Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng và giải pháp quản lý hoạt động dạy học ở các trường trung học phổ thô...

Tài liệu Thực trạng và giải pháp quản lý hoạt động dạy học ở các trường trung học phổ thông

.DOCX
128
61
116

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH PHẠM VĂN KHẢO Chuyên ngành Mã số : Quản Lý Giáo Dục : 60 14 05 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. TRẦN THỊ HƯƠNG Thành phố Hồ Chí Minh – 2008 LỜI CẢM ƠN Với tình cảm trân trọng, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn Trường Ban Giám Hiệu trường Đại học Sư phạm, Phòng Khoa học Công nghệ - Sau đại học, quý học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc TS. Trần Thị Hương – người hướng dẫn khoa học đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo tron Xin chân thành cám ơn gia đình, những người bạn đã c động viên, quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học Do thời gian và năng lực có hạn, luận văn chắc chắn còn nh thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của quý thầ DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CBQL : cán bộ quản lí CNH–HĐH : công nghiệp hoá - hiện đại hoá CNTT : công nghệ thông tin CSVC : cơ sở vật chất CT : cần thiết CCT : chưa cần thiết ĐDDH : đồ dùng dạy học GD&ĐT : giáo dục & đào tạo GV : giáo viên KT : khả thi KKT : không khả thi KTH : không thực hiện KTX : không thường xuyên HĐDH : Hoạt động dạy học HĐGD : Hoạt động giảng dạy HT : Hiệu trưởng PHT : Phó Hiệu trưởng PPCT : phân phối chương trình PPDH : phương pháp dạy học QLGD : quản lí giáo dục RKT : rất khả thi RTX : rất thường xuyên THPT : trung học phổ thông THPT BC : trung học phổ thông bán công TTCM : tổ trưởng chuyên môn TX : thường xuyên MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong thời đại của cách mạng khoa học - công nghệ, trí tuệ đang trở thành động lực chính của sự tăng tốc phát triển. Hầu hết các quốc gia đều khẳng định nguồn lực con người là quan trọng nhất và giáo dục là con đường cơ bản nhất để phát huy nguồn lực con người, phục vụ cho sự phát triển nhanh và bền vững. Đặc biệt, đối với các nước đang phát triển, bên cạnh những thời cơ và thuận lợi, phải đối mặt với muôn vàn thách thức, khó khăn trong cuộc tìm kiếm các giải pháp cho phát triển thì GD&ĐT được xem là nhân tố quyết định sự thành bại của mỗi quốc gia. Trong báo cáo “Học tập: Một kho báu tiềm ẩn” gửi UNESCO của Ủy ban quốc tế về giáo dục thế kỉ XXI có nêu: “Dưới áp lực của tiến bộ công nghệ và hiện đại hoá, đòi hỏi đối với giáo dục cho các mục đích kinh tế cũng không ngừng tăng lên ở hầu hết các nước trong suốt giai đoạn đang xem xét. Những so sánh quốc tế đôi khi đã làm nổi bật tầm quan trọng đối với năng suất tăng lên của nguồn lực con người, và từ đó, của sự đầu tư vào giáo dục”[39]. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH-HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản của sự phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”[10]. Đây là yêu cầu cấp bách đối với toàn xã hội, trong đó, ngành giáo dục có nhiệm vụ “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Chỉ thị 40 – CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã nêu: “Phát triển GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, trong đó nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục là lực lượng nòng cốt, có vai trò quan trọng”[1]. Như vậy, phát triển GD&ĐT đã trở thành mục tiêu chiến lược của công cuộc đổi mới đất nước, được xem là cuộc cách mạng mang tính thời đại sâu sắc. Đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục là lực lượng cách mạng quan trọng, quyết định thắng lợi sự nghiệp đổi mới giáo dục, góp phần phát triển đất nước. Để đạt được mục tiêu này, vấn đề cấp thiết đặt ra cho giáo dục là phải “tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học” và đồng thời đổi mới công tác quản lí để nhằm đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội. Trong xu thế toàn cầu hoá và việc Việt Nam đã là thành viên của WTO, chúng ta đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới. Trong đó ngành giáo dục phải không ngừng khẳng định vị thế của mình nhằm thể hiện vai trò, tạo bước đột phá trong cuộc cách mạng trí tuệ đang hình thành và phát triển. Sự chuyển biến và phát triển của nền kinh tế tri thức diễn ra ngày càng rộng lớn và mạnh mẽ trên qui mô toàn cầu. Nền giáo dục cũng đã và đang định hình nhằm thực hiện chức năng trọng yếu là động lực của mọi sự tiến bộ xã hội. Đứng trước tình hình ấy, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần IX tiếp tục khẳng định: “Phát triển đội ngũ giáo viên, coi trọng chất lượng và đạo đức sư phạm, cải thiện chế độ đãi ngộ. Bảo đảm về cơ bản đội ngũ giáo viên đạt chuẩn quốc gia và tỉ lệ giáo viên so với yêu cầu học sinh từng cấp học”[13]. Dạy học là hoạt động trung tâm của nhà trường, đội ngũ GV là lực lượng quyết định chất lượng dạy học. Nhiệm vụ của người GV là giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lí, chương trình giáo dục để giúp HS phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo, vận dụng kiến thức vào thực tiễn và hình thành những tình cảm đạo đức tốt đẹp. Thời đại ngày nay, thời đại của thông tin và nền kinh tế tri thức thì sứ mạng của người GV càng nặng nề hơn. Người thầy không chỉ chuyển tải thông tin cho HS mà còn phải tổ chức, điều khiển, hướng dẫn HS chủ động chiếm lĩnh tri thức. Vì vậy, vấn đề nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ GV hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định chất lượng đào tạo. Yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông, đổi mới HĐGD đòi hỏi phải đổi mới hoạt động quản lí. Đổi mới quản lí trường học trở thành đòi hỏi cấp bách, trong đó quản lí của HT đối với HĐGD của GV là vấn đề cơ bản, có tác động trực tiếp nâng cao chất lượng giáo dục. HĐGD của thầy giáo mang tính độc lập song không thể thực hiện một cách đơn lẻ mà là sự hợp tác lao động trong đội ngũ GV. Để nâng cao chất lượng, HT trường THPT phải có những giải pháp quản lí HĐDH ở nhà trường phổ thông. Công tác quản lí HĐDH có ý nghĩa rất quan trọng vì nó là một trong những nội dung cơ bản của quản lí trường học. Hiện nay, các trường THPT trên địa bàn tỉnh Long An nói chung và địa bàn huyện Cần Đước nói riêng, chất lượng dạy học có những chuyển biến tích cực nhưng cũng còn nhiều hạn chế. HT các trường đã có nhiều cố gắng song quản lí HĐDH vẫn còn nhiều lúng túng, bất cập. Điều này đặt ra vấn đề hết sức cấp thiết là cần phải tăng cường công tác quản lí HĐDH để nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay của đất nước. Với những cơ sở về lí luận và thực tiễn trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Thực trạng và giải pháp quản lí hoạt động dạy học ở các trường trung học phổ thông huyện Cần Đước, tỉnh Long An”. 2. Mục đích nghiên cứu Đánh giá đúng thực trạng quản lí HĐDH ở các trường THPT huyện Cần Đước, tỉnh Long An, từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lí HĐDH của các trường THPT huyện Cần Đước, tỉnh Long An. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1 Khách thể nghiên cứu Hoạt động quản lí ở trường THPT. 3.2 Đối tượng nghiên cứu Thực trạng và giải pháp quản lí HĐDH ở các trường THPT huyện Cần Đước, tỉnh Long An. 4. Giả thuyết khoa học Thực trạng về công tác quản lí HĐDH ở các trường THPT huyện Cần Đước, tỉnh Long An tuy đã đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn có nhiều bất cập, chưa đáp ứng đuợc yêu cầu ngày càng cao của công tác quản lí ở trường THPT. Nếu đánh giá đúng thực trạng công tác quản lí HĐDH ở các trường THPT huyện Cần Đước sẽ có cơ sở thực tiễn để đề xuất các giải pháp quản lí đối với HĐDH nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của HĐDH ở trường THPT. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1 Nghiên cứu cơ sở lí luận về quản lí HĐDH ở trường THPT 5.2 Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng về quản lí HĐDH ở các trường THPT huyện Cần Đước, tỉnh Long An. 5.3 Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lí HĐDH ở các trường THPT. 6. Giới hạn đề tài Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp quản lí hoạt động dạy của GV ở các trường THPT huyện Cần Đước, tỉnh Long An. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1 Phương pháp luận - Tiếp cận hệ thống - cấu trúc: Là cách thức nghiên cứu đối tượng như một hệ thống toàn vẹn, phát triển động, tự hình thành và phát triển thông qua việc giải quyết mâu thuẫn nội tại do sự tương tác hợp quy luật của các thành tố tạo ra. Qua đó phát hiện các yếu số sinh thành, yếu tố bản chất và lôgic phát triển của đối tượng trở thành hệ toàn vẹn, tích hợp mang chất lượng mới. - Tiếp cận quan điểm lịch sử: Khi xem xét sự vật hay một hiện tượng, chúng ta thường xem xét quá trình lịch sử của nó. Từ đó thấy được mối quan hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai của đối tượng nghiên cứu. - Tiếp cận quan điểm thực tiễn: Việc đề ra các biện pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý giảng dạy của hiệu trưởng các trường THPT dựa trên việc khảo sát thực trạng quản lý giảng dạy của hiệu trưởng. Qua khảo sát, phát hiện những mặt mạnh, mặt yếu, những nguyên nhân hạn chế, từ đó đề ra các biện pháp mang tính khả thi hơn . 7.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể 7.2.1 Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí luận Bằng việc tổng hợp, nghiên cứu, khai thác những cơ sở lí luận đã có trong các công trình khoa học, trong văn kiện của Đảng, chủ trương chính sách pháp luật của nhà nước, của ngành giáo dục, sách, tạp chí chuyên ngành,… nhằm xác lập cơ sở lí luận của đề tài nghiên cứu. 7.2.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn 7.2.2.1 Phương pháp điều tra giáo dục - Điều tra bằng Anket Phương pháp này nhằm mục đích khảo sát các nhóm đối tượng là CBQL, GV. Các tài liệu điều tra được sẽ là những thông tin quan trọng cần cho quá trình nghiên cứu và là căn cứ quan trọng để đề xuất những giải pháp khoa học. - Điều tra bằng phỏng vấn, trao đổi 7.2.2.2 Phương pháp quan sát sư phạm Nhằm thu thập thông tin qua việc quan sát hoạt động quản lí dạy học của HT ở các trường THPT huyện Cần Đước, tỉnh Long An. 7.2.2.3 Phương pháp chuyên gia Chúng tôi xin ý kiến của một số nhà QLGD có kinh nghiệm, lãnh đạo và chuyên viên, nhằm hiểu rõ thực trạng và có một số đề xuất hợp lí. 7.2.2.4 Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động Qua nghiên cứu các sản phẩm của HĐGD cũng như kết quả học tập của HS sẽ có cơ sở đề ra những giải pháp quản lí dạy học tốt hơn. 7.2.3 Phương pháp toán thống kê Sau khi thu thập các phiếu thăm dò ý kiến, dựa vào kết quả điều tra, tác giả sử dụng phần mềm SPSS for Windows để xử lí số liệu, tính tần số xuất hiện và tỉ lệ phần trăm các nội dung trong phiếu hỏi nhằm đánh giá thực trạng và định hướng nâng cao hiệu quả công tác quản lí HĐGD trong các trường THPT huyện Cần Đước. Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề 1.1.1 Thế giới Ngay từ thời cổ đại, vấn đề dạy học đã được nhiều nhà triết học đồng thời là nhà giáo dục ở cả phương Đông và phương Tây đề cập đến. Có thể kể đến các tư tưởng và công trình chủ yếu dưới đây: Ở phương Tây, từ trước công nguyên, Xôcrat (469 - 339) đã quan niệm giáo dục phải giúp con người tìm thấy và tự khẳng định chính bản thân mình. Ông cho rằng để nâng cao hiệu quả dạy học cần có phương pháp giúp thế hệ trẻ từng bước tự khẳng định, tự phát hiện tri thức mới mẻ, phù hợp với chân lí. Platon (429 - 347 trước CN) xác nhận vai trò tất yếu của giáo dục trong xã hội, tính quyết định của chính trị đối với giáo dục. Ở Phương Đông, nhà giáo dục học vĩ đại người Trung Hoa – Khổng Tử (551479 TCN) rất coi trọng mặt suy nghĩ tích cực của người học, quan niệm PPDH là dùng cách gợi mở, đi từ gần đến xa, từ đơn giản đến phức tạp, nhưng vẫn đòi hỏi người học phải tích cực suy nghĩ, phải hình thành nề nếp, thói quen trong học tập. Ông nói: “Không giận vì muốn biết thì không gợi mở cho, không bực vì không rõ được thì không bày vẽ cho. Vật có bốn góc, bảo cho biết ba góc mà không suy nghĩ ra góc kia thì không dạy nữa” [39]. Đến cuối thế kỉ XVI, khi mà chủ nghĩa tư bản bắt đầu xuất hiện, vấn đề dạy học và quản lí dạy học đã được nhiều nhà giáo dục thực sự quan tâm, nổi bật nhất là Cômenxki (1952 - 1670). Ông đã đưa ra các nguyên tắc dạy học như: nguyên tắc trực quan, nguyên tắc nhất quán, nguyên tắc đảm bảo tính khoa học và tính hệ thống; đồng thời đã khẳng định hiệu quả dạy học có liên quan đến chất lượng người dạy thông qua việc vận dụng có hiệu quả các nguyên tắc dạy học. Trong hệ thống các nguyên tắc dạy học của Nhà giáo dục Tiệp Khắc này đã có những biện pháp dạy học nhằm làm cho HS phải tìm tòi, suy nghĩ để tự nắm được bản chất của sự vật hiện tượng. Nguyên tắc giáo dục của John Locke (1632-1704) là: “Không được nhồi nhét điều gì vào trí nhớ của trẻ mà vốn chúng không thích thú. Thầy giáo cần khơi dậy ở trẻ lòng ham mê say sưa của trẻ, qua đó hướng trẻ đến với tri thức. Phải phát triển khả năng độc lập suy nghĩ và chủ động trong học tập ở trẻ” [39]. J.J Ruxô (1712-1778) cũng cho rằng phải hướng HS tích cực tự giành kiến thức bằng cách tìm hiểu, khám phá và sáng tạo. Đó chính là những PPDH tích cực nhằm biến hoạt động của thầy thành hoạt động của trò và sau khi tích cực hoạt động thì trò nhận thức được các qui luật của tự nhiên. [39] Vào cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX, khoa học giáo dục thực sự có sự biến đổi về lượng và chất. Trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, các nhà nghiên cứu giáo dục đã đi sâu nghiên cứu về vai trò và trách nhiệm của đội ngũ CBQL trong việc quản lí HĐDH trong nhà trường. V.A.Xukhomlinxki, V.P. Xtrezicondin, Jaxapob đã nghiên cứu và đề ra một số vấn đề quản lí của HT ở trường phổ thông như vấn đề phân công nhiệm vụ giữa HT và PHT. Các tác giả đã thống nhất và khẳng định HT phải là người lãnh đạo toàn diện và chịu trách nhiệm trong công tác quản lí nhà trường. P.V. Zimin, M.I.Konđakôp, N.I.Saxerđôtôp đã đi sâu nghiên cứu công tác lãnh đạo HĐGD, giáo dục trong nhà trường và xem đây là khâu then chốt trong công tác quản lí của HT [33]. Đối với công tác xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ GV, các nhà nghiên cứu đều cho rằng trong những nhiệm vụ của HT thì nhiệm vụ hết sức quan trọng là xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ GV. HT phải biết lựa chọn đội ngũ GV bằng nhiều nguồn khác nhau và bồi dưỡng họ trở thành những GV tốt theo tiêu chuẩn nhất định bằng những biện pháp khác nhau. Đối với việc tổ chức dự giờ và phân tích sư phạm bài dạy của GV, tác giả V.A.Xukhomlinxki đã thừa nhận tầm quan trọng của biện pháp này và chỉ rõ thực trạng yếu kém của việc phân tích sư phạm bài dạy, cho dù hoạt động dự giờ và góp ý với GV sau giờ dự của HT diễn ra thường xuyên. Từ thực trạng đó, tác giả đã đưa ra nhiều cách phân tích sư phạm bài dạy của GV. 1.1.2 Việt Nam Trước hết phải nói đến quan điểm về giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 - 1969). Bằng việc kế thừa những tinh hoa của các tư tưởng giáo dục tiên tiến và vận dụng sáng tạo phương pháp luận của triết học Mác - Lênin, Người đã để lại cho chúng ta những nền tảng lí luận về vai trò giáo dục, định hướng phát triển giáo dục, mục đích dạy học, các nguyên lí dạy học, các phương thức dạy học, vai trò của quản lí và cán bộ QLGD, phương pháp lãnh đạo và quản lí. Hệ thống các tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục có giá trị cao trong quá trình phát triển lí luận dạy học, lí luận giáo dục của nền giáo dục cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở lí luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đã có nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục Việt Nam nghiên cứu về quản lí nhà trường. Thủ tướng Phạm Văn Đồng yêu cầu: “Ngành giáo dục và đào tạo phải vũ trang cho mình phương pháp giảng dạy, phát huy vai trò chủ động của người học, giải đáp tốt bốn câu hỏi: dạy ai, dạy cái gì, dạy như thế nào, dạy để làm gì ?” [13]. Vào những năm 1995 – 1996, trong ngành Giáo dục đã xuất hiện mệnh đề “Phương pháp giáo dục lấy người học làm trung tâm” và đã có nhiều công trình nghiên cứu về PPDH tích cực này như các tác phẩm: “Phương pháp giáo dục tích cực lấy người học làm trung tâm”, “Biến quá trình dạy học thành quá trình tự học” của tác giả Nguyễn Kỳ, “Học và dạy cách học” của các tác giả Nguyễn Cảnh Toàn (chủ biên), Nguyễn Kỳ, Lê Khánh Bằng, Vũ Văn Tảo; “Những vấn đề cơ bản Giáo dục học hiện đại” của tác giả Thái Duy Tuyên, “Bản chất của việc dạy học lấy học sinh làm trung tâm” của tác giả Trần Bá Hoành. Các tác giả Nguyễn Ngọc Quang, Hoàng Chúng, Hà Sĩ Hồ, Nguyễn Văn Lê, Hoàng Tâm Sơn, Nguyễn Văn Tường,… đi sâu vào những bình diện khác nhau của HĐDH nhưng tất cả đều hướng đến việc giải quyết mối quan hệ giữa GV và nhà quản lí, những nội dung quản lí HĐDH của người HT. Tác giả Nguyễn Ngọc Quang xác định: “Dạy học và giáo dục trong sự thống nhất là hoạt động trung tâm của nhà trường, quản lí nhà trường thực chất là quản lí quá trình lao động sư phạm của người thầy” [35]. Tác giả Hà Sĩ Hồ và Lê Tuấn khi nghiên cứu về mục tiêu, nội dung, biện pháp quản lí nhà trường cũng đã khẳng định: “Việc quản lí hoạt động dạy và học (hiểu theo nghĩa rộng) là nhiệm vụ quản lí trung tâm của nhà trường” và “Người hiệu trưởng phải luôn luôn kết hợp một cách hữu cơ quá trình dạy và học” [38]. Tác giả Hoàng Tâm Sơn thì quan tâm đến việc tổ chức các hoạt động khoa học cho GV để phát huy yếu tố nội lực của chính đội ngũ [39]. Tác giả Nguyễn Văn Lê tập trung nghiên cứu công tác bồi dưỡng đội ngũ GV về tư tưởng chính trị, về chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao năng lực giảng dạy cho họ [46]. Gần đây nhất, vào năm 2001, Viện Khoa học giáo dục Việt Nam đã cho xuất bản tuyển tập “Giáo dục học - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn” của cố giáo sư Hà Thế Ngữ (1929 - 1990). Trong công trình này, thông qua việc trình bày về đối tượng nghiên cứu và cấu trúc của khoa học QLGD, các khái niệm cơ bản của lí luận QLGD, những nguyên tắc QLGD và những qui luật giáo dục, tác giả đã giới thiệu nhiều tri thức về phương pháp luận nghiên cứu hiệu quả giáo dục và dạy học. Ngoài ra, qua nghiên cứu ở các bộ phận lưu trữ của trường Cán bộ QLGD thuộc Bộ GD&ĐT và Trường Đại học Sư phạm Tp Hồ Chí Minh, chúng tôi nhận thấy có một số tác giả đã chọn vấn đề nghiên cứu gần với đề tài chúng tôi nghiên cứu để làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành QLGD. Trong các đề tài này, các nhà nghiên cứu quan tâm đến việc bồi dưỡng nâng cao trình độ, nghiệp vụ quản lí cho đội ngũ CBQL các trường phổ thông, dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đưa ra các biện pháp chung nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy ở các trường. Đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo là mục tiêu phải đạt được của HĐDH và quản lí HĐDH. Trong nhà trường THPT, đây là công việc chiếm một thời gian lớn và khó khăn nhất của người HT. Thời gian vừa qua, nhiều nhà QLGD đã nghiên cứu về quản lí trường học, chủ yếu là công tác quản lí của HT ở trường THPT, để tìm ra các biện pháp quản lí đạt hiệu quả. Các nhà nghiên cứu đã quan tâm đến việc nâng cao trình độ nghiệp vụ quản lí của HT, CBQL và đưa ra các giải pháp chung nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy ở các trường THPT. Một số luận văn thạc sĩ quan tâm đến đề tài quản lí của HT nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở các trường THPT trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Lạt, Tiền Giang, Cà Mau,… Trong các công trình trên đây, các tác giả đã nêu lên vai trò của GV trong thời kì CNH-HĐH đất nước và đối với sự nghiệp phát triển GD&ĐT nói riêng. Hơn nữa một số tác giả trực tiếp đề cập tới nội dung quản lí đội ngũ GV. Tất cả các công trình đã công bố được tiếp cận dưới những góc độ khác nhau trên bình diện rộng. Trên bình diện hẹp, quản lí HĐDH ở huyện Cần Đước, tỉnh Long An chưa có tác giả nào đề cập tới. Vì vậy, đề tài chúng tôi tập trung nghiên cứu thực trạng quản lí HĐDH ở huyện Cần Đước, tỉnh Long An và từ đó đề xuất những giải pháp quản lí phù hợp mang tính khả thi để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường THPT. 1.2 Trường THPT trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam 1.2.1 Giáo dục THPT trong xu thế phát triển của thế giới hiện nay Sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật, của CNTT đã dẫn tới sự xuất hiện nhanh nhiều tri thức, kĩ năng và các lĩnh vực nghiên cứu mới; đồng thời những tri thức cũ, lỗi thời đang dần dần mất tác dụng. Trong thực tiễn hiện nay, nội dung dạy học đã đặt ra những yêu cầu cần đổi mới. Hiện nay các quốc gia trên thế giới vẫn không ngừng phát triển cho sự nghiệp giáo dục của mình. Họ không chỉ thay đổi chính sách, nội dung mà cả phương pháp giáo dục. Tại Scotland, Chánh thanh tra giáo dục Graham Donaldson nói: “Tất cả lớp trẻ của chúng ta cần hiểu biết sâu về khoa học và kĩ thuật nếu họ muốn cống hiến đầy đủ cho một Scotland hiện đại. Trường học của chúng ta tiếp tục đào tạo một số nhà khoa học trẻ, có khả năng. Tuy nhiên, quá nhiều em rời trường kiến thức ít ỏi về khoa học và không đủ để kiếm sống. Có nhiều việc cần làm để khiến lớp trẻ thích học khoa học và bảo đảm cập nhật hoá để phản ánh kịp thời những phát triển và khám phá mới nhất. Kiến thức và kĩ thuật của thầy cô giáo cũng cần thường xuyên đổi mới để mang lại hiệu quả trong việc dạy và học”. [28] Các nhà giáo dục Phần Lan có một triết lí khá đơn giản, càng mở rộng cánh cửa giáo dục để mọi người đều có cơ hội, càng phát hiện được nhiều tài năng hơn. Bộ trưởng Giáo dục Hatainen giải thích: “Giáo dục cũng giống như môn khúc côn cầu. Chúng tôi để cho cho tất cả các em được chơi, không chỉ những em xuất sắc. Trong cuộc chơi công bằng này (được hưởng một nền giáo dục ngang nhau), các em có cơ hội để bộc lộ khả năng và chúng tôi sẽ phát hiện được nhiều nhân tài.”; “Cơ sở của nền giáo dục Phần Lan là các em đều được học một cách công bằng. Cùng một trường với môi trường giống nhau còn giúp các em cảm thấy an toàn hơn.” [28] Một trong số những điều ấn tượng nhất trong giáo giục Thụy Điển là sự linh hoạt ở mức tối đa của chương trình học. Xét về mặt nào đó, đây thực sự là cách giảng dạy đầy tính nhân văn, tôn trọng HS. Thực tế, không phải trường học nào cũng đưa ra được chương trình học phù hợp với nhu cầu và sự quan tâm của mọi HS trong trường. Với những HS cảm thấy chương trình học có yêu cầu quá cao, nhà trường có thể sắp xếp để điều chỉnh hoặc giảm bớt các khoá học. Điều này cũng đồng nghĩa với việc giảm bớt thời gian học, thay thế các bài tập thực hành bắt buộc. Tuy nhiên, những HS giảm bớt môn học sẽ không được nhận bảng điểm đầy đủ nhưng vẫn có thể được các trường THPT chấp nhận vào học. Các nước châu Á đang có những động thái tích cực để tạo ra một môi trường giáo dục mới phù hợp và ưu việt hơn. Trước đây, khi nói về giáo dục ở châu Á, nhiều người thường cho rằng, HS ở đây luôn là những người siêng năng, cần cù và chăm chú trong giờ giảng, trong khi đó các HS phương Tây lại luôn tìm đến những trò nghịch ngợm hay gây lộn trong trường. chuẩn bị về phong cách và lực học của các học trò phương Đông từng là tiêu chí để các thầy giáo phương Tây hướng tới cho các học trò của mình. Tuy nhiên, với những chương trình giảng dạy được dựa trên những chuẩn mực cũ đã làm cho HS châu Á mất dần đi khả năng sáng tạo và trở nên thụ động. Ông Hiroshi Yoshimoto- một quan chức làm việc tại Ban cải cách Giáo dục Nhật Bản cho biết: “Có một cái gì đó rất sai lầm đang xảy ra trong các trường học của chúng ta. Tất cả chúng ta đều biết rằng, chúng ta cần phải cải cách những gì thuộc về ngày hôm qua”. Cho đến nay, nhiều nước châu Á đang tiến hành những cải cách quan trọng trong hệ thống giáo dục của mình. Ông LeeKe Woo- một quan chức chuyên trách về cải cách giáo dục ở Hàn Quốc – cho rằng: “Chúng ta nên dạy cho học sinh phương pháp thu nạp tri thức chứ không phải là những bài học thuộc lòng”.[28] Phương châm chiến lược phát triển giáo dục Trung Quốc đó là: Giáo dục hướng về hiện đại, Giáo dục hướng tới tương lai và Giáo dục hướng ra thế giới. Đây là tư tưởng xác lập vị trí chiến lược của giáo dục trong nỗ lực xây dựng đất nước phát triển, nhất là nhằm tăng cường hội nhập quốc tế. Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc chủ trương bồi dưỡng, giáo dục nhân tài theo ba hướng này. Hướng về hiện đại hoá tức là xây dựng mối quan hệ giữa GV với phát triển kinh tế, gắn giáo dục với việc thực hiện các nhiệm vụ chung của đất nước. Hướng ra thế giới là mối quan hệ giữa giáo dục và thế giới, vừa tuân theo những đặc trưng giáo dục Trung Quốc vừa chú ý đến xu thế phát triển của khoa học, kĩ thuật và giáo dục các nước khác trên thế giới nhằm có biện pháp, chính sách, chủ trương đúng đắn cho giáo dục. Hướng tới tương lai là xác định mối quan hệ giữa giáo dục và tương lai, nhấn mạnh nhiệm vụ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá. Mục tiêu của cải cách giáo dục THPT Trung Quốc là làm cho HS nắm được kiến thức phổ thông cơ bản, có lòng yêu nước và quí trọng văn hoá dân tộc, tinh thần trách nhiệm với xã hội, có tinh thần nhân văn, có tâm hồn và thể chất khỏe mạnh. Đặc biệt chú trọng việc đào tạo đội ngũ chuyên gia tài năng, đáp ứng các nhu cầu phong phú của xã hội; đồng thời quan tâm thỏa mãn nhu cầu phát triển từng cá nhân. Sự phát triển kinh tế xã hội của Trung Quốc hiện nay đã đến giai đoạn phải chuyển hướng đòi hỏi đối với giáo dục, từ chỗ trước đây đặt trọng tâm chú ý nhiều đến giáo dục nền tảng, đại chúng thì nay phải chuyển trọng tâm chú ý sang GD&ĐT đội ngũ nhân tài đặc biệt cho mọi lĩnh vực đời sống, kinh tế, xã hội của đất nước. Đồng thời sự bùng nổ của CNTT nói riêng và khoa học công nghệ nói chung đang tác động mạnh mẽ vào sự phát triển của tất cả các ngành trong đời sống xã hội. Để việc dạy học theo kịp cuộc sống, giáo dục THPT nhất thiết phải cải cách PPDH theo hướng vận dụng CNTT và các thiết bị dạy học hiện đại phát huy mạnh mẽ tư duy sáng tạo, kĩ năng thực hành và hứng thú học tập của HS để nâng cao chất lượng đào tạo. Yêu cầu đối với GV phải biết soạn giáo án điện tử và trình diễn giờ dạy theo phương pháp hiện đại. Trước những yêu cầu của xã hội về sự nghiệp giáo dục, nhất là trong giai đoạn hiện nay, cả nước đang đổi mới chương trình giáo dục phổ thông và phân ban đại trà vào năm học 2006-2007 đòi hỏi ngành giáo dục phải có được đội ngũ CBQL trẻ, năng lực giỏi đáp ứng tốt công tác quản lí trường học. 1.2.2 Vị trí, nhiệm vụ và mục tiêu đào tạo của trường THPT Việt Nam Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục THPT được xem là nền tảng và có ý nghĩa quan trọng đối với nguồn nhân lực của đất nước; bởi lẽ giáo dục THPT là nhằm giúp HS củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kĩ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động. Để giáo dục THPT thực sự có chất lượng và chất lượng cao phải đảm bảo đồng bộ về các điều kiện như chương trình giáo khoa, CSVC; đồng thời phải kể đến vai trò nòng cốt của đội ngũ GV và CBQL trường học. Điều lệ trường THPT qui định “Trường trung học là cơ sở giáo dục ở bậc trung học, nối tiếp bậc THCS của hệ thống giáo dục quốc dân nhằm hoàn chỉnh học vấn trung học; trường THPT có tư cách pháp nhân và có con dấu riêng”. Giáo dục THPT nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân “được thực hiện trong ba năm học, từ lớp mười đến lớp mười hai. HS vào học lớp mười phải có bằng tốt nghiệp THCS, có tuổi là mười lăm tuổi”. Luật giáo dục đã qui định rõ mục tiêu của giáo dục THPT là “Nhằm giúp học sinh cũng cố và phát triển những kết quả của giáo dục THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kĩ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề, đi sâu vào cuộc sống lao động”.[2] THPT là bậc học cuối cùng của giáo dục phổ thông, là giai đoạn hết sức quan trọng mà HS cần phải tích luỹ đầy đủ kiến thức phổ thông và giá trị về nhân cách để chuẩn bị cho một bậc học mới hoặc bước vào cuộc sống lao động. “Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kĩ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động” (Điều 23, mục 2, chương II của Luật Giáo dục). Học xong THPT, HS cần đạt được yêu cầu chủ yếu sau:  Hình thành và củng cố các giá trị về tư tưởng, đạo đức, lối sống phù hợp với mục tiêu chung của giáo dục phổ thông, mục tiêu giáo dục của cấp học và thích hợp với trình độ, lứa tuổi HS THPT. Đó là tình yêu gia đình, quê hương, đất nước, tinh thần tự tôn dân tộc; ý thức giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá, truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, sẵn sàng bảo vệ tổ quốc; có chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo hèn; có lòng nhân ái, ứng xử hợp đạo lí, có văn hoá trong quan hệ gia đình, bạn bè, xã hội; sống lành mạnh, tự tin, giản dị, tiết kiệm; hiểu biết, tôn trọng và chấp hành pháp luật; quan tâm đến những vấn đề cấp bách của đất nước, của toàn cầu.  Củng cố, phát triển những nội dung đã học ở trung học cơ sở, gồm những kiến thức cơ bản về tiếng Việt, toán, lịch sử dân tộc; kiến thức khác về khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, pháp luật, tin học, ngoại ngữ; có những hiểu biết cần thiết về kĩ thuật và hướng nghiệp, đảm bảo hoàn thành nội dung học vấn phổ thông về tự nhiên, xã hội và con người, gắn với cuộc sống cộng đồng và thực tiễn địa phương.  Được tiếp tục phát triển và nâng cao các kĩ năng học tập chung và kĩ năng học tập bộ môn, đặc biệt là kĩ năng vận dụng kiến thức vào các tình huống học tập mới, vào thực tiễn sản xuất và đời sống; được củng cố thói quen và phương pháp tự học, năng lực thu thập, xử lí và truyền đạt thông tin, khả năng phát hiện và giải quyết vấn đề, độc lập suy nghĩ, sáng tạo trong tư duy và hành động; có khả năng sử dụng một ngoại ngữ trong giao tiếp thông thường và khả năng ứng dụng một số thành tựu của CNTT ở trình độ phổ thông trong giải quyết công việc; có hiểu biết và kĩ năng cần thiết về kĩ thuật tổng hợp và hướng nghiệp để có thể vận dụng trong cuộc sống lao động, trong việc lựa chọn hướng phát triển phù hợp với năng lực của bản thân.  Hiểu biết và có thói quen rèn luyện thân thể thường xuyên, đạt tiêu chuẩn rèn luyện theo lứa tuổi; giữ gìn vệ sinh cá nhân và môi trường; sử dụng thời gian hợp lí, biết cách làm việc và nghỉ ngơi khoa học.  Hiểu biết và có khả năng cảm thụ, đánh giá cái đẹp trong cuộc sống và văn học, nghệ thuật, có nhu cầu sáng tạo cái đẹp; sống hoà hợp với thiên nhiên và xã hội. Điều lệ trường Trung học qui định nhiệm vụ và quyền hạn của trường THPT như sau: - Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo chương trình do Bộ GD&ĐT ban hành. - Tiếp nhận HS, vận động HS bỏ học đến trường, thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục THPT trong phạm vi cộng đồng theo qui định của Nhà nước. - Quản lí GV, nhân viên và HS; Quản lí, sử dụng đất đai, trường sở, trang thiết bị và tài chính theo qui định của pháp luật. - Phối hợp với gia đình HS, tổ chức, cá nhân trong cộng đồng thực hiện các hoạt động giáo dục. - Tổ chức cho GV, nhân viên và HS tham gia các hoạt động xã hội trong phạm vi cộng đồng. - Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo qui định của pháp luật. * Nhiệm vụ của người HT trường THPT: - Tổ chức bộ máy nhà trường. - Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện nhiệm vụ năm học; - Quản lí GV, nhân viên, HS; quản lí chuyên môn; phân công công tác; kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của GV, nhân viên; - Quản lí và tổ chức giáo dục HS; - Quản lí hành chính, tài chính, tài sản nhà trường; - Thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước đối với GV, nhân viên, học sinh; tổ chức thực hiện qui chế dân chủ trong hoạt động của nhà trường; - Được theo học các lớp chuyên môn, nghiệp vụ và các chế độ hiện hành; * Nhiệm vụ của người PHT trường THPT: - PHT là người giúp việc cho HT, là người được tín nhiệm về chính trị, đạo đức, chuyên môn, có năng lực quản lí trường học và có sức khoẻ. - PHT có những nhiệm vụ, quyền hạn cơ bản theo qui định của Điều lệ trường Trung học: - Thực hiện và chịu trách nhiệm trước HT về những việc được phân công. - Cùng với HT chịu trách nhiệm trước cấp trên về các hoạt động có liên quan của nhà trường. - Thay mặt HT điều hành hoạt động của nhà trường khi được ủy quyền. - Được dự các lớp bồi dưỡng về chính trị, chuyên môn và nghiệp vụ quản lí trường học, được hưởng các quyền lợi khác theo qui định. Đội ngũ CBQL trường THPT là HT và các PHT đang làm nhiệm vụ quản lí hoạt động dạy và học tại các trường THPT, xây dựng đội ngũ CBQL trường THPT là làm cho đội ngũ này mạnh về chất, đủ về lượng, đồng bộ về cơ cấu nhằm phát huy có hiệu quả công tác quản lí trường học trong từng giai đoạn phát triển của xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài” mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. 1.3 Lí luận về hoạt động dạy học 1.3.1 Khái niệm về hoạt động dạy học 1.3.1.1 Hoạt động dạy “Dạy là sự truyền lại của thế hệ trước cho thế hệ sau những kinh nghiệm mà xã hội đã sáng tạo và tích lũy được qua các thế hệ”. “Hoạt động dạy là sự truyền thụ những tri thức khoa học, những kĩ năng và phương pháp hành động” [31]. Mục đích của hoạt động dạy là giúp người học lĩnh hội nền văn hoá xã hội, phát triển tâm lí, hình thành nhân cách. Bản thân người học không thể biến năng lực của loài người thành năng lực của bản thân và nhất thiết người học ở những mức độ khác nhau phải dựa vào sự giúp đỡ của người dạy. Như vậy, người học lĩnh hội nền văn hoá xã hội một cách gián tiếp thông qua người dạy. Sự giúp đỡ của người dạy để người học lĩnh hội nền văn hoá xã hội, thúc đẩy sự phát triển tâm lí, tạo ra những cơ sở trọng yếu để hình thành nhân cách của người học là mục đích của dạy học. Hoạt động dạy được hiểu là quá trình người GV truyền thụ tri thức, kinh nghiệm cho người học, là hoạt động tổ chức điều khiển của GV đối với hoạt động nhận thức của HS nhằm hình thành trong mỗi HS tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, thái độ, hành vi. Đồng thời, hoạt động dạy của GV còn giữ vai trò tổ chức, lãnh đạo, điều khiển quá trình dạy học, mọi HĐGD, tổ chức, điều khiển của GV đều nhằm mục đích duy nhất là thúc đẩy sự nhận thức của người học. Vì vậy, người GV phải nắm vững kiến thức một cách khoa học và hệ thống, phải am hiểu và tinh thông kiến thức thực tiễn cùng với việc sử dụng phương pháp giảng dạy hợp lí, khoa học. Cùng với hoạt động học tập, hoạt động dạy là hoạt động trung tâm và đặc trưng nhất ở trường phổ thông. Hoạt động dạy được tiến hành với mục đích tổ chức - điều khiển nhằm tối ưu hoá hoạt động học, giúp người học chiếm lĩnh tri thức khoa học và qua đó hình thành nhân cách. Từ cách hiểu đó, hoạt động dạy có những nhiệm vụ cơ bản sau:  Giúp HS nắm vững tri thức khoa học một cách có hệ thống, cơ bản, có những kĩ năng, kĩ xảo cần thiết trong học tập, trong lao động và trong cuộc sống.  Phát triển trí tuệ của HS, trước hết là phát triển tư duy độc lập, sáng tạo, hình thành năng lực nhận thức và hành động. Dạy học phải đi trước sự phát triển. Dạy học đồng thời là dạy cách tự học, tự hoàn thiện nhân cách.  Dạy kiến thức văn hoá phải đi đôi với việc hình thành thế giới quan khoa học, lòng yêu nước, chí tự cường, sống lành mạnh, giàu lòng nhân ái, có trách nhiệm, biết hợp tác và thích nghi.  Phương pháp của hoạt động dạy bao gồm những cách thức tổ chức, tác động sư phạm và những công cụ, thiết bị, máy móc hỗ trợ.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất