giúp cho chính phủ quản lý chi tiêu, 10 sử dụng hiệu quả nguồn vốn của Nhà nước sao cho có hiệu quả và chống thất thoát, lãng phí. Khoản đầu tư cho mỗi cuộc đấu thầu là những khoản tiền được chi dùng cho đầu tư phát triển mà có sự tham gia của các tổ chức nhà nước, DNNN ở một mức độ nào đó, cũng như cho mục tiêu duy trì các hoạt động của bộ máy Nhà nước. Việc chi tiêu, sử dụng tiền của Nhà nước thông qua đấu thầu sẽ giúp các cơ quan quan lý có điều kiện xem xét, quản lý và đánh giá một cách minh bạch các khoản chi tiêu do quá trình đấu thầu phải tuân thủ các quy trình chặt chẽ với sự tham gia của nhiều bên. Bên cạnh đó, đấu thầu cũng tạo điều kiện để thúc đẩy tiến trình đổi mới nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp, chuyển từ cơ chế “xin-cho” sang cơ chế cạnh tranh. Sự cạnh tranh giúp thực hiện dân chủ hóa nền kinh tế, khắc phục những nhược điểm của những thủ tục hành chính nặng nề cản trở sự năng động, sáng tạo. Pháp luật về thực hành tiết kiệm chống lãng phí, pháp luật về phòngchống tham nhũng tạo thành công cụ hữu hiệu để chống lại các hành vi gian lận, tham nhũng và lãng phí trong việc chi tiêu các nguồn tiền của Nhà nước, góp phần làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội nhờ thực hiện các hoạt động mua sắm công theo đúng luật pháp của Nhà nước. Đấu thầu, ngoài ra, còn giúp phát triển các ngành sản xuất theo hướng chuyên môn hoá sâu và hợp tác hoá rộng đồng thời phát triển thị trường đấu thầu. Thông qua đấu thầu đã phát triển được thị trường người bán, nhiều doanh nghiệp nhà thầu lớn mạnh, nhiều doanh nghiệp được thành lập mới hoặc đặt chân vào thị trường đấu thầu, kích thích thị trường trong nước phát triển chống được sự độc quyền tự nhiên. Các CĐT, BMT cũng được tăng cường về năng lực, họ có thêm kiến thức, thông tin và trở thành những người mua ngày một thông thái hơn. Bên cạnh đó, hoạt động đấu thầu góp phần tạo động lực cho sự phát triển nhờ tăng cường sự công khai, minh bạch, công bằng, hiệu quả và thúc đẩy cạnh tranh các hoạt động mua sắm bằng nguồn vốn của Nhà nước cho các công trình công cộng; 11 Vai trò nữa của đấu thầu với nền kinh tế-xã hội là thúc đẩy chuyển giao công nghệ, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm giữa các quốc gia, các tổ chức phát triển với các quốc gia đang phát triển. Hoạt động đấu thầu không chỉ diễn ra trong phạm vi hẹp mà diễn ra trên toàn thế giới. Các nhà thầu danh tiếng trên thế giới- là những người sẵn sàng và có khả năng tham gia vào tất cả các hoạt động của các quốc gia, thông qua đó họ sẵn sàng chuyển giao công nghệ, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm. 1.1.3.2 Ý nghĩa của đấu thầu Một là, đấu thầu mua sắm công đảm bảo mục tiêu chính trị-xã hội. Nguồn gốc của ngân quỹ mua sắm công chính là từ ngân sách, hay nói cách khác là các khoản đóng góp của nhân dân. Không chỉ giúp đảm bảo hiệu quả kinh tế trong sử dụng ngân sách, đấu thầu qua mạng còn giúp tăng cường lòng tin của dân với chi tiêu của Chính phủ. Bởi vì nguyên tắc của đấu thầu là minh bạch, công khai nên nhân dân có thể kiểm tra, giám sát quy trình mua sắm công, tránh tình trạng tham nhũng, thông thầu trong hoạt động mua sắm công. Quyền tự do kinh doanh ngày càng được khẳng định khi Chính phủ thừa nhận đấu thầu là hình thức mua sắm chủ yếu của Chính phủ. Quyền tự do này được thực hiện trọng mối ràng buộc với các nguyên tắc công khai, minh bạch và trong khuôn khổ Pháp luật cho phép. Những nhà thầu có đủ năng lực thì có quyền tham gia đấu thầu mà không bị hạn chế bởi bất cứ tổ chức, cá nhân nào. Các HSDT được đánh giá trên một mặt bằng, trong những HSDT đáp ứng đủ điều kiện kỹ thuật, hồ sơ nào có giá thấp nhất sẽ được lựa chọn. Hai là, đảm bảo tối đa hiệu quả kinh tế trong việc mua sắm công Tính hiệu quả trong quá trình mua sắm được thể hiện ở việc mua sắm hàng hóa, dịch vụ phù hợp với giá rẻ nhất. Thực tế cho thấy đấu thầu rộng rãi chính là hình thức mua sắm được hàng hóa, dịch vụ với giá thấp nhất nhưng đem lại giá trị sử dụng cao. Nhờ có đấu thầu qua mạng, những sản phẩm có chất lượng cao, đem lại 12 hiệu quả kinh tế cho nhà nước, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc gia được mua sắm với mức giá hợp lý. Những hàng hóa, dịch vụ này góp phần tạo nên hạ tầng kỹ thuật công nghệ tiên tiến, hiện đại, xây dựng tư duy mới theo mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế đất nước. Ba là, đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh và công bằng giữa các nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Thị trường cạnh tranh bình đẳng với tất cả các doanh nghiệp được tạo nên thông qua đấu thầu qua mạng. Không giống như một số loại thị trường khác, doanh nghiệp muốn tham gia vào thị trường cần phải có khả năng về trình độ, năng động, có năng lực chuyên môn, đội ngũ nhân viên có chuyên môn, tay nghề cao, có tư duy áp dụng khoa học công nghệ mới vào kinh doanh. Đấu thầu qua mạng được triển khai rộng rãi sẽ tạo điều kiện cho các nhà thầu trong nước tham gia vào thị trường cạnh tranh lành mạnh, giúp các doanh nghiệp nước ta tiếp cận cơ hội hội nhập với khu vực và trên thế giới. Bốn là, đấu thầu qua mạng góp phần kiểm soát chi tiêu trong lĩnh vực mua sắm, chi tiêu công. Đấu thầu trong mua sắm công giúp Chính phủ quản lý chi tiêu, sử dụng ngân sách một cách có hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí. Thông qua đấu thầu, việc chi tiêu, sử dụng nguồn vốn Nhà nước trong mua sắm công sẽ được xem xét, quản lý, đánh giá minh bạch do phải tuân thủ các quy trình chặt chẽ, với sự tham gia của nhiều bên, thúc đẩy tiến trình đổi mới nền kinh tế, chuyển từ cơ chế “xin-cho” sang cơ chế cạnh tranh lành mạnh, cải cách, đơn giản hóa các thủ tục hành chính. Bên cạnh đó, hệ thống văn bản pháp luật về đấu thầu mua sắm công cũng đang được hoàn thiện để làm tiền đề chống lại các hành vi gian lận, tham nhũng, lãng phí khi chi tiêu ngân sách Nhà nước. 1.1.4 Một số vấn đề cơ bản về đấu thầu 1.1.4.1 Phân loại hình thức đấu thầu Theo quy định tại mục 1 Chương II của Luật Đấu thầu, cụ thể tại các Điều 13 20, Điều 21, Điều 22, Điều 25, Điều 26, Điều 27. Luật này quy định hai hình thức lựa chọn nhà thầu là đấu thầu rộng rãi và đấu thầu hạn chế. Hai hình thức này giống với đấu thầu trong thương mại, tuy nhiên vẫn có những sự khác biệt trong quy định, bên cạnh đó là những hình thức lựa chọn nhà thầu đó là: chỉ định thầu, mua sắm trực tiếp, chào hàng cạnh tranh, tự thực hiện, lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt và tham gia thực hiện của cộng đồng. Đấu thầu rộng rãi: (Điều 20) Đấu thầu rộng rãi là hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng nhà thầu, nhà đầu tư tham dự. Đây là hình thức lựa chọn được nhà thầu tốt nhất mang tính cạnh tranh cao. Tuy nhiên, hình thức này cũng mang lại nhiều khó khăn cho bên mời thầu khi phải quản lý số lượng lớn hồ sơ, chi phí cho hoạt động tổ chức đấu thầu cũng kéo theo thời gian thực hiện công tác tổ chức cũng dài. Đồng thời có thể xảy ra trường hợp nhà thầu liên kết với nhau để đẩy giá trúng thầu. Đấu thầu hạn chế: (Điều 21) Đấu thầu hạn chế là hình thức chỉ có một số lượng nhà thầu nhất định tham gia dự thầu (ít nhất là ba nhà thầu), được áp dụng trong trường hợp gói thầu có yêu cầu cao về kỹ thuật hoặc kỹ thuật có tính đặc thù mà chỉ có một số nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói thầu. Ưu điểm của hình thức này là bên mời thầu tiết kiệm được thời gian và chi phí. Tuy nhiên, do sự lựa chọn ít nên trong nhiều trường hợp bên mời thầu chưa chắc đã lựa chọn được nhà thầu phù hợp nhất. Hình thức này không tạo ra được môi trường cạnh tranh lớn nhất giữa các nhà thầu, vì thế có thể giảm hiệu quả của hoạt động đấu thầu. Trong trường hợp một số nhà thầu được chọn nhỏ hơn 5 thì bên mời thầu phải thông báo công khai và báo cáo chủ đầu tư trình cấp có thẩm quyền xem xét. Danh sách nhà thầu tham dự do chủ đầu tư quyết định trên cơ sở đánh giá của bên mời thầu về năng lưc, kinh nghiệm. Điều kiện áp dụng hình thức này chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng yêu cầu gói thầu, do yêu cầu của nguồn vốn sử dụng và do tình hình cụ thể của gói thầu mà 14 việc đấu thầu hạn chế có lợi thế Luật Đấu thầu đã quy định những hình thức lựa chọn nhà thầu như: Một là, chỉ định thầu: là hình thức lựa chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói thầu để thương thảo và ký kết hợp đồng. Nhà thầu được lựa chọn có những điều kiện nhất định mà những nhà thầu khác không đáp ứng được. Luật đấu thầu quy định rõ các trường hợp được chỉ định thầu: Chỉ định thầu đối với nhà thầu được áp dụng trong các trường hợp sau đây:  Gói thầu cần thực hiện để khắc phục ngay hoặc để xử lý kịp thời hậu quả gây ra do sự cố bất khả kháng; gói thầu cần thực hiện để bảo đảm bí mật nhà nước; gói thầu cần triển khai ngay để tránh gây nguy hại trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe và tài sản của cộng đồng dân cư trên địa bàn hoặc để không ảnh hưởng nghiêm trọng đến công trình liền kề; gói thầu mua thuốc, hóa chất, vật tư, thiết bị y tế để triển khai công tác phòng, chống dịch bệnh trong trường hợp cấp bách;  Gói thầu cấp bách cần triển khai nhằm mục tiêu bảo vệ chủ quyền quốc gia, biên giới quốc gia, hải đảo;  Gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa phải mua từ nhà thầu đã thực hiện trước đó do phải bảo đảm tính tương thích về công nghệ, bản quyền mà không thể mua được từ nhà thầu khác; gói thầu có tính chất nghiên cứu, thử nghiệm; mua bản quyền sở hữu trí tuệ;  Gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn lập báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế xây dựng được chỉ định cho tác giả của thiết kế kiến trúc công trình trúng tuyển hoặc được tuyển chọn khi tác giả có đủ điều kiện năng lực theo quy định; gói thầu thi công xây dựng tượng đài, phù điêu, tranh hoành tráng, tác phẩm nghệ thuật gắn với quyền tác giả từ khâu sáng tác đến thi công công trình;  Gói thầu di dời các công trình hạ tầng kỹ thuật do một đơn vị chuyên ngành trực tiếp quản lý để phục vụ công tác giải phóng mặt bằng; gói thầu rà phá bom, mìn, vật nổ để chuẩn bị mặt bằng thi công xây dựng công trình; 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất