Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng và giải pháp mở rộng tín dụng tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ p...

Tài liệu Thực trạng và giải pháp mở rộng tín dụng tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương techcombank

.DOC
76
116
149

Mô tả:

LỜI NÓI ĐẦU Trong nền kinh tế thị trường, sản xuất và tiêu dùng là hai mặt rất quan trọng. Sản xuất chính là đại diện của lượng cung, còn tiêu dùng chính là đại diện của lượng cầu. Giữa sản xuất và tiêu dùng có mối quan hệ rất khăng khít và có tác động qua lại lẫn nhau. Tiêu dùng là điều kiện cơ bản cho sự tồn tại của sản xuất, vì có nhu cầu thì mới có nguồn cung. Còn sản xuất cũng góp phần tạo nên sự phát triển của tiêu dùng, vì nhu cầu có được sự thoả mãn hiện tại bởi cung thì mới có thể nảy sinh thêm các nhu cầu tiêu dùng mới. Mối tương quan giữa sản xuất và tiêu dùng nằm ở trạng thái nào thì nó sẽ tạo ra ảnh hưởng tương ứng cho nền kinh tế. Vì sản xuất quá nhiều mà không có được nhu cầu tiêu dùng tương xứng thì sẽ tạo nên tình trạng khủng hoảng thừa, giá cả sản phẩm trên thị trường sẽ giảm sút gây thiệt hại cho các nhà sản xuất, quy mô sản xuất sẽ bị thu hẹp lại. Còn nhu cầu tiêu dùng quá nhiều mà sản xuất không đáp ứng nổi sẽ gây nên tình trạng lạm phát cho nền kinh tế. Vì vậy,đối với tổng thể nền kinh tế thị trường,để thúc đẩy nền kinh tế ổn định và phát triển thì việc giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu, hay chính là sản xuất và tiêu dùng là rất quan trọng. Sản xuất và tiêu dùng cần được quan tâm như nhau để tạo nên sự cân bằng kinh tế. Tuy nhiên, nhìn vào thực tế của ngành ngân hàng nước ta hiện nay, với vai trò là huyết mạch của nền kinh tế, thì việc hỗ trợ giải quyết mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng là chưa xứng đáng với khả năng. Tổng dư nợ cho vay tiêu dùng của các ngân hàng còn thấp, chỉ chiếm khoảng 20-30% tổng dư nợ cho vay. Trong khi tỷ lệ này ở các nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ,Nhật và các nước châu Âu luôn là 40-50%.Điều đó cũng nói lên rằng tiềm năng cho vay tiêu dùng trong nước còn rất lớn, trong khi đó khả năng khai thác khu vực tín dụng tiêu dùng của các ngân hàng còn hạn chế hoặc chưa có sự quan tâm xứng đáng cho lĩnh vực này. Theo lộ trình cam kết gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO, sắp tới chúng ta sẽ phải mở cửa toàn bộ hệ thống ngân hàng, đón nhận sự cạnh tranh gay gắt từ ngân hàng nước ngoài vốn là các ngân hàng có nguồn vốn lớn,khoa học công nghệ hiện đại và đặc biệt là kinh nghiệm hoạt động lâu năm trong lĩnh vực tín dụng tiêu dùng. Xuất phát từ thực tiễn cho vay tiêu dùng của các ngân hàng trong nước, cùng với những kiến thức đã được học tập trong Học viện Ngân Hàng, và trong quá trình thực tập nghiên cứu tại Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Techcombank chi nhánh Đông Đô đã gợi mở cho em chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp mở rộng tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Techcombank chi nhánh Đông Đô ” để làm chuyên đề tốt nghiệp cho mình Đề tài được chia làm ba chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về tín dụng tiêu dùng của ngân hàng thương mại Chương 2:Thực trạng về tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Techcombank chi nhánh Đông Đô Chương 3: Giải pháp nhằm mở rộng tín dụng tiêu dùng tại ngân hàng Techcombank chi nhánh Đông Đô CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1 Khái quát về hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm về cho vay tiêu dùng. Cho vay tiêu dùng là một hình thức qua đó ngân hàng chuyển cho khách hàng (cá nhân hay hộ gia đình) quyền sử dụng một lượng giá trị (tiền) trong một khoảng thời gian nhất định, với những thoả thuận mà hai bên đã ký kết (về số tiền cấp, thời gian cấp, lãi suất phải trả...) nhằm giúp cho khách hàng có thể sử dụng những hàng hoá và dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo điều kiện cho họ có thể hưởng một cuộc sống cao hơn. Trong giai đoạn đầu, phần lớn các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi họ cho rằng các khoản cho vay tiêu dùng có quy mô nhỏ, nguy cơ vỡ nợ cao do đố chúng có mức sinh lời thấp. Tuy nhiên, sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới tiêu dùng như khách hàng tiềm năng. Đặc biệt, sau chiến tranh thế giới thứ hai, cho vay tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển. Hiện nay, thị trường cho vay tiêu dùng ở các quốc gia phát triển đã đạt đến đỉnh điểm trong khi các quốc gia phát triển thì mảng thị trường này vẫn còn tiềm năng. 1.1.2. Đặc điểm của cho vay tiêu dùng. Quá trình hình thàng và phát triển cho vay tiêu dùng. Cho vay là hoạt động cơ bản của các ngân hàng thương mại nhưng từ xưa đến nay, các ngân hàng mới chỉ quan tâm đến cho vay các doanh nghiệp sản xuầt kinh doanh hàng hoá mà chưa thực sự chú ý tới nhu cầu cho vay tiêu dùng của người dân. Cuộc sống ngày càng phát triển, nhu cầu vay tiêu dùng gia tăng mạnh gắn liền với nhu cầu về hàng tiêu dùng lâu bền như nhà, xe, đồ gỗ sang trọng, nhu cầu du lịch... Tuy nhiên, không phải cứ có nhu cầu là ta đáp ứng đúng lúc đúng thời điểm bởi nó còn phụ thuộc vào một nhân tố quan trọng đố là khả năng thanh toán. Đây thực sự là một vấn đề quan trọng. làm thế nào để giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu tiêu dùng và khả năng thanh toán ? Trên thực tế có hai cách giải quyết. Thứ nhất là mua bán chịu – cách này chỉ có lợi cho người mua, còn bất lợi với người bán. Người mua sẽ được sử dụng hàng hoá trước khi có đủ số tiền cần thiết,nhưng người bán sẽ thu hồi vốn chậm, thậm chí bị người mua quỵt tiền. Khi cần tiền để nhận hàng hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh thì đến người bán dễ rơi vào tình trạng thiếu phương tiện thanh toán. Vì vậy, cách mua bán chịu không phổ biến, không khả thi gặp nhiều rủi ro. Thứ hai là người mua vay đi vay tiền, họ sẽ cảm giác là đủ phương tiện thanh toán. Cách này của thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng và nhà sản xuất cũng bán được hàng. Như vậy, cần đến một tổ chức thứ ba hỗ trợ cả người mua và người bán và không một tổ chức nào đảm nhiệm được vị trí này tốt bằng cách trung gian tài chính, mà quan trọng nhất là các ngân hàng thương mại. Do đó, sự ra đời của cho vay tiêu dùng là hết sức cần thiết . Ngân hàng phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng cũng là cách để gia tăng lợi nhuận, đặc biệt là trong môi trường cạnh tranh khốc liệt ngày này Nhiều hãng lớn khi thiếu vốn đã không tìm đến ngân hàng để vay tiền mà họ tự tài trợ chủ yều bằng phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Thêm vào đó, các Công ty tài chính hoặc giữa các ngân hàng cạnh tranh với nhau trong cho vay làm cho thị phần cho vay các doanh nghiệp của ngân hàng bị giảm sút buộc ngân hàng phải mở rộng thị trường cho vay tiêu dùng, hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng trung thành tiềm năng. Ngân hàng cho vay tiêu dùng một mặt tăng thu nhập cho bản thân ngân hàng, mặt khác tạo ra uy tín cho ngân hàng. Cuộc sống hàng ngày ngày càng hiện đại, vay tiêu dùng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết và sự hình thành cho vay tiêu dùng đã trở thành tất yếu. So với các hình thức cho vay khác thì hình thức cho vay tiêu dùng ra đời muộn hơn, nó chỉ mới xuất hiện trong những năm cuối thế kỷ XX. Nguyên nhân của việc này là do các khoản cho vay tiêu dùng thường có giá trị nhỏ, chi phí cho khoản vay lại tương đối lớn và độ rủi ro lại tương đối cao làm cho các ngân hàng ngại cho vay. Tuy nhiên, các ngân hàng đã không thể đứng ngoài cuộc khi các tổ chức khác đang ngày càng cạnh tranh mạnh mẽ giành giật thị trường, nhất là trên lĩnh vực dành cho khách hàng cá nhân. Sự phát triển của nền kinh tế các nước trên thế giới sau chiến tranh thế giới thứ hai giúp người dân có mức thu nhập cao hơn và khá ổn định. Họ tin tưởng và lạc quan vào tương lai đồng thời nhu cầu tiêu dùng của họ tăng lên khá mạnh, điều đó giúp cho ngân hàng có được một số lượng lớn khách hàng đối với khoản cho vay tiêu dùng. Cho vay tiêu dùng trở thành loại hình cho vay có mức tăng trưởng cao nhất. Quy mô khoản vay nhỏ nhưng số lượng các khoản vay rất lớn. Do mục đích vay tiêu dùng nên quy mô các khoản vay không lớn. Vì nhu cầu của dân cư với các loại hàng hoá xa xỉ là không cao hoặc đã có tích luỹ trước đối với các loại tài sản có giá trị lớn. Song, nhu cầu vay tiêu dùng là khá phổ biến do đối tượng của loại hình cho vay này là mọi cá nhân trong xã hội từ những người có thu nhập cao đến những người có thu nhập trung bình và thấp với nhiều nhu cầu phong phú và đa dạng. Nguồn trả nợ: khách hàng trích nguồn thu nhập từ lương, thu nhập từ hoạt động kinh doanh của mình (không phải là từ kết quả sử dụng những khoản vay đó). Mục đích vay: Nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình không phải xuất phát từ mục đích kinh doanh. Nhu cầu đó có thể xuất phát từ việc: mua nhà, sửa chữa nhà, xây dựng, mua sắm phương tiện, đồ dùng, hay các nhu cầu du lịch, học hành hoặc giải trí... Về rủi ro: Các khoản cho vay tiêu dùng có độ rủi ro cao vì bên cạnh sự ảnh hưởng của các yếu tố khách quan như môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội nó còn phải chịu tác động của những nhân tố chủ quan xuất phát từ bản thân khách hàng. Trong cuộc sống, chúng ta không thể lường trước được hết hậu quả do những rủi ro khách quan như suy thoái kinh tế, mất mùa, thiên tai… Đặc biệt, hoạt động cho vay tiêu dùng phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế, nhất là khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái. Khi đó, người tiêu dùng sẽ không thấy tin tưởng vào tương lai và cùng với những lo lắng về nguy cơ thất nghiệp, họ sẽ hạn chế việc vay mượn từ ngân hàng. Ngoài ra, cho vay tiêu dùng còn chịu một số rủi ro chủ quan như tình trạng sức khoẻ, khả năng trả nợ của cá nhân và hộ gia đình…Điều đó tạo nên rủi ro lớn cho ngân hàng, hơn nữa thông tin tài chính của đối tượng này rất khó đầy đủ và chính xác hoàn toàn. Mặt khác yếu tố đạo đức của cá nhân người tiêu dùng cũng là nhân tố tác động trực tiếp vào việc trả nợ cho ngân hàng, hay số lượng các khoản vay tiêu dùng là rất lớn trong khi đó số lượng Cán bộ tín dụng ngân hàng lại có hạn cũng sẽ tạo nên rủi ro cho ngân hàng. Chi phí mỗi khoản cho vay tiêu dùng là khá lớn. Do thông tin về nhân thân, lai lịch và tình hình tài chính của khách hàng thường không đầy đủ và khó thu thập, ngân hàng phải bỏ nhiều chi phí cho công tác thẩm định và xét duyệt cho vay. Hơn nữa phần lớn các khoản vay với số lượng lớn và giá trị nhỏ nên ngân hàng phải chịu một khoản chi phí đáng kể để quản lý hồ sơ khách hàng. Chính vì thế, cho vay tiêu dùng trở thành khoản mục có chi phí lớn nhất trong các khoản mục tín dụng ngân hàng. Lợi nhuận từ cho vay tiêu dùng cao. Do rủi ro cao và chi phí tính trên một đơn vị tiền tệ của cho vay tiêu dùng lớn nên ngân hàng thường đặt lãi suất rất cao đối với các khoản cho vay tiêu dùng. Bên cạnh đó, số lượng các khoản cho vay tiêu dùng là khá nhiều, khiến cho tổng quy mô cho vay tiêu dùng là rất lớn, cùng với tiền lãi thu được từ mỗi khoản vay làm cho tổng lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay tiêu dùng là đáng kể. Như vậy đối với cho vay tiêu dùng có dộ rủi ro cao, lãi suất lớn sẽ là nguồn mang lại lợi nhuận kỳ vọng lớn cho ngân hàng. Thực tế cho thấy cho vay tiêu dùng đem lại mọtt khoản lợi nhuận không nhỏ cho ngân hàng trong việc đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng. Đối với người tiêu dùng, họ vẫn chấp nhận mức giá cao vì họ luôn đặt yếu tố thoả mãn lên hàng đầu chứ không tính kỹ lỗ, lãi như trong kinh doanh. 1.1.3. Phân loại cho vay tiêu dùng Có nhiều cách phân loai cho vay tiêu dùng thành các loại khác nhau, tuỳ theo tiêu thức chúng ta lựa chọn mà cho vay tiêu dùng được phân chia thành: 1.1.3.1. Căn cứ vào mục đích vay. - Cho vay tiêu dùng bất động sản. Là khoản tín dụng được cấp nhằm tài trợ cho nhu cầu mua, xây dựng, cải tạo nhà cho khách hàng (cá nhân hay hộ gia đình). Đặc điểm của những món vay này là quy mô thường lớn, thời gian dài. - Cho vay tiêu dùng thông thường. Đây là những khoản cho vay phục vụ nhu cầu cải thiện đời sống như mua sắm phương tiện, đồ dùng, du lịch, học hành, y tế hoặc giải trí ... Đặc điểm của những khoản tín dụng này thường có quy mô nhỏ, thời gian tài trợ ngắn. 1.1.3.2. Căn cứ vào phương thức hoàn trả. Theo tiêu thức này thì cho vay tiêu dùng được phân thành: -Cho vay tiêu dùng trả góp: Theo hình thức tài trợ này, thì người đi vay trả nợ cho ngân hàng (gồm cả gốc và lãi) theo nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định do ngân hàng quy định (tháng, quý...). Hình thức này áp dụng cho các khoản vay có giá trị lớn hoặc với những khách hàng mà thu nhập định kỳ của họ không đủ để thanh toán hết một lần số nợ vay. Đối với loại cho vay này ngân hàng cần chú ý đến những vấn đề cơ bản sau: - Loại tài sản được tài trợ: - Số tiền phải trả trước: - Điều khoản thanh toán. -Cho vay tiêu dùng trả một lần. Đây là hình thức tài trợ mà theo đó số tiền vay của khách hàng sẽ được thanh toán một lần khi hợp đồng tín dụng đến hạn. Đặc điểm của các khoản tín dụng này thường có quy mô nhỏ, thời hạn cho vay ngắn. Ngân hàng áp dụng hình thức này bởi đây là biện pháp sẽ giúp ngân hàng không mất nhiều thời gian như khi phải tiến hành thu nợ làm nhiều kỳ. Trong thực tế, khoản cho vay tiêu dùng cấp theo hình thức này là rất ít. 1.1.3.3. Căn cứ vào phương thức cho vay giữa ngân hàng và khách hàng vay vốn. Theo đó cho vay tiêu dùng được phân thành: - Cho vay tiêu dùng trực tiếp: Đây là hình thức trong đó ngân hàng trực tiếp tiếp xúc với khách hàng của mình, việc thu nợ cũng được tiến hành trực tiếp bởi chính ngân hàng. - Cho vay tiêu dùng gián tiếp: Đây là hình thức ngân hàng không trực tiếp ký hợp đồng với người tiêu dùng, mà theo hình thức này ngân hàng sẽ ký kết hợp đồng với chính nhà cung cấp, thực ra là mua những khoản nợ, để trên cơ sở đó nhà cung cấp sẽ bán chịu hàng hoá cho người tiêu dùng. Hợp đồng ký kết giữa ngân hàng và nhà cung cấp quy định rõ điều kiện bán chịu như: đối tượng khách hàng được bán chịu, loại hàng được bán chịu, số tiền được bán chịu...v.v. Thông qua những điều kiện đó mà nhà cung cấp sẽ thoả thuận với khách hàng của mình về việc bán chịu hàng hoá.. 1.1.4. Vai trò của cho vay tiêu dùng 1.1.4.1 Đối với Ngân hàng thương mại Hoạt động chủ yếu của các ngân hàng thương mại là nhận tiền gửi (huy động vốn) và sử dụng khoản tiền đó (sử dụng vốn) trong kinh doanh nhằm thu lợi nhuận, hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại là hoạt động chiếm thị phần cao nhất, mang lại cho ngân hàng nhiều lợi nhuận nhất Lúc đầu, các ngân hàng thương mại cũng không mấy quan tâm đến thị trường cho vay tiêu dùng, bởi đây là thị trường mà các khoản tài trợ có quy mô nhỏ, chi phí tài trợ là lớn, rủi ro cũng cao. Tuy nhiên, khi mà cuộc cạnh tranh để giành thị phần thị trường trở lên khốc liệt, các ngân hàng thương mại không chỉ phải cạnh tranh với chính các ngân hàng trong hệ thống, mà còn phải cạnh tranh với các tổ chức tài chính phi ngân hàng đã khiến thị phần trên một số thị trường của các ngân hàng bị thu hẹp, trong khi thị trường cho vay tiêu dùng đang có xu thế lên cao. Do vậy, các ngân hàng đã phải hướng mục tiêu của mình vào lĩnh vực này, và cho vay tiêu dùng đã dần trở thành một loại hình sản phẩm phổ biến trong các ngân hàng thương mại, một loại sản phẩm mang lại thu nhập tương đối cao trong tổng doanh thu của các ngân hàng. Mặc dù các khoản tài trợ theo hình thức cho vay tiêu dùng là nhỏ, nhưng với số lượng các khoản này lại rất lớn (đối tượng có nhu cầu vay tiêu dùng bao gồm tất cả các thành phần trong xã hội), vì thế tổng quy mô tài trợ là rất lớn. Bên cạnh đó, lãi suất của các khoản tài trợ theo hình thức này là rất cao (bởi người nhận tài trợ họ chỉ quan tâm đến thoả mãn nhu cầu trước mắt mà họ được hưởng, họ không mấy quan tâm đến lãi suất phải trả) nên đã mang lại cho ngân hàng một tỷ suất lợi nhuận tương đối lớn trong tổng lợi nhuận của ngân hàng. Đặc biệt, với ngân hàng có quy mô nhỏ, uy tín chưa cao...vv, khó có thể cạnh tranh được với các ngân hàng có quy mô lớn, uy tín cao trong việc giành những khách hàng lớn (thường là các tổ chức mà nhu cầu vay vốn đáp ứng cho hoạt động sản xuất kinh doanh), hoặc có những khi nhờ những mối quan hệ tốt có thể giành được khách hàng, nhưng ngân hàng lại không thể đáp ứng được quy mô khoản vay của họ thì thị trường cho vay tiêu dùng là vô cùng quan trọng đối với các ngân hàng này. 1.1.4.2 Đối với người tiêu dùng. Cho vay tiêu dùng có tác dụng đặc biệt với những người có thu nhập thấp và trung bình. Thông qua nghiệp vụ cho vay tiêu dùng, họ sẽ được hưởng các dịch vụ, tiện ích trước khi có đủ khả năng về tài chính như mua sắm các hàng hoá thiết yếu có giá trị cao như nhà cửa, xe hơi… hay trong trường hợp chi tiêu cấp bách như nhu cầu về y tế. Có thể nói rằng bất cứ một người nào đều mong muốn được thoả mãn những nhu cầu của riêng mình bắt đầu từ những hàng hoá tất yếu rồi đến những hàng hoá xa xỉ hơn. Tuy nhiên thực tế là một người trẻ lại chưa có đủ khả năng chi trả cho những nhu cầu của mình do đó họ cần thời gian tích luỹ tiền, người tiêu dùng sẽ khéo léo phối hợp giữa thoả mãn ở hiện tại với khẳ năng thanh toán ở hiện tại và tương lai. Có thể nói người tiêu dùng là người được hưởng trực tiếp và nhiều nhất lợi ích mà hình thức cho vay này mang lại trong điều kiện họ không lạm dụng chi tiêu vào những việc không chính đáng vì khi đó sẽ làm giảm khả năng tiết kiệm và chi tiêu trong tương lai. 1.1.4.3 Đối với nền kinh tế -xã hội Sự sung túc của một nền kinh tế được thể hiện rõ qua mức cầu về hàng hoá tiêu dùng của dân cư. Mức cầu đó chính là số lượng và mức độ của các nhu cầu có khả năng thanh toán. Việc phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng của các NHTM sẽ làm tăng đáng kể những nhu cầu có khả năng thanh toán đó hay nói cách khác đây chính là một giải pháp hữu hiệu để kích cầu và qua đó làm cho nền kinh tế trở nên năng động hơn. Khi sức mua của người tiêu dùng tăng lên thị trường hàng hoá tiêu dùng cũng theo đó mà trở nên sôi động hơn, góp phần quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong nước, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng sẽ đạt được các mục tiêu kinh tế – xã hội khác như giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập, giảm bớt các tệ nạn xã hội, cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. 1.2 Nội dung cơ bản của mở rộng tín dụng tiêu dùng 1.2.1 Quan niệm về mở rộng tín dụng tiêu dùng. Nói đến mở rộng, tức là nói đến sự tăng trưởng về quy mô, khối lượng và số lượng. Nói cách khác,mở rộng tức là sự tăng trưởng theo chiều ngang. Theo cách hiểu này, mở rộng tín dụng tiêu dùng chính là sự đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của khách hàng về quy mô tín dụng tiêu dùng cũng như làm tăng tỷ trọng của tín dụng tiêu dùng trong cơ cấu tổng dư nợ tín dụng ngân hàng thương mại(NHTM) Mở rộng tín dụng tiêu dùng được thể hiện: * Đối với khách hàng: TDTD phải thoả mãn tối đa các yêu cầu hợp lý của khách hàng về khối lượng tín dụng tiêu dùng cung cấp, sự đa dạng hoá trong các hình thức tín dụng tiêu dùng cũng như các dịch vụ kèm theo. * Đối với ngân hàng thương mại: TDTD phải được xác định là khâu chủ đạo trong toàn bộ hoạt động tín dụng của các NHTM.Đồng thời,phải thoả mãn và đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng, cũng như có một chính sách tín dụng hợp lý, đa dạng về đối tượng khách hàng. * Đối với sự phát triển của kinh tế xã hội: TDTD phải đáp ứng các yêu cầu về vốn của nền kinh tế, phải là kênh dẫn truyền vốn hiệu quả nhằm trợ giúpcho ngân sách nhà nước cũng như tạo điều kiện cho thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần cải thiện đời sống dân cư. Từ cách hiểu trên có thể thấy được rằng: Mở rộng TDTD phản ánh khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về vốn cho nền kinh tế theo một cơ cấu hợp lý, phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ. Mở rộng TDTD phản ánh sự phát triển của tín dụng tiêu dùng trong một môi trường tài chính cạnh tranh mạnh mẽ. Mở rộng TDTD được xác định trên cơ sở thực hiện đa dạng hoá khách hàng, các loại hình dịch vụ ngân hàng cũng như các đối tượng cho vay. Mở rộng TDTD chịu ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan và khách quan trong nền kinh tế. Mở rộng TDTD là một khái niệm cụ thể, song không vì thế mà giới hạn cách hiểu của vấn đề này. Điều đó có nghĩa là mở rộng TDTD không chỉ là sự tăng trưởng về quy mô tín dụng mà còn phải được hàm ý hiểu là sự nâng cao chất lượng TDTD. Xuất phát từ cách hiểu trên, nên mở rộng TDTD đòi hỏi phải được đánh giá theo những chỉ tiêu nhất định cũng như khi đánh giá phải đặt trong mối quan hệ tổng thể với các chỉ tiêu tài chính khác. Có như vậy mới giúp ngân hàng xác định nguyên nhân và những tồn tại trong việc mở rộng TDTD để từ đó ngân hàng có những giải pháp cho việc mở rộng TDTDcũng như nâng cao chất lượng TDTD tại chính ngân hàng. 1.2.2 Sự cần thiết của việc mở rộng tín dụng tiêu dùng. * Đối với người tiêu dùng. Với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, cùng với nó là sự cải thiện đáng kể trong mức sống của dân cư, thì nhu cầu tiêu dùng của phần lớn bộ phận dân cư, đặc biệt là dân cư thành thị đang tăng lên rất nhiều với nhiều hình thức tiêu dùng khác nhau. Thông qua nghiệp vụ tín dụng tiêu dùng, các ngân hàng đã đáp ứng phần nào nhu cầu chi tiêu của người dân, giúp cho họ được hưởng những tiện ích trước khi tích luỹ đủ tiền và đặc biệt quan trọng hơn nó rất cần thiết cho các trường hợp khi cá nhân có nhu cầu chi tiêu mang tính cấp bách. Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển đời sống ngày càng được nâng cao thì con người càng có quyền đòi hỏi cao hơn trong việc cải thiện cuộc sống của mình.Nếu trước kia, chỉ cần “ăn no mặc ấm” thì ngày nay chúng ta ai cũng mong muốn được “ăn ngon, mặc đẹp”.Đây là một yêu cầu chính đáng và là tất yếu của cuộc sống ngày nay. Nắm bắt được nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng nhưng khả năng thanh toán thì có hạn, các NHTM luôn tìm mọi cách để thoả mãn nhu cầu của họ. Việc mở rộng TDTD do đó sẽ giúp ngân hàng thoả mãn tối đa các yêu cầu hợp lý của khách hàng về khối lượng tín dụng tiêu dùng. Rõ ràng là mở rộng TDTD sẽ đem đến lợi ích tốt nhất cho người tiêu dùng. * Đối với các NHTM Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một điều không thể tránh khỏi. Để có thể đứng vững và tồn tại trong một môi trường cạnh tranh đầy khắc nghiệt đòi hỏi mỗi NHTM phải có chiến lược kinh doanh phù hợp, một mặt tận dụng các thời cơ, mặt khác phải tạo ra ưu thế cạnh tranh so với các đối thủ của mình. Chính vì lý do trên, mỗi NHTM luôn tìm cách đa dạng hoá hoạt động kinh doanh và tín dụng tiêu dùng được xác định là một trong những nghiệp vụ tạo ưu thế cạnh tranh cho ngân hàng. Với phương châm hoạt động “khách hàng là thượng đế”, các NHTM luôn tìm mọi cách để thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng cũng như tăng cườngcác mối quan hệ với khách hàng. Điều này có thể được thực hiện một cách hiệu quả khi các NHTM mở rộng tín dụng tiêu dùng, một thị trường đầy tiềm năng cho các ngân hàng. Một lý do nữa khiến cho việc mở rộng tín dụng tiêu dùng là cần thiết, đó là vì hoạt động kinh doanh của các ngân hàng luôn chứa đựng nhiều rủi ro. Để có thể giảm thiểu rủi ro, các NHTM luôn tìm mọi cách để đa dạng hoá hoạt động kinh doanh cũng như đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ cung ứng cho khách hàng. Từ đó giúp cho ngân hàng tăng sức mạnh trong cạnh tranh. Cuối cùng, một điều dễ nhận thấy là cùng với việc mở rộng TDTD, các NHTM không chỉ tối đa hoá lợi ích của khách hàng mà còn giúp ngân hàng thực hiện được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. * Đối với sự phát triển của nền kinh tế Mở rộng TDTD không chỉ mang lại lợi ích cho người tiêu dùng mà còn mang lại lợi ích cho nền kinh tế. Nếu TDTD được tài trợ cho những nhu cầu chi tiêu hàng hoá, dịch vụ trong nước thì nó có tác dụng kích cầu, một mặt cải thiện đời sống dân cư, mặt khác tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, nó còn góp phần giảm chi phí giao dịch trong toàn xã hội. Đó là chưa kể đến việc dịch vụ này với những tiện ích thanh toán không dùng tiền mặt sẽ cải thiện môi trường tiêu dùng, xây dựng nền văn minh thanh toán, góp phần tạo cơ sở để Việt Nam hoà nhập với cộng đồng phát triển quốc tế. Xuất phát từ những lý do trên, có thể thấy được rằng mở rộng tín dụng tiêu dùng là một yêu cầu khách quan của nền kinh tế. 1.2.3 Các chỉ tiêu phản ánh mở rộng tín dụng tiêu dùng Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, mục tiêu của ngân hàng là tối đa hoá lợi nhuận trên cơ sở tối đa hoá lợi ích của khách hàng. Chính vì vậy, trong quá trình cung ứng sản phẩm, dịch vụ của mình cho khách hàng, một việc làm quan trọng và cần thiết là xác định được mục đích cung ứng sản phẩm, dịch vụ và đồng thời phải đánh giá được sản phẩm và dịch vụ mà mình cung ứng thông qua các chỉ tiêu đánh giá cụ thể. Do đó, mở rộng TDTD có thể được phản ánh qua các chỉ tiêu sau: 1.2.3.1 Chỉ tiêu phản ánh doanh số tín dụng tiêu dùng: Doanh số cho vay: Là tổng số tiền ngân hàng cho vay trong kỳ, nó phản ánh một cách khái quát về hoạt động tín dụng của ngân hàng trong một thời kỳ nhất định, thường tính theo năm tài chính. - Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng doanh số tuyệt đối Giá trị tăng trưởng = Tổng doanh số doanh số tuyệt đối - Tổng doanh số TDTD năm t TDTD năm (t-1) ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết doanh số TDTD năm t tăng so với năm (t-1) về số tuyệt đối là bao nhiêu. - Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng doanh số tương đối Giá trị tăng trưởng doanh số tuyệt đối x 100% Giá trị tăng trưỏng= doanh số tương đối Tổng doanh số TDTD năm (t-1) Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết tốc độ tăng trưởng doanh số TDTD năm t so với năm (t-1) - Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng về tỷ trọng. Tổng doanh số TDTD x 100% Tỷ trọng = Tổng doanh số hoạt động tín dụng Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết doanh số của hoạt động tín dụng tiêu dùng chiếm bao nhiêu phần trăm tronng doanh số của toàn bộ hoạt động tín dụng của ngân hàng. 1.2.3.2 Chỉ tiêu phản ánh dư nợ TDTD - Dư nợ TDTD Là số tiền mà khách hàng đang nợ ngân hàng tại một thời điểm, chỉ tiêu này thường được sử dụng kết hợp với chỉ tiêu doanh số cho vay nhằm phản ánh tình hình mở rộng tín dụng tiêu dùng của ngân hàng. - Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng dư nợ tuyệt đối Giá trị tăng trưởng dư nợ tuyệt đối = Tổng dư nợ TDTD năm t - Tổng dư nợ TDTD năm(t-1) Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết dư nợ năm t tăng so với năm (t-1) về số tuyệt đối là bao nhiêu. - Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng dư nợ tương đối Giá trị tăng trưởng dư nợ tuyệt đối x 100% Giá trị tăng trưởng = dư nợ tương đối Tổng dư nợ TDTD năm (t-1) Ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ tăng trưởng dư nợ TDTD năm t so với năm (t-1) - Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng về tỷ trọng Tổng dư nợ TDTD x 100% Tỷ trọng = Tổng dư nợ hoạt động tín dụng Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết dư nợ hoạt động TDTD chiếm tỷ lệ bao nhiêu trong dư nợ của toàn bộ hoạt động tín dụng của ngân hàng, đồng thời so sánh tỉ trọng này năm sau so với năm trước. Từ đó giúp cho ngân hàng có những định hướng cụ thể trong việc mở rộng TDTD 1.2.3.3 Chỉ tiêu phản ánh số lượng và số lượt khách hàng - Số lượng khách hàng: Là tổng số khách hàng thực hiện giao dịch với ngân hàng. Trong hoạt động TDTD, số lượng khách hàng thể hiện ở số các khoản vay tiêu dùng mà ngân hàng cấp cho khách hàng. - mChỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng về số lượng khách hàng Mức tăng giảm = số lượng khách hàng - số lượng khách hàng số luợng khách hàng nămt năm (t-1) Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết số lượng khách hàng năm t tăng giảm bao nhiêu so với năm (t-1). Qua đó giúp cho việc đánh giá khả năng mở rộng quy mô và đối tượng khách hàng tại ngân hàng. - Chỉ tiêu số lượt khách hàng: Số lượt khách hàng là số lần một khách hàng đến giao dịch với ngân hàng trong một năm. Trong hoạt động TDTD, số lượt khách hàng thể hiện ở số lần khách hàng đến ngân hàng thực hiện vay tiêu dùng. Chỉ tiêu này cho biết mực độ tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng. 1.2.3.4 Chỉ tiêu phản ánh sự mở rộng loại hình TDTD Chỉ tiêu này phản ánh sự đa dạng về loại hình TDTD tại ngân hàng, qua đó cho thấy khả năng mở rộng quy mô cũng như phạm vi hoạt động TDTD tại ngân hàng. Đây đồng thời cũng là một chỉ tiêu quan trọng, phản ánh sự đa dạng về đối tượng khách hàng đến thực thực hiện giao dịch TDTD tại ngân hàng. 1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng tín dụng tiêu dùng Để thực hiện việc mở rộng TDTD cần xem xét những nhân tố ảnh hưởng tới nó, từ đó có những đánh giá một cách chính xác hơn. 1.2.4.1 Những nhân tố vĩ mô Bao gồm các yếu tố tổng quát như kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hoá xã hội, dân số…Tuy nhiên, trong hoạt động kinh doanh ngân hàng có một số có yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp, chính vì lẽ đó chúng ta sẽ xem xét một cách kỹ lưỡng hơn  Môi trường kinh tế Môi trường kinh tế được phản ánh qua các giai đoạn của chu kỳ kinh tế, tốc độ tăng trưởng GDP, tỷ lệ lạm phát, triển vọng các ngành kinh tế sử dụng vốn của ngân hàng, mức độ ổn định của giá cả, tỷ lệ thất nghiệp…Chính những yếu tố này phản ánh tính hấp dẫn về thị trường và sức mua khác nhau đối với các thị trường hàng hoá khác nhau. Nhờ đó giúp ngân hàng có được nguồn thông tin đáng kể trong việc xác định quy mô của việc mở rộng TDTD.  Môi trường văn hoá – xã hội Môi trường văn hoá- xã hội bao gồm nhiều vấn đề mang tính lâu dài và có tác động đáng để đến tín dụng tiêu dùng như văn hoá tiêu dùng, thói quen sử dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, tập quán tiết kiệm, đầu tư, kỳ vọng cuộc sống, niềm tin tín ngưỡng… Nắm bắt các vấn đề văn hoá xã hội là một điều khó khăn nhưng lại có giá trị lớn đôi với các ngân hàng khi xem xét việc mở rộng tín dụng tiêu dùng bởi lẽ các quyết định tiêu dùng của khách hàng phụ thuộc phần lớn vào thói quen tâm lý, trình độ văn hoá, lối sống cộng đồng…  Môi trường dân số Bao gồm cơ cấu dân số theo độ tuổi, giới tính, thu nhập… Đây là một trong những yếu tố được các nhà hoạch định chiến lược của ngân hàng rất quan tâm. Bởi lữ con người tạo ra thị trường, quy mô và tốc độ tăng dân số cho biết quy mô và tốc độ tiêu thụ trên thị trường. Chính những nguồn thông tin này đóng vai trò đáng kể đổi với ngân hàng trong việc mở rộng tín dụng tiêu dùng  Môi trường công nghệ Môi trường công nghệ kỹ thuật bao gồm các nhân tố gây tác động ảnh hưởng đến công nghệ mới, sáng tạo sản phẩm và cơ hội thị trường mới. Đây được coi là yếu tố tạo khả năng cạnh tranh cho các ngân hàng, do vậy cần phải nắm bắt nhanh chóng xu hướng công nghệ để không bị lạc hậu và mất lợi thế trong cạnh tranh.  Môi trường chính trị pháp lý Hoạt động ngân hàng liên quan tới hệ thống lưu chuyển tiền tệ quốc gia, do đó cần có sự kiểm soát chặt chẽ hơn về phương diện pháp luật và
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng