TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG - HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
THU HOẠCH THỰC TẬP
ĐỀ TÀI:
THỊ TRƢỜNG CÀ PHÊ THẾ GIỚI VÀ CÁC GIẢI PHÁP
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH XUẤT
KHẨU CÀ PHÊ TẠI CÔNG TY SẢN XUẤT VÀ XUẤT
KHẨU PROSIMEX.
Giáo viên hướng dẫn: Thạc sỹ Vũ Sỹ
Tuấn
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Lan Hương
Lớp: TC 18 A2
Hà nội, năm 2003
Trang 1
LỜI MỞ ĐẦU
Từ nhiều năm nay cà phê đã trở thành một nhu cầu thiết yếu đối với cuôc
sống con người. Cà phê có giá trị kinh tế cao và là một trong những sản phẩm
nông nghiệp mang ngoại tệ lớn cho nhiều nước, theo một số nghiên cứu cho thấy
cà phê chứa một số vitamin nhóm B, đặc biệt là axit nicotenic, vitamin pp và một
số chất khác trong hạt cà phê có tới 670 hợp chất thơm, tại hương vị đặc trưng
tuyệt vời, khiến cho việc uống cà phê trở thành thói quen và tập quán của phần lớn
dân số trên thế giới đặc biệt là các nước phát triển.
Về công dụng cà phê không chỉ là một loại đồ uống mà còn là nguyên liệu
cho một số ngành công nghiệp phát triển như: bánh kẹo, sữa, dược phẩm vv... nhu
cầu về sản phẩm này trên thị trường thế giới ngày càng tăng cả về số lượng và chất
lượng đòi hỏi những người sản xuất và các nhà xuất khẩu phải đáp ứng kịp thời và
linh hoạt cho các nhu cầu khác nhau của từng khu vực thị trường cụ thể.
Trước yêu cầu từ phía thị trường ngành cà phê Việt Nam, thực hiện đường
lối của đảng và nhà nước ta, đã biến cây cà phê từ một mặt hàng nông sản xuất
khẩu chủ lực chỉ đứng sau cây lúa. Sản phẩm cà phê Việt Nam đã được biết đến
trên thị trường thế giới và nước ta đã trở thành một trong những nước trồng và xuất
khẩu nhiều và phê. Tuy nhiên, tiềm năng vẫn chưa được khai thác hiệu quả và xuất
khẩu cà phê vẫn còn nhiều bất cập.
Công ty sản xuất kinh doanh xuất khẩu tên giao dịch là PROSIMEX doanh
nghiệp nhà nước thuộc bộ thương mại ra đời năm 1989 với chức năng xuât khẩu
Trang 2
các mặt hàng trong đó có mặt hàng cà phê cũng gặp phải nhiều vấn đề cần phải tìm
kiếm giải pháp để tháo gỡ.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình công ty vừa phải
hạch toán độc lập sao cho vừa có lãi, vừa đáp ứng được mục tiêu là đẩy mạnh sản
xuất và xuất khẩu các mặt hàng nông nghiệp, lâm nghiệp và thủ công nghiệp, do
đó yêu cầu cần thiết của công ty là phải nghiên cứu nhằm khắc phục những khó
khăn đang gặp phải nhất là khâu tổ chức và thực hiện quy trình xuất khẩu để hoạt
động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty có hiệu quả hơn. Đây cũng
là lý do để em chọn đề tài “thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quy
trình sản xuất và xuất khẩu tại công ty sản xuất và xuất khẩu PROSIMEX”.
Đề tài này tập trung phân tích thực trạng quy trình sản xuất và xuât khẩu cà
phê của công ty, những khó khăn mà công ty gặp phải trong quá trình thực hiện
quy trình xuất khẩu của mình để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm góp phần làm
nâng cao hiệu lực quy trình xuất khẩu nói riêng và hoạt động sản xuất kinh doanh
của công ty nói chung.
Đề tài này ngoài phần mở đầu kết luận nội dung được chia làm 3 chương:
Chương 1: Tình hình thị trường cà phê thế giới thời gian qua.
Chương 2: Tình hình kinh doanh cà phê xuất khẩu tại công ty PROSIMEX.
Chương 3: Một số nhận định về kinh doanh cà phê xuất khẩu của Công ty
PROSIMEX và những giải pháp đề xuất.
CHƢƠNG 1
TÌNH HÌNH THỊ TRƢỜNG CÀ PHÊ THẾ GIỚI THỜI GIAN QUA
I. TÌNH HÌNH THỊ TRƢỜNG CÀ PHÊ THẾ GIỚI THỜI GIAN QUA.
1.Vài nét về sản phẩm cà phê và các loại cà phê trên thị trƣờng thế giới.
Trang 3
1.1 Các loại cà phê.
Cách đây hàng nghìn năm, cây cà phê đã được người dân du mục Ethiopi
ngẫu nhiên tìm thấy ở làng Cápfa, gần thủ đô Ethiopi. Đến thế kỷ thứ 6, cây cà phê
lan dần sang các nước và châu lục khác. Nhưng không phải ngay từ đầu cà phê đã
được thừa nhận là hấp dẫn và hữu ích mặc dù cho đến ngày nay không ai còn phủ
nhận công dụng và sự nổi tiếng của loại đồ uống này. Cà phê giúp con người tỉnh
táo và minh mẫn hơn trong mọi hoạt động và được coi như một món tráng miệng,
một bữa ăn phụ của nhiều nước trên thế giới .
Cà phê có rất nhiều loại khác nhau. Theo thống kê, trên thế giới hiện nay có
khoảng 70 loại cà phê đang được trồng và xuất khẩu. Trong đó phổ biến nhất về
diện tích trồng cũng như vai trò quan trọng trên thị trường cà phê thế giới là 2 loại
cà phê :
-
Cà phê chè ( chủng Arabica )
-
Cà phê vối ( chủng Robusta )
Cả hai loại cà phê này, cũng như tất cả các loại cà phê khác, đều thuộc
giống Coffea nhưng về chất lượng và hương vị thì cà phê Arabica trội hơn cà phê
Robusta. Do đó cà phê Arabica cũng thường cao hơn khá nhiều và được nhiều nơi
ưa chuộng.
Vì yêu cầu sinh thái khác nhau 2 loại cà phê này được trồng tập chung ở
những khu vực khác nhau trên thế giới. Cà phê Arabica được trồng chủ yếu ở Châu
Mỹ, đặc biệt tại hai nước là Brazin và Colombia. Hai nước này hiện tại sản xuất
tới 80% sản lượng Arabica của thế giới, đồng thời cũng là hai nước sản xuất và
xuất khẩu cà phê nhiều nhất, thống trị thị trường cà phê thế giới trong đó riêng
Brazin đã chiếm tới khoảng 30% sản lượng cà phê toàn thế giới.
Cà phê Robusta là giống cà phê ngon thứ hai sau cà phê Arabica. Loại cà
phê này thường được tiêu dùng ở các nước có truyền thống uống cà phê chế biến
từ cà phê Robusta, ví dụ như Anh và các nước Nam Âu. Cây cà phê loại này được
trồng chủ yếu ở Châu Phi và Châu á. Hiện tại cà phê Robusta của Châu Phi không
tăng và có chiều hướng giảm sút. Lý do ở đây là bất ổn về chính trị, sự thay đổi
Trang 4
điều kiện tự nhiên, cũng như sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Đây là những nguyên
nhân rất khó khắc phục trong thời gian ngắn. Do vậy trong thời gian tới đây trên đà
tăng trưởng về sản lượng, vai trò cung cấp của các nước Châu á-Thái Bình Dương
sẽ còn tiếp tục tăng lên với loại cà phê này.
1.2 Sản phẩm cà phê.
Các sản phẩm của cà phê rất đa dạng, sản phẩm ban đầu của cây cà phê là
cà phê quả tươi. Cà phê quả tươi qua quá trình sơ chế sẽ cho ta cà phê nhân từ cà
phê nhân. Từ cà phê nhân qua quá trình chế biến công nghiệp sẽ cho ta các sản
phẩm tinh chế là cà phê hoà tan, cà phê bột, cà phê sữa, vv... Các sản phẩm tinh
chế này được đem ra thị trường bán cho người tiêu dùng, là nhũng người mua cuối
cùng. Trong hoạt động thương mại trên thị trường thế giới, các nước chủ yếu xuất
khẩu cà phê dưới dạng cà phê nhân hay còn được gọi là cà phê nguyên liệu. Ở
dạng này người xuất khẩu có thể dễ dàng hơn khi bảo quản sản phẩm trong quá
trình vận chuyển đến tay người nhập khẩu ở nước ngoài. Đồng thời tạo điều kiện
tổ chức chế biến ở các nước tiêu thụ cho ra các sản phẩm phù hợp với thị hiếu tiêu
dùng tại chỗ.
Hiện nay ở Việt Nam do điều kiện công nghệ chế biến còn lạc hậu nên hầu
hết cà phê xuất khẩu đều là cà phê nhân mới qua sơ chế. Ngoài ra có một số ít là cà
phê hoà tan nhưng chưa cạnh tranh được với hàng ngoại cả dạng nguyên chất lẫn
tổng hợp.
2. Tình hình sản xuất cà phê trên thế giới .
Theo số liệu của tổ chức cà phê quốc tế ( ICO) hiện nay có khoảng 20 đến
30 nước sản xuất cà phê tập chung chủ yếu vào các khu vực là :
-
Bắc và Trung Mỹ.
-
Nam Mỹ.
-
Châu Phi.
-
Châu Á - Thái Bình Dương.
Trang 5
Phân bổ sản lượng cà phê thế giới theo các khu vực này có thể được tóm tắt
như sau: Châu Mỹ sản xuất ra 60 - 70 % sản lượng cà phê thế giới, tức là khoảng
gần 4 triệu tấn cà phê nhân. Châu Phi sản xuất ra 20 - 22% khoảng hơn 1 triệu tấn.
Châu á hàng năm sản xuất khoảng 70 ngàn tấn cà phê chiếm 12% sản lượng toàn
thế giới, sản lượng cà phê hàng năm biến động thất thường nhưng theo chiều
hướng ngày càng tăng. Thập kỷ 70 sản lượng trung bình đạt 4,5 triệu tấn trên một
năm; thập kỷ 80 tăng nên 5,5 triệu tấn trong một năm ; Sang thập kỷ 90 con số đã
là 6 triệu tấn một năm.
Biểu đồ dưới đây sẽ cho chúng ta thấy tình hình sản xuất cà phê trên thế
giới theo hai loại cà phê chủ yếu Arabica và Robusta trong những vụ vừa qua như
sau:
BiÓu ®å 1: S¶n l-îng cµ phª thÕ giíi
500
400
300
200
100
0
89/90
90/91
91/92
92/93
93/94
Arabica
94/95
95/96
96/97
97/98
Robusta
Sự cách biệt về sản lượng giữa hai loại cà phê vẫn theo xu hướng ngày càng
tăng. Tuy chưa có đột biến nào qua các vụ, nhưng theo dự báo của tổ chức cà phê
quốc tế sản lượng Arabica vụ 98/99 sẽ tăng hơn 16% lên 4,2 triệu tấn. Sản lượng
Robusta cũng sẽ tăng nhưng chậm hơn. Điều này hoàn toàn phù hợp với yêu cầu từ
phía thị trường về chất lượng. Cũng theo tổ chức cà phê quốc tế thì sản lượng cà
Trang 6
phê thế giới vụ 98/99 sẽ lên tới 6,3 triệu tấn so với 5,5 triệu tấn vụ 97/98. Sản
lượng của các nước sản xuất lớn đều tăng. Nhưng những dự báo và ước tính này
còn có thể thay đổi do tình hình thời tiết có thể xấu đi .
3. Tình hình tiêu thụ và xuất khẩu cà phê thế giới :
3.1 Tiêu thụ.
Nhu cầu tiêu thụ cà phê rất lớn. Hàng năm, lượng tiêu thụ trên thế giới ước
tính vào khoảng 94,5 triệu bao cà phê nhân (khoảng 5,6 triệu tấn). Có thể chia các
nước tiêu dùng cà phê thành bốn nhóm chính theo khu vực địa lý như sau :
-
Nhóm các nước Tây Bắc Âu và Nam Âu .
-
Nhóm các nước Bắc Mỹ: Trong đó thị trường Mỹ là lớn nhất với nhu cầu
hàng năm khoảng 4 kg/người/năm:
-
Nhóm các nước Châu Á - Thái Bình Dương: Trong đó hai thị trường tiêu
biểu là Hàn Quốc và Nhật Bản .
-
Nhóm các nước Đông Âu và Nga: Đây là những thị trường mới nổi rất tiềm
năng với sản phẩm cà phê.
Trong những năm qua, mức tăng trưởng nhu cầu bình quân của các thị
trường này khá ổn định ở mức 2% năm. Thị trường Châu Âu và Bắc Mỹ có xu
hướng bão hoà, trong khi các thị trường chính trị tại Châu Á - Thái Bình Dương,
như Nhật Bản và Hàn Quốc, bị ảnh hưởng bởi cơn bão tài chính tiền tệ năm 1997
nên nhu cầu giảm và có khả năng chuyển một phần sang tiêu dùng những loại đồ
uống khác chất lượng thấp hơn. Để giải quyết các vấn đề này người ta đang hướng
sự quan tâm hơn nữa vào các thị trường tương lai như: Nga, Đông Âu, Trung
Quốc. Các thị trường này có dân số đông, thu nhập tăng nhanh và hiện tại chưa
tiêu dùng nhiều loại đồ uống này.
3.2 Xuất khẩu :
Trong số hơn 80 thành viên của tổ chức cà phê quốc tế (ICO), có tới hơn 40
nước xuất khẩu cà phê. Các nước này có thể vừa trồng vừa xuất khẩu hoặc chỉ kinh
Trang 7
doanh cà phê xuất khẩu. Tuy nhiên các nước sản xuất cà phê lớn trên thế giới đều
là những nước vừa sản xuất vừa xuất khẩu. Điển hình là các nước như: Brazin,
Colombia, Việt Nam, Uganda, Bờ Biển Nga, Ethiopia, ấn Độ, vv.. Trong đó
Brazin và Colombia là các nước sản xuất và xuất khẩu cà phê Arabica chủ yếu trên
thế giới; các nước còn lại của Châu Á và Châu Phi là các nước xuất khẩu cà phê
Robusta lớn của thế giới .
Trên thực tế, lượng xuất khẩu cà phê hàng năm của các nước chính là cung
trên thị trường cà phê thế giới. Lượng cung này phụ thuộc rất nhiều yếu tố trong đó
sản lượng chỉ là một. Ngoài sản lượng, lượng cung cà phê trên thị trường thế giới
hàng năm còn phụ thuộc vào tình hình kinh tế của các nước, chính sách của hiệp
hội các nước sản xuất cà phê (ACPC) và tổ chức cà phê quốc tế (ICO) cũng như
biến động nhu cầu giá cả, dự trữ và yếu tố đầu cơ. Trung bình từ vụ 89/90 đến nay,
mỗi vụ, sản lượng xuất khẩu vào khoảng 4,3 đến 4,9 triệu tấn cà phê nhân. Theo
dự báo của ICO thì xuất khẩu cà phê thế giới sẽ tiếp tục biến động xung quanh
mức hiện tại, không có đột biến nào đáng kể.
4. Giá cả :
Giá cà phê phụ thuộc rất nhiều vào tình hình cung cầu cà phê trên thị trường
thế giới. Thông thường, để xác lập giá xuất khẩu những người xuất khẩu cà phê
thường lấy giá ở những sở giao dịch hàng hoá lớn như ở London, New york,
Rotterdam, Asterdam làm chuẩn để xây dựng giá của mình. Giá tại các thị trường
này thường phản ánh tương đối chính xác các biến động cung cầu trong từng thời
điểm xong nó lại mang nặng yếu tố tâm lý nên luôn biến động thất thường.
Trang 8
BiÓu ®å 2: Gi¸ cµ phª thÕ giíi
500000
400000
300000
200000
100000
0
1992
1993
1994
1995
Robusta
1996
1997
1998
-íc 1999
Arabica
Nhìn chung giá cà phê thập kỷ 90 có xu hướng giảm so với thập kỷ 80 và
bến động phức tạp vì nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân cơ bản là cung tăng nhanh
hơn cầu. Và thị trường cà phê trở thành tự do không có một cơ chế chặt chẽ quản
lý sau khi hệ thống hạn ngạch của ICO bị huỷ bỏ. Các nước có khả năng về xuất
khẩu cà phê có dịp xuất khẩu ồ ạt ra thị trường làm cho cung tăng nhanh khi nhu
cầu tiêu thụ lại ổn định theo xu hướng giảm. Khủng hoảng tài chính tiền tệ diễn ra
ở Châu á từ khoảng tháng 7 năm 1997 đến cuối năm 1998 cũng là một nguyên
nhân khác, tuy không thuyết phục bằng. Cuộc khủng hoảng này làm giảm thu nhập
có thể sử dụng của người dân ở thị trường các nước Châu Á: làm thu hẹp diện có
việc làm ở Châu Âu và tạo ngòi nổ cho sự mất giá đồng tiền ở Brazin (Châu Mỹ)
dẫn đến giảm thu nhập có thể sử dụng của người dân do đó gián tiếp gây giảm nhu
cầu về những đồ uống đắt tiền trong đó có cà phê .
Nếu so sánh mặt bằng giá cà phê năm 1985-1986 thì giá cà phê năm 19901991 chỉ bằng 40 đến 42%. Giá cà phê còn thấp và giảm hơn vào năm 1992-1993,
nhất là từ quý II năm 1992 đến quý III năm 1993. Sau đó lên dần. Năm 1997 giá cà
phê phục hồi và tăng nhanh như biểu đồ đã chỉ ra : nhưng cuối năm 1997 đầu 1998
giá cà phê giảm liên tục; cuối năm 1998 đầu 1999 thì tình hình xấu đi và diễn biến
Trang 9
phức tạp làm cho các nhà xuất khẩu không dám xuất hoặc chỉ xuất cầm chừng.
Hiện tại giá cà phê xuất khẩu vần là một vấn đề chưa khắc phục được do chưa có
một cơ chế hiệu quả quản lý nguồn cung cà phê trên thị trường thế giới.
SƠ ĐỒ BỘ MÁY QUẢN LÍ CỦA CÔNG TY
GIÁM ĐỐC
Trang 10
Phó giám đốc sản xuất
Phòng
nghiệp
vụ tổng
hợp
Phòng
tài chính
kế toán
Phòng
XNK 2
Phòng
XNK 1
Xí
nghiệp
may xuất
khẩu
Phòng
XNK 3
Phó giám đốc
Chi
nhánh
TP HCM
Phòng
XNK 4
Đảng,
đoàn
thể
Phòng
tổ chức
hành
chính
Phòng
XNK 5
Chi
nhánh
Hải
Phòng
Trang 11
II.TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU CÀ PHÊ CỦA VIỆT NAM
1.Vị trí của cây cà phê ở Việt Nam.
Trong nhiều năm gần đây, cà phê là một mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu
quan trọng của Việt Nam có kim ngạch hàng năm từ 400 đến 600 triệu Đôla Mỹ,
chỉ đứng sau gạo. Không chỉ đem về nhiều ngoại tệ cho đất nước, cây cà phê đang
ngày càng giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế của nước ta. Cụ thể là: sản xuất
chế biến và xuất khẩu cà phê thu hút được nhiều lao động đặc biệt là lao động trẻ
chưa có việc làm. Tính đến năm 1995 đã có 150 đến 200 nghìn người lao động
tham gia trong lĩnh vực sản xuất cà phê .
- Cây cà phê có thể trồng thay thế cây thuốc phiện ở những khu vực trước
kia trồng cây thuốc phiện như khu vực các tỉnh miền núi phía bắc .
- Sản xuất và xuất khẩu cà phê làm cho quan hệ kinh tế thương mại giữa
Việt Nam và các nước được củng cố và phát triển .
Hiện nay cà phê Việt Nam đã xuất hiện trên khắp các châu lục từ Bắc Mỹ,
Tây Âu, Đông Âu đến Úc, Nam Á, Bắc Á.vv.. Chất lượng cà phê ở Việt Nam cũng
được thị trường quốc tế thừa nhận và ưa chuộng. Đảng và nhà nước ta luôn coi cà
phê là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nông nghiệp nói riêng và
của nước ta nói chung lên đã dành cho cây cà phê sự quan tâm đặc biệt. Từ sau
giải phóng, diện tích cà phê liên tục tăng từ vài chục nghìn hecta nay đã lên tới gần
300 nghìn hecta cho năng suất cao tạo chỗ vững chắc cho xuất khẩu cà phê tăng
trưởng. Tiềm năng của cây cà phê Việt Nam rất lớn và phần lớn còn đang chờ sự
khai thác có hiệu quả cao, do vậy trong thời gian tới nghành cà phê cần có những
giải pháp cụ thể để phát huy tối đa tiềm năng này.
Trang 12
2. Sản xuất :
Cây cà phê đã được đưa vào Việt Nam từ rất lâu và được trồng đại trà từ
năm 1888. Do điều kiện khí hậu và đất đai thích hợp nên cây được phát triển trên
quy mô rộng và cho hạt chất lượng tốt không kém sản phẩm của những nước sản
xuất và xuất khẩu cà phê lớn trên thị trường. Tuy nhiên phải đến sau giải phóng
ngành cà phê Việt Nam mới đi vào thời kỳ phát triển, sản lượng sản xuất ra chủ
yếu để xuất khẩu. Theo số liệu của tổng cục thống kê và nghành cà phê thì sản
xuất cà phê của ta mỗi năm một tăng:
Bảng 1: Diện tích và sản lượng cà phê Việt Nam qua các giai đoạn:
Niên vụ
Diện tích
Sản lƣợng sản xuất
1991 - 1992
135.000
101.000
1995 - 1996
225.000
245.270
1997 - 1998
295.000
410.530
(Nguồn: Tạp chí thương mại số tháng 8/1998.)
Năng suất cà phê bình quân cả nước cũng tăng liên tục. Nếu năm 1990 đạt
1000 kg nhân /ha thì năm 1994 là 1300, năm 1997 là 1500. Cho đến năm 1995,
Việt Nam đã đứng thứ 7 trong số các nước sản xuất cà phê nhiều nhất trên thế giới
và đứng thứ hai trên thế giới về sản xuất cà phê Robusta .
Cũng trong những năm qua, cà phê không chỉ được mở rộng diện tích ở Tây
Nguyên, Đông Nam Bộ vv.. là những vùng chủ yếu trồng cà phê Robusta ,mà còn
phát triển khá mạnh cà phê Arabicarơ các tỉnh biên miền núi phía Bắc như Sơn La,
Lai Châu, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang vv... Nhằm nâng cao tỷ trọng xuất
khẩu cà phê giống ngon, giá cao.
Trang 13
Những vùng này có điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu Phù hợp với cà phê
Arabica nên tương lai cho năng xuất cao. Đây là tín hiệu tốt lành cho ngành cà phê
Việt Nam trong xu thế chuộng chất lượng của cà phê thế giới .
3. Xuất khẩu :
Do sản xuất tăng nhanh nên xuất khẩu cà phê của ta hàng năm cũng tăng
nhanh cả về số lượng cũng như kim ngạch. Giá xuất khẩu trung bình hàng năm
cũng tăng đáng kể mặc dù vẫn bị ảnh hưởng rất nhiều từ những biến động trên thị
trường cà phê thế giới. Số ngoại tệ thu về hàng năm đã tăng lên tới hàng trăm triệu
đôla mỹ, riêng vụ 97/98 vừa qua con số kim ngạch đã là gần 600 triệu và sẽ còn
cao hơn nữa trong thời gian gần đây.
Bảng 2: Sản lượng, kim ngạch cà phê xuất khẩu của Việt Nam những năm 90.
KIM
TỐC ĐỘ TĂNG
NGẠCH
KIM NGẠCH
(TRIỆU
SO VỚI VỤ
USD)
TRƢỚC
21,5%
225,7
51.3%
212.038
33,7%
560,3
147%
1995 - 1996
233.000
9,8%
422
-24,6%
1996 - 1997
346.000
48,5%
414
-2%
1997 -1998
395.419
12,5%
599
45%
SỐ LƢỢNG
TỐC ĐỘ
XUẤT KHẨU
TĂNG
(TẤN)
TRƢỞNG
1993 - 1994
158.520
1994 - 1995
NIÊN VỤ
(Nguồn: Báo cáo tình hình cà phê xuất khẩu niên vụ 97/98 của bộ thương mại.)
Trang 14
Tuy nhiên, qua số liệu trong bảng 2 ta có thể thấy trừ niên vụ 94/95 kim
ngạch xuất khẩu cà phê của ta tăng vọt 147% lên hơn 560 triệu Đôla Mỹ so với
hơn 200 triệu Đôla Mỹ của vụ trước đó, còn lại các niên vụ tiếp sau kim ngạch
xuất khẩu của ta không những không tăng mà còn giảm mạnh trong khi sản lượng
xuất khẩu thì vẫn tăng đều đặn. Nguyên nhân của hiện tượng này phần lớn là do
cung cầu trên thị trường thế giới mất cân bằng dẫn tới giá cả giảm sút nhưng cũng
một phần do chất lượng cà phê xuất khẩu của ta chưa đáp ứng được yêu cầu của
khách hàng. Thậm chí bao cà phê của Việt Nam xuất sang các nước trong nhiều
trường hợp còn có tạp chất như đinh và nút chai lẫn bên trong. Chính vì vậy mặc
dù đã có nhiều tiến triển tốt nhưng vẫn còn một khoảng cách không nhỏ giữa giá
xuất cà phê của chúng ta và giá trung bình của cùng loại cà phê trên thị trường thế
giới.
Theo dự đoán, vụ cà phê 98/99 sản lượng sản xuất và sản lượng xuất khẩu
của Việt Nam giảm do hạn hán ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ kéo dài cộng với
mưa ở nhiều nơi đặc biệt là Đắk Lắk. Thời tiết xấu cũng sẽ làm giảm chất lượng cà
phê xuất khẩu của ta nên có thể ảnh hưởng tới yếu tố giá cà phê cũng như uy tín
của cà phê Việt Nam trên thị trường.
Về thị trường tiêu thụ, tính đến vụ cà phê 97/98 thị trường cà phê của Việt
Nam đã được mở rộng tới 52 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Những nước
nhập khẩu số lượng lớn là Mỹ, Canada, các nước Tây Âu và các nước Nhật Bản,
Hàn Quốc ở Châu Á. Tuy nhiên, để cây cà phê xứng đáng với những triển vọng từ
phía thị trường bên ngoài, chúng ta cũng cần quan tâm tới việc ổn định thị trường
trong nước, khắc phục tính manh mún, thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa người sản
xuất, người xuất khẩu và các thành phần có liên quan nhằm từng bước xây dựng
chiến lược hợp lý và lâu dài cho cây cà phê xuất khẩu.
Trang 15
CHƢƠNG 2
TÌNH HÌNH KINH DOANH CÀ PHÊ XUẤT KHẨU
Trang 16
TẠI CÔNG TY PROSIMEX
I. GIỚI THIỆU TÓM LƯỢC VỀ CÔNG TY
1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty sản xuất kinh doanh xuất
nhập khẩu PROSIMEX.
Công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu PROSIMEX là một doanh
nghiệp nhà nước, có tư cách pháp nhân, hạch toán kinh doanh độc lập được nhà
nước giao vốn, đất đai và các nguồn lực khá. Doanh nghiệp có nhiệm vụ sử dụng
có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn được giao, có quyền và nghĩa vụ với nhà
nước, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh trong phạm vi vốn do nhà nước
giao.
Công ty ra đời và phát triển hoàn toàn dựa vào chính khả năng và sự cố
gắng của mình. Tiền thân của công ty là cơ sở sản xuất tăng gia, chăn nuôi của văn
phòng bộ kinh tế đối ngoại từ những năm 1970, nhằm để cải thiện đời sống cho
cán bộ công nhân viên. Theo quyết định 778/KTĐN/TCCB ngày 25/11/1989 của
Bộ kinh tế đối ngoại (nay thuộc bộ thương mại), xí nghiệp gia công hàng xuất
khẩu trực thuộc văn phòng Bộ kinh tế đối ngoại ra đời. Ngày 24/03/1993, nghị
định số 388/CP của chính phủ và kèm theo quyết định số 448/M/TCCB của Bộ
Thương Mại, xí nghiệp gia công sản xuất đổi tên thành công ty sản xuất gia công
hàng xuất khẩu và nay là công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu.
Cơ sở vật chất ban đầu của công ty rất thiếu thốn. Tổng số vốn ban đầu chỉ
khoảng 3.785 triệu đồng, mà chủ yếu là TSCĐ (ôtô, máy sản xuất đinh, nhà xưởng
và đât đai). Năm 1990, năm hoạt động đầu tiên, kim ngạch xuất khẩu đạt 3,214
triệu USD trong đó xuất khẩu đạt 1,786 triệu USD và nhập khẩu đạt 1,428 triệu
USD. Đến năm 1998, tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty đạt tới 74,120 triệu
USD trong đó xuất khẩu đạt 43,033 triệu USD, nhập khẩu đạt 31,078 triệu USD.
Cùng với sự tăng trưởng về kim ngạch xuất khẩu, công ty đã chú trọng việc mở
rộng sản xuất, đầu tư thêm trang thiết bị, máy móc cho sản xuất, tìm kiếm bạn
hàng và chú trọng vào các mặt hàng truyền thống như thuê ren, may mặc, nông
sản. Năm 1993, công ty đã liên doanh may mặc xuất khẩu Hà nội< HENTEX> giải
Trang 17
quyết việc làm cho rất nhiều công nhân và hàng năm đều mang lại lợi nhuận cho
Công ty.
Công ty sản xuất kinh doanh xuất khẩu PROSIMEX là một đơn vị hạch
toán độc lập về tài chính, có tư cách pháp nhân có tài khoản tiền Việt Nam và
ngoại tệ ở Ngân hàng, có con dấu riêng để giao dịch.
Tên giao dịch quốc tế : IMPORT - EXPORT PRODUCTION AND
TRADING CORPORATION
Trụ sở chính: Khương Đình - Thanh Xuân - Hà nội
Điện thoại: 8583672 - 8584278
Fax: 84(4)8585009
Vốn điều lệ ban đầu : 5.135.000.000 đồng
Trong đó:
- Vốn cố định
: 951.000.000 đồng
- Vốn lưu động
: 4.184.000.000 đồng
Đăng ký kinh doanh số: 108296 DO TRỌNG TÀI KINH TẾ cấp ngày
30/04/1993.
Ngành nghề kinh doanh: ngành ngoại thương, nghề sản xuất và gia công
hàng xuất khẩu, kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu hàng may mặc, dệt thủ công mỹ
nghệ, nông lâm sản, kim khí, điện máy, hàng tiêu dùng và các loại vật tư sản xuất,
vật liệu xây dựng, phương tiện vận tải, hải sản, thiết bị phụ tùng .
Công ty được xây dựng trên khu đất rộng khoảng 10.500 m2 trong đó
2000m2 nhà 3 tầng, đây là nơi làm việc của các phòng ban, 5500m2 nhà khung để
sản xuất, 2000 m2 dùng để làm nhà kho và 1000 m2 để làm vườn cây và khu vui
chơi giải trí của cán bộ công nhân viên. Ngay từ ngày đầu mới thành lập ,vừa hoàn
thiện công tác tổ chức nhân sự và triển khai thực hiện kế hoạch sản xuất kinh
doanh, đơn vị đã thu được những thành quả đáng khích lệ. Nguồn vốn tích luỹ
cũng như cơ sở vật chất ngày càng dồi dào. Đội ngũ cán bộ nhân viên không
ngừng được đào tạo có tay nghề cao, đóng góp nghĩa vụ cho nhà nước tăng dần
theo các năm.
Trang 18
Chỉ tiêu năm
Doanh thu
1999
158.566.388.036
Tổng lợi nhuận sau thuế
Số đóng góp ngân sách
2000
2001
172.476.323.469 184.378.393.127
212.468.811
352.150.913
364.171.495
18.753.521.337
20.597.634.155
23.725.654.325
Với phương châm: "Đoàn kết - ổn định - phát triển” nhờ có những biện
pháp, kế hoạch tổ chức quản lý kinh doanh thích hợp, công ty đã xây dựng được
thành một khối thống nhất trong mọi hoạt động, luôn tích cực, sáng tạo trong việc
tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu. Liên tục trong những năm qua, công ty đã
không ngừng tăng trưởng về vốn, mặt hàng sản xuất kinh doanh, đặc biệt về kim
ngạch xuất khẩu. Thị trường xuất nhập khẩu không ngừng được mở rộng, từ xuất
khẩu theo hạn ngạch và bó hẹp trong các thị trường Đông Âu, dần từng bước công
ty đã mở rộng việc xuất nhập khẩu sang hầu hết các châu lục. Cho đến nay, Công
ty đã có quan hệ bạn hàng với hơn 40 nước trên thế giới.
Với những kết quả đạt được như vậy, trong những năm qua, cùng với sự
thay đổi và phát triển của nền kinh tế, Công ty đã có nhiều thay đổi phù hơp với
môi trường kinh doanh luôn biến động và đầy khó khăn, góp phần không nhỏ vào
sự tăng trưởng và phát triển chung của xã hội.
2. Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh của Công ty PROSIMEX:
Hiện nay, lĩnh vực hoạt động kinh doanh chính của công ty là xuất nhập
khẩu.
*Kinh doanh xuất khẩu:
- Hàng may mặc: áo sơ mi nam nữ, quần áo thể thao, quần áo trẻ em,
áo Jacket, găng tay.
- Hàng thêu ren : rèm cửa , khăn bàn thêu , ga trải giường ...
- Hàng nông sản : gạo, ca phê, tiêu, lạc nhân, sắn lát, đậu xanh, ngô hạt ..
Trang 19
- Hàng lâm sản: gạo, quế , hồi.
- Hàng thủ công mỹ nghệ : mây tre, gốm sứ .
- Hàng hoá khác : cao su, dàu cọ, quặng cromit, nhôm thỏi, chiếu cói,
dép túi, thảm len .
Trong những năm vừa qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng kim ngạch
xuất khẩu của công ty vẫn liên tục tăng nhanh sau cao hơn năm trước, cụ thể là:
Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu của công ty Prosimex.
NĂM
(Đơn vị :USD)
TỔNG KIM
KIM NGẠCH HÀNG
KIM NGẠCH
NGẠCH XUẤT
MAY MẶC
HÀNG NÔNG SẢN
KHẨU
1996
26.781.340
9.300.000
8.541.119
1997
31.000.822
11.060.000
11.700.000
1998
36.000.786
11.500.000
12.365.000
1999
43.000.528
12.000.890
9.414.000
(Nguồn: Báo cáo của phòng nghiệp vụ tổng hợp công ty Prosimex)
Năm 1996, công ty là đơn vị đứng thứ hai của Bộ thương mại về tổng kim
ngạch xuất khẩu đạt được thành tích này là do Công ty đã xác định được hướng đi
cho mình trong cơ chế mới kết hợp giữa sản xuất và kinh doanh. Trên cơ sở
phương châm này Công ty cũng tiếp tục duy trì hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực là
nông sản và may mặc cho đến nay hai mặt hàng này luôn dẫn đầu về kim ngạch và
có tỷ lệ tăng trưởng cao tới 50-60%/ năm riêng mặt hàng nông sản còn có tính
chiến lược đối với Công ty về lâu dài.
Kinh doanh nhập khẩu:
- Sắt thép các loại ,dây đồng
- Hàng tiêu dùng : Mỹ phẩm , xe máy , vòng bi, xích công nghiệp
Trang 20