Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng sức khỏe tâm trí học sinh trường thpt nguyễn trãi – huyện vũ thư – tỉ...

Tài liệu Thực trạng sức khỏe tâm trí học sinh trường thpt nguyễn trãi – huyện vũ thư – tỉnh thái bình năm 2012

.DOC
60
227
135

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI PHẠM THỊ HƯƠNG THỰC TRẠNG SỨC KHỎE TÂM TRÍ CỦA HỌC SINH TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRÃI HUYỆN VŨ THƯ – TỈNH THÁI BÌNH NĂM 2012 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN YTCC KHÓA 2009 – 2013 HÀ NỘI - 2013 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI PHẠM THỊ HƯƠNG THỰC TRẠNG SỨC KHỎE TÂM TRÍ CỦA HỌC SINH TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRÃI HUYỆN VŨ THƯ – TỈNH THÁI BÌNH NĂM 2012 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN YTCC KHÓA 2009 – 2013 Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Hoàn HÀ NỘI - 2013 LỜI CẢM ƠN Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới: Đảng ủy, Ban Giám Hiệu, Phòng đào tạo trường Đại học Y Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi cho em được học tập, rèn luyện và phấn đấu trong suốt bốn năm qua. Em cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến Ban chủ nhiệm khoa và toàn thể các thầy cô giáo trong Viện Đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng – Trường Đại học Y Hà Nội đã giảng dạy và tạo điều kiện cho em hoàn thành luận văn này Đặc biệt em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Lê Thị Hoàn giảng viên bộ môn Sức khỏe môi trường – Trường Đại học Y Hà Nội, cô đã hết lòng dìu dắt, hướng dẫn và giúp đỡ em thực hiện luận văn này. Tự đáy lòng mình em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cha mẹ và những người thân trong gia đình luôn tạo điều kiện tốt nhất, luôn động viên, khuyến khích và là chỗ dựa tinh thần lớn nhất của em trong suốt hơn 20 năm qua. Cuối cùng em xin cảm ơn tới các anh, các chị, các bạn luôn giúp đỡ, động viên, khuyến khích để em hoàn thành luận văn này. Em xin chân thành cảm ơn. Hà Nội, ngày 15 tháng 5 năm 2013 Sinh viên Phạm Thị Hương CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc *********** LỜI CAM ĐOAN Kính gửi:  Phòng Đào Tạo – Trường Đại học Y Hà Nội.  Viện Đào Tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng  Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp Em xin cam đoan đã thực hiện quá trình làm luận văn một cách khoa học, chính xác, trung thực, các kết quả, số liệu trong luận văn này đều là sự thật và chưa được đăng tải trên tài liệu khoa học nào. Nếu có bất kì sai sót nào em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, tháng 5 năm 2013 Sinh viên Phạm Thị Hương DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CSSK : Chăm sóc sức khỏe SKTT : Sức khỏe tâm trí THPT : Trung học phổ thông VTN : Vị thành niên WHO : Tổ chức Y tế thế giới 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Trên thế giới cũng như tại Việt Nam, các rối loạn sức khỏe tâm trí (SKTT) hiện đang chiếm tỷ trọng lớn trong gánh nặng bệnh tật hiện tại. Theo báo cáo năm 2001 của Tổ chức Y tế Thế giới, những rối loạn này chiếm khoảng 12% trên tổng số gánh nặng bệnh tật [8]. Một số nghiên cứu tại Việt Nam cũng chỉ ra tỷ lệ học sinh có vấn đề về SKTT dao động từ 8- 21% [12], [16]. Đặc biệt ở tuổi vị thành niên, khi tâm sinh lý đang phát triển mạnh mẽ, trẻ em rất dễ bị tác động bởi môi trường, gia đình và xã hội, phát sinh các rối loạn như: rối loạn hành vi, rối loạn cảm xúc quá mức với cấp độ khác nhau như sự chống đối, gây rối trong gia đình và ngoài xã hội, trốn học, bỏ học, bỏ nhà, trộm cắp, ma túy, mại dâm, bạo lực [20]. Thực tế những năm gần đây, rất nhiều vấn đề liên quan đến sức khỏe tâm trí học sinh trường học đã và đang nổi lên cần có sự quan tâm thích đáng và các giải pháp hành động của toàn xã hội, đó là do cuộc sống có nhiều biến động sinh ra các stress, tâm trí con người dễ bị rối loạn, đặc biệt là ở lứa tuổi học sinh trung học phổ thông (THPT), các em có nhiều thay đổi về sinh lý cũng như tâm lý, đó là giai đoạn có nhiều biến đổi nhất trong cuộc đời (các em buộc phải chọn ngành nghề cho tương lai, các em có những tình cảm mới lớn), hơn nữa bên cạnh những tác động từ chính nội tâm của các em cộng thêm những tác động từ bên ngoài ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lý của các em, ví dụ như các mối quan hệ, những yêu cầu của gia đình, thầy cô, nhà trường, xã hội. Đó là những nguyên nhân gây ra nhiều thay đổi trong tâm tư, tình cảm của các em, nếu những sự thay đổi đó không kiểm soát được sẽ sinh ra những rối loạn về mặt tâm lý cho các em. 2 Trong nhà trường cũng luôn luôn có một tỷ lệ học sinh có vấn đề về sức khỏe tâm trí, có 19,46% học sinh có rối nhiễu về tâm lý trong tổng số học sinh các cấp học, lam dụng chất gây nghiện đang tăng nhanh chóng, trong số các ca tự sát, 10% ở độ tuổi 10- 17 [8]. Theo nghiên cứu của Hoàng Cẩm Tú và Đặng Hoàng Minh nghiên cứu trên học sinh ở hai trường THPT Nguyễn Trãi (Hà Nội) và Vân Tảo (Hà Nội) cho thấy trẻ mắc các vấn đề về sức khỏe tâm trí chiếm 22,55% [13]. Tình hình sức khỏe tâm trí ngày càng phổ biến và đáng báo động, đòi hỏi Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và các cấp chính quyền có sự quan tâm chặt chẽ. Thái Bình là một tỉnh ven biển thuộc khu vực sông Hồng hiện nay chưa có nghiên cứu nào về vấn đề SKTT học sinh. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Thực trạng sức khỏe tâm trí học sinh trường THPT Nguyễn Trãi – Huyện Vũ Thư – Tỉnh Thái Bình năm 2012” với mục tiêu sau: 1. Mô tả tỷ lệ học sinh có vấn đề về sức khỏe tâm trí tại trường THPT Nguyễn Trãi – Huyện Vũ Thư –Tỉnh Thái Bình năm 2012 2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến vấn đề sức khỏe tâm trí của học sinh tại trường THPT Nguyễn Trãi – Huyện Vũ Thư – Tỉnh Thái Bình năm 2012. 3 Chương 1 TỔNG QUAN 1.1. Một số khái niệm 1.1.1. Sức khỏe Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) “sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái cả về thể chất, tâm thần và xã hội, chứ không phải chỉ bao gồm trạng thái không có bệnh hoặc thương tật” [5]. 1.1.2. Sức khỏe tâm trí Tổ chức Y tế thế giới (WHO) định nghĩaTheo từ điển tâm lý học, sức khỏe tâm trí “là một trạng thái thoải mái, dễ chịu về tinh thần, không có các biểu hiện rối loạn về tâm trí, một trạng thái đảm bảo cho sự điều khiển hành vi, hoạt động phù hợp với môi trường” [26]. Ở Việt Nam, khái niệm sức khỏe tâm trí, sức khỏe tinh thần và sức khỏe tâm thần thường được dùng lẫn lộn với nhau nhưng với ý nghĩa như nhau. Trong tiếng Việt từ tâm thần mang rất nhiều định kiến vì nó gắn liền với những bệnh tâm thần nặng như tâm thần phân liệt, động kinh (điên, cuồng, lên cơn giật) nên những nhà tâm lý thường sử dụng từ sức khỏe tâm trí nhằm làm giảm nhẹ những định kiến xã hội với sức khỏe tâm thần [11] Quan niệm về SKTT trẻ em ngày nay được xem là một thể liên tục từ phát triển tâm lý bình thường về các mặt đến bất thường bệnh lý, từ nhẹ đến nặng, có tính chất nhất thời hoặc kéo dài, bao gồm các trạng thái:  SKTT tốt: đạt các mốc phát triển tâm lý trong giai đoạn của lứa tuổi mình và không có biểu hiện lệch lạc.  SKTT bị tổn thương: không chỉ bó hẹp ở một tỷ lệ nhỏ các rối loạn tâm thần (10- 20%) như những bệnh tâm thần nặng, mạn tính hoặc các khuyết tật về tâm thần, mà còn bao gồm các trạng thái không thoải mái về tâm lý do 4 căng thẳng bởi các stress tâm lý từ phía môi trường sống gia đình, trường học, cộng đồng xã hội Như vậy, SKTT của một người được đánh giá tốt bao gồm:  Có cảm giác sống thực sự thoải mái, tin vào giá trị bản thân và phẩm chất- giá trị của người khác.  Có khả năng kiểm soát được cảm xúc tình cảm, nhận thức hành vi, ứng xử để vượt qua mọi thử thách trong cuộc sống.  Có khả năng tạo dựng, phát triển và duy trì các mối quan hệ thích hợp  Có khả năng tự hàn gắn sau các choáng tâm lý hay stress. Hiện nay xã hội phát triển quá nhanh, tạo cho con người nhiều áp lực cần giải tỏa, nhiều điều xã hội đòi hỏi con người không thể đáp ứng [4]. 1.1.3. Khái niệm rối loạn sức khỏe tâm trí Tổ chức Y tế thế giới cho rằng các vấn đề sức khỏe tâm trí bao gồm rất nhiều các vấn đề khác nhau từ nhẹ đến nặng với nhiều triệu chứng phong phú. Tuy nhiên, một cách khái quát, những triệu chứng này là sự kết hợp của những suy nghĩ cảm xúc, hành vi lệch lạc và mối quan hệ với người khác lệch lạc, ví dụ như trầm cảm, lo âu, stress đến chậm phát triển và những rối loạn liên quan đến lạm dụng chất gây nghiện [28]. Rối loạn SKTT là một tình trạng sức khỏe do bị rối loạn các chức năng nhận thức, cảm xúc, xã hội. Một người được coi là có vấn đề về SKTT khi được những người có chuyên môn y tế công nhận như bác sĩ tâm thần, cán bộ tâm lý lâm sàng [11]. 1.1.4. Đặc điểm tâm sinh lý giai đoạn vị thành niên (10- 19 tuổi) Lứa tuổi vị thành niên là một giai đoạn chuyển tiếp của sự phát triển từ tuổi ấu thơ sang người lớn [18] Đây là giai đoạn đặc biệt duy nhất của con người, nó được đánh dấu bằng những thay đổi đồng loạt và xen lẫn nhau từ giản đơn sang phức tạp bao gồm: sự chín muồi về thể chất, sự biến đổi điều chỉnh tâm lý và các quan hệ xã hội nhằm đáp ứng các nhiệm vụ phát triển. 5 Nhưng đây cũng là giai đoạn nảy sinh nhiều rối nhiễu tâm lý nhất so với các lứa tuổi khác. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) vị thành niên nằm trong độ tuổi từ 10- 19 tuổi [18] Các nhà sinh lý, tâm lý chia lứa tuổi vị thành niên thành 3 giai đoạn:  Giai đoạn vị thành niên sớm tương đương với tuổi thiếu niên: ˖ Nam 12- 13 tuổi ˖ Nữ 10- 12 tuổi  Giai đoạn vị thành niên giữa, tương đương với tuổi thiếu niên lớn: ˖ Nam 14- 16 tuổi ˖ Nữ 13- 16 tuổi  Giai đoạn cuối vị thành niên, tương đương với lứa tuổi đầu thanh niên: ˖ Nam 17- 19 tuổi ˖ Nữ 17- 18 tuổi [18] Giai đoạn 10- 19 tuổi của trẻ em thuộc vào giai đoạn vị thành niên được thừa nhận về văn hóa – xã hội là giai đoạn chuyển tiếp giữa tuổi ấu thơ và tuổi trưởng thành, ở tuổi này các em có nhiều biến động, chịu nhiều ảnh hưởng của môi trường, kinh tế, văn hóa, xã hội. Về mặt tâm lý, sinh lý, tuổi vị thành niên là thời kỳ phát triển chưa hoàn thiện, chưa đầy đủ của con người và là thời kì phát triển diễn ra những thay đổi cơ bản về thể chất, cũng như tinh thần, nhân cách Thời kì vị thành niên được đặc trưng bởi sự phát triển nhanh cả về trí tuệ lẫn thể lực. Giai đoạn phát triển thể lực này chỉ kém tốc độ phát triển của bào thai và những năm đầu của trẻ. Thời kì vị thành niên cũng đánh dấu sự 6 phát triển lớn về mặt xã hội các em có xu hướng thoát ly gia đình, ham muốn tìm hiểu khám phá xã hội để hòa nhập vào [4]. Bảng 1.1. Đặc điểm các giai đoạn của tuổi vị thành niên [18] Đặc điểm Phát triển sớm Giai đoạn đầu VTN (10- 13 tuổi) ˖ Tính sinh dục Giai đoạn giữa VTN (14- 16 tuổi) ˖ Tính sinh dục Giai đoạn cuối VTN (17- 19 tuổi) ˖Cơ thể đã trưởng thứ yếu phát sinh, thứ yếu phát triển thành phát triển ˖ Độ lớn giảm dần ˖Nữ giới hầu hết ˖ Độ lớn tăng vì đã đạt khoảng đều có kinh nhanh đến điểm 95% mức người ˖Nam giới “chín” cao nhất ˖ Hành kinh và về sinh dục. ˖ Hành kinh và sinh tinh sinh tinh ˖ Xuất hiện các rung động tình Nhận thức Tâm lý xã hội ˖Suy nghĩ những dục ˖ Suy nghĩ trìu ˖ Đã hình thành việc cụ thể tượng hơn tư duy trìu tượng ˖Có định hướng ˖ Cân nhắc việc ˖ Hướng tới về việc tồn tại lâu dài tương lai ˖Chưa nhận thức ˖ Quay lại tư duy ˖ Nhận thức định được các việc lâu trìu tượng khi bị hướng lâu dài dài sức ép. ˖ Chủ quan và ˖ Vấn vương bận ˖ Hình ảnh đẹp đẽ chống đối ˖ Xác định việc bịu vì thân hình của con người hình thành trí tuệ phát triển nhanh ˖ Mơ mộng và lý và các chức năng quá tưởng hóa tư duy 7 Gia đình ˖ Quan tâm nhiều ˖ Cảm giác toàn đến cơ thể ˖ Xác định ranh năng ˖ Xung khắc, ˖ Chuyển đổi quan giới của sự độc xung đột và kiềm hệ cha mẹ, con lập và phụ thuộc chế, nhẫn nhịn cái ˖ Tách dần ra khỏi ˖ Hình thành quan vòng tay cha mẹ ˖ Xác định nhu hệ người lớn ˖ Nhóm cùng tuổi với các bạn cùng cầu để khẳng thoát ly dần để lứa định bản thân nhường chỗ cho ˖ Tìm kiếm tính mình tình bạn ổn định ˖ Nhóm cùng tuổi Nhóm đồng đẳng ˖ So sánh mình xác định cách cư Tình dục Tác động ˖ Tự tiến tới và tự xử ˖ Vấn vương đánh giá những chuyện mơ hệ bền vững giúp ˖ Tò mò muốn tưởng lãng mạn, đỡ lẫn nhau: quan biết rõ khả năng hấp dẫn hệ hai chiều và kế ˖ Tự tìm hiểu người khác giới hoạch cho tương ˖ Gia đình thương lai ˖ Học đường (thầy ˖ Thuyết yêu, gần gũi cô gương mẫu) phục/thông cảm ˖ Giáo viên, cha ˖ Bạn bè ˖ Tránh áp đặt mẹ gần gũi ˖ Gia đình ˖ Hướng về lý ˖ Hình thành quan tưởng sống Đối với trẻ em lứa tuổi vị thành niên đang trong giai đoạn hình thành nhân cách, cá tính, do đó tính sĩ diện, háo thắng của trẻ rất lớn nhưng cũng rất 8 dễ bị tổn thương. Ở giai đoạn này các em phải đối diện với rất nhiều vấn đề mới mẻ, đặc biệt là ở lứa tuổi vị thành niên nhu cầu giao tiếp với bạn bè được thể hiện ở mức độ lớn nhất so với những giai đoạn khác trong cuộc đời con người [25]. Ở giai đoạn này các em bắt đầu có những hành động, những biểu hiện nhằm thỏa mãn các nhu cầu như: nhu cầu hiểu biết về những thay đổi trong cơ thể bản thân, nhu cầu đánh giá người khác về mình, nhu cầu được thông cảm và chia sẻ, nhu cầu khẳng định chính mình. Chính vì vậy, ở lứa tuổi này các em hay có những suy nghĩ và hành động cực đoan, những vấp ngã chết người, hoặc phát sinh rối nhiễu tâm lý, dưới con mắt của người lớn, đây là tuổi “khó bảo”, tuổi “chống đối”, hay “nổi loạn”, vì vậy các em thường thử những hành vi nguy hại và những hoạt động ảnh hưởng đến sức khỏe [4]. Tuổi vị thành niên thường xảy ra những khủng hoảng về tâm lý. Mức độ thể hiện cũng như giải quyết khủng hoảng của mỗi thiếu niên phụ thuộc một phần tố chất của người đó và phần lớn vào các giá trị mà người đó có được từ môi trường xã hội, nhóm xã hội đầu tiên- gia đình, trực tiếp nhất là bố mẹ. Bố mẹ thường đóng vai trò như những nhân vật lý tưởng. Trong giai đoạn này nếu thiếu niên phát hiện những giá trị mình có mâu thuẫn với giá trị chuẩn mực của xã hội, đương nhiên sẽ kéo theo cuộc khủng hoảng trầm trọng [4]. Nhóm bạn bè không chính thức cũng ảnh hưởng rất lớn đến hành vi và nhân cách của người chưa thành niên. Giới trẻ chịu tác động của bạn bè cùng trang lứa là mạnh nhất, thích dành sự nể trọng của nhóm hơn là của gia đình, xã hội [4]. Vị thành niên rất cần sự cảm thông chia sẻ, sự hiểu biết đồng cảm của người lớn, cha mẹ, bạn bè. Đây là giai đoạn mà các em thường tò mò và hay thử những hành vi tương đối nguy hại. Do bản tính tò mò, ham hiểu biết, các em tiếp nhận thông tin qua mạng, qua sách báo, phim ảnh một cách ồ ạt, thiếu chọn lọc, không phân biệt tốt xấu. Thêm vào đó, việc thiếu khả năng điều 9 chỉnh thông tin dẫn đến việc các em hành xử tự phát, vô ý thức, không phù hợp với những quy tắc, chuẩn mực của xã hội và trái với phát luật. Tuy hầu hết vị thành niên bước qua giai đoạn chuyển đổi mà không gặp trở ngại khó khăn gì nhưng cũng có một số vị thành niên tham dự vào những hành vi và hoạt động gây tổn hại đến sức khỏe. Chúng ta cần nỗ lực phòng ngừa những hành vi nguy hiểm của các em bằng cách nỗ lực phòng ngừa các vấn đề SKTT cho vị thành niên [4]. 1.2. Tình hình sức khỏe tâm trí trên thế giới và Việt Nam 1.2.1. Tình hình sức khỏe tâm trí trên thế giới Rối loạn SKTT là một trong những gánh nặng bệnh tật cho các xã hội. Những năm gần đây các quốc gia trên thế giới đều lo ngại tỷ lệ này gia tăng, đặc biệt là số lượng những trẻ em và vị thành niên trải nghiệm những khó khăn, có những biểu hiện có vấn đề SKTT trong quá trình phát triển, trong quá trình học tập và trong cuộc sống nói chung. Theo ước tính của Tổ Chức Y Tế Thế Giới, trên 25% dân số thế giới bị rối loạn tâm trí và hành vi tại một thời điểm nào đó trong cuộc đời [27]. Ở Trung Quốc, các nhà nghiên cứu thấy rằng áp lực từ kì thi chuyển cấp và gánh nặng học tập có liên quan đến tình trạng sức khỏe tâm trí kém ở các học sinh Trung Quốc [22], không những thế áp lực học tập cao cũng có thể dẫn đến bạo lực và các vấn đề phát triển [23]. Chúng ta đang sống trong một thế giới hiện đại, luôn biến động và phát triển không ngừng. Những tiến bộ khoa học- kĩ thuật đem lại cho con người nhiều thành tựu trong sản xuất, lao động, nâng cao đời sống vật chất – tinh thần, đáp ứng nhu cầu của con người. Con người không phải lao động cơ bắp vất vả, nặng nhọc, có nhiều thời gian để vui chơi giải trí, tuổi thọ của con người cũng gia tăng. Công việc lao động trí óc cũng được thay thế bằng máy 10 tính, công nghệ thông tin phát triển, có thể sử dụng các dịch vụ hết sức thuận tiện qua internet. Hiện nay, tình trạng học sinh sử dụng máy tính cho mục đích chơi game ngày càng tăng. Nghiện game online ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe tâm trí, kết quả học tập cũng như toàn bộ sinh hoạt trong cuộc sống của các em [4]. Tuy nhiên, cuộc sống hiện đại cũng đặt con người trước những thách thức lớn. Cuộc sống gấp gáp, công việc bận rộn, luôn phải cạnh tranh kiếm vị trí trong xã hội làm cho tinh thần con người luôn trong trạng thái căng thẳng. Ngoài ra dân cư tập trung đông đúc trong các đô thị lớn – nơi được coi là dễ sống hơn nông thôn – làm cho đô thị bị quá tải, công trình đô thị và các dịch vụ xã hội không đáp ứng kịp, kèm theo môi trường ô nhiễm, điều này cũng gây ra những ảnh hưởng xấu đến SKTT của học sinh. Vì vậy, trên thế giới có tới 7- 10% trẻ em và thanh thiếu niên mắc phải các rối loạn về SKTT cần điều trị. Tỷ lệ này cao hơn ở các vùng đô thị đông dân có nhiều yếu tố xã hội không thuận lợi, đặc biệt ở tuổi dậy thì. Những trạng thái tâm lý bệnh học trẻ em thường gặp là: Hành vi gây rối và chống đối xã hội (những rối loạn bên ngoài) có tỷ lệ mắc là 3- 5%, rối loạn cảm xúc (những rối loạn bên trong) có tỷ lệ gặp 2- 5%, những trở ngại tâm lý và rối loạn dạng cơ thể chiếm 1- 3%. Hiếm gặp hơn là các rối loạn tâm thần trẻ em và rối loạn sự phát triển nói chung (bệnh tự kỉ) gặp 0,1% [24] Những rối loạn về hành vi gây rối và chống đối xã hội thường gặp ở trẻ trai nhiều gấp 2 đến 3 lần trẻ gái. Tỷ lệ giữa nam và nữ tương đồng hơn với các rối loạn cảm xúc. 11 1.2.2. Tình hình sức khỏe tâm trí ở Việt Nam Ở các nước phát triển, mặc dù có hệ thống cơ sở hỗ trợ tâm lý và chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần lâu đời và phong phú, nhưng hầu hết các trẻ em có nhu cầu hỗ trợ SKTT đều không được đáp ứng thỏa đáng [12] Ở Việt Nam vấn đề sức khỏe tâm trí trẻ em mới bước đầu được dư luận chú ý qua các nghiên cứu và các hội thảo từ năm 2004 trở về sau. Một số các nghiên cứu cũng đã bước đầu đánh giá tỉ lệ học sinh có vấn đề về SKTT và thử nghiệm can thiệp (Ngô Thanh Hồi và cộng sự [9]; Hoàng Cẩm Tú và cộng sự, 2004 [13]; Lê Thị Kim Dung, Lã Thị Bưởi 2007 [3]; Văn Thị Kim Cúc [1], Hoàng Cẩm Tú [19]). Tuy nhiên vấn đề chăm sóc sức khỏe tâm trí trẻ em trong nhà trường vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Một số trường học đã có trung tâm tư vấn, hỗ trợ tâm lý như: một số trường phổ thông như trường dân lập Đinh Tiên Hoàng, trường THPT Trần Hưng Đạo, trường THPT Nguyễn Tất Thành (Hà Nội), Khánh Hội A (TP. HCM). Tuy nhiên, trung tâm tư vấn hoạt động còn đơn lẻ, chưa có tính hệ thống và chưa được pháp luật và thể chế giáo dục, y tế, xã hội quy định [12]. Nghiên cứu tại Hà Nội, trong 21.960 thanh niên đã phát hiện 3,7% các em có rối loạn hành vi [7]. Theo một khảo sát cắt ngang tại Việt Nam tỷ lệ học sinh có vấn đề về SKTT ở trường học là 15,94%, khảo sát cắt dọc trong một năm học là 1,6% các em có rối nhiễu về tâm lý trong tổng số học sinh các cấp học [14]. Khảo sát sức khỏe tâm trí học sinh trường trung học thành phố Hà Nội bằng công cụ SDQ của Tổ chức Y tế thế giới chuẩn hóa Việt Nam cho thấy trên mẫu nghiên cứu gồm 1.202 học sinh tiểu học và trung học cơ sở trong độ tuổi 1016 tuổi, tỷ lệ học sinh có vấn đề về sức khỏe tâm trí chung là 19,46%. Tỷ lệ này đối với nam, nữ không có gì khác biệt, những khó khăn về ứng xử trong nghiên cứu chiếm 9,23% [8]. 12 Đặng Hoàng Minh, Hoàng cẩm tú, năm 2009 sử dụng công cụ YSR thực hiện khảo sát trên 1727 học sinh lứa tuổi 11- 15 tuổi ở hai trường trung học cơ sở ở Hà Nội cho thấy tỷ lệ mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần là 10,94% [13]. Gần đây, bộ GD – ĐT đã có hướng dẫn các trường triển khai tư vấn việc làm và các vấn đề tâm lý xã hội trong các trường. Tuy vậy, vấn đề nhân sự cho công tác này cũng chưa được quy định và công nhận hợp pháp, các trường cũng chưa có biên chế cho các chuyên gia tâm lý để thực hiện nhiệm vụ này. Như vậy, để xây dựng một mô hình chăm sóc SKTT trong nhà trường một cách đồng bộ, cần có sự đầu tư về thời gian, tài chính, công sức, bao gồm các yếu tố như đội ngũ cán bộ và tập huấn cán bộ, nâng cao nhận thức về SKTT, phối hợp liên ngành. Trong sự phát triển sức khỏe toàn diện của trẻ em, việc chăm sóc sức khỏe (CSSK) thể chất tạo điều kiện cho trẻ em phát triển thể lực cường tráng, giảm khả năng mắc bệnh, tránh được nguy cơ tử vong do bệnh tật. Việc CSSK tâm trí đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển năng lực trí tuệ, tạo ra sự cân bằng về cảm xúc tình cảm, tính tự lập, tự tin, niềm tin yêu cuộc sống, tin yêu con người của mỗi đứa trẻ. Đó là nền tảng để mỗi đứa trẻ có thể phát huy được tiềm năng của chúng, xây dựng được một nhân cách lành mạnh, làm việc có sáng tạo. Đó cũng là động lực để tăng sức đề kháng với các yếu tố xã hội bất lợi. Công cuộc CSSK tâm trí cho trẻ em là một lĩnh vực khoa học liên ngành, kết hợp y học, tâm lý học, giáo dục học, xã hội học [12]. Một dẫn chứng cụ thể của việc trẻ vị thành niên bị rối nhiễu tâm lý dẫn đến hành vi tự tử đó là trường hợp tự tử tập thể của năm nữ sinh còn đang trong độ tuổi vị thành niên ở tỉnh Hải Dương vào ngày 24/5/2007 [17]. Sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với tốc độ nhanh chóng đã làm nảy sinh nhiều tác động lớn và làm tổn thương SKTT trẻ em, dẫn đến các rối 13 loạn stress, trầm cảm, tự tử, hành vi chống đối. Các hiện tượng trên ngày một gia tăng, thậm chí còn lên mức báo động và trở thành mối lo ngại chung cho từng gia đình, tổ chức, nhà nước của nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, với sự biến đổi của nền kinh tế thị trường, quá trình đô thị hóa, mở rộng giao lưu văn hóa liên quốc gia, mỗi người dân nói chung và trẻ em nói riêng đòi hỏi phải theo kịp sự phát triển của xã hội. Nảy sinh mâu thuẫn quan điểm giữa các thế hệ, mâu thuẫn giữa nhu cầu bản thân và sự đáp ứng của xã hội, gia đình; cấu trúc gia đình bị phá vỡ, chuẩn mực xã hội thay đổi. Đây là những stress tâm lý xã hội tác động không nhỏ đến tâm lý và gây tổn thương SKTT của trẻ em vị thành niên [4]. Hiện nay ở nước ta đã bắt đầu có những công trình nghiên cứu về rối nhiễu tâm trí ở tuổi vị thành niên. Kết quả cho thấy tình trạng đã ở mức đáng lo ngại. Các rối loạn tâm trí thường biểu hiện dưới dạng: trầm cảm, lo âu, hoảng loạn, rối loạn hành vi. Vụ việc các nữ sinh tự tử ở tỉnh Hải Dương một phần là do rối loạn hành vi, thường xảy ra với lứa tuổi từ 12- 17. Trong một thời điểm nào đấy, các em không đánh giá được hậu quả thực sự hành vi của mình. Những điều này không mới với các bậc cha mẹ và thầy cô giáo, có điều người lớn chưa chú ý đến những biểu hiện nguy cơ ở mức độ cần thiết, khi tai họa xảy ra thì đã muộn dù có cố gắng đi tìm nguyên nhân, tìm người chịu trách nhiệm [4]. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Viết Thêm cho thấy tỷ lệ người dân mắc rối loạn tầm thần loại này hay loại khác chiếm khoảng 15- 20% dân số [15]. Nghiên cứu dịch tễ học bệnh tâm thần của Trần Văn Cường cho kết quả 2,8% dân số có biểu hiện trầm cảm, 2,6% dân số có biểu hiện lo âu, và rối loạn hành vi ở thanh niên chiếm 0,9% dân số [2]. Các vấn đề sức khỏe tâm thần ở tuổi trẻ nếu không được quan tâm phòng ngừa và can thiệp phù hợp sẽ để lại nhiều hậu quả cho cá nhân, gia đình và xã 14 hội. Một trong những hậu quả nghiêm trọng của vấn đề là trẻ có thể có ý định tự tử và thực hiện hành vi tự tử. Vấn đề sức khỏe tâm thần cũng có ảnh hưởng lớn tới mối quan hệ của cá nhân với cá thành viên trong gia đình, với bạn bè, ảnh hưởng lớn đến kết quả học tập tại trường, năng suất lao động cũng như sự phát triển cá nhân. Vì vậy, việc phòng ngừa, chăm sóc, điều trị sức khỏe tâm thần cho lứa tuổi học sinh có tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn. 1.3. Các phương pháp/công cụ đo lường/đánh giá sức khỏe tâm trí Hiện nay có rất nhiều công cụ khác nhau được sử dụng trong nghiên cứu dịch tễ học tâm trí. Có thể chia chúng ra làm hai loại:  Các bảng hỏi có cấu trúc dựa trên các tiêu chuẩn chẩn đoán của ICD 10 hoặc DSM IV với hai bảng hỏi có cấu trúc nổi tiếng nhất là DIS và CIDI  Các bảng hỏi sàng lọc dựa trên thực chứng. Ba bộ công cụ được sử dụng nhiều nhất hiện nay là Bản tự thuật dành cho trẻ tù 11- 18 tuổi (YSR), Bảng kiểm kê hành vi dành cho cha mẹ (CBCL) và Bảng hỏi về những điểm mạnh và khó khăn (SDQ). Nếu chỉ tính đến những bảng hỏi điều tra trực tiếp trên trẻ em thì hai bộ công cụ được sử dụng nhiều nhất là YSR và SDQ [11]. Tuy nhiên, để phù hợp với mục đích nghiên cứu thì chúng tôi sử dụng bộ công cụ SDQ để đánh giá tình trạng SKTT học sinh. Đây là bộ công cụ sử dụng để đánh giá tình trạng sức khỏe tâm thần nói chung và vấn đề sức khỏe tâm thần về cảm xúc, hành vi, quá hiếu động, quan hệ bạn bè, giao tiếp xã hội. Bộ công cụ SDQ 25 được sử dụng trên 40 quốc gia trên thế giới cũng như một số nghiên cứu dịch tễ về SKTT ở lứa tuổi trẻ em 4- 16 tuổi tại Việt Nam. Bộ câu hỏi bao gồm các thước đo để đo lường tình trạng sức khỏe tâm trí của trẻ về năm khía cạnh: biểu hiện cảm xúc, hành vi, quá hiếu động, quan hệ bạn bè, quan hệ xã hội. Cách cho điểm dựa vào từng câu hỏi, điểm cao nhất trẻ đạt được là 40 điểm, thấp nhất là 0 điểm [6]. 15 Xác định vấn đề SKTT dựa trên tổng điểm chung của thang SDQ và tổng điểm các mục như sau: Bảng 1.1. Tính điểm bộ công cụ SDQ 25 Không đúng Mô tả Đúng một phần Rất đúng Điểm số Tổng điểm 0-10 Vấn đề cảm xúc 3 Hay than phiền là bị đau đầu, đau 0 1 2 bụng hoặc bị ốm 8 Có nhiều điều lo lắng, thường tỏ ra 0 1 2 lo lắng 13 Hay không vui, buồn bã hoặc mau 0 1 2 nước mắt 16 Hồi hộp hoặc sợ sệt trong những 0 1 2 0 1 2 tình huống mới, dễ bị mất tự tin 24 Hay sợ hãi, dễ bị hoảng sợ Vấn đề hành vi 5 Hay có những cơn nổi cáu hoặc tức 0-10 0 1 2 giận 7 Nhìn chung là ngoan ngoãn, luôn 2 1 0 làm điều người lớn sai bảo 12 Thường đánh nhau với những học 0 1 2 sinh khác hoặc la hét chúng 18 Hay nói dối, nói điêu 22 Lấy đồ của nhà, trường học hoặc nơi 0 0 1 1 2 2 khác Quá hiếu động 2 Bồn chồn, quá hiếu động, không ở 0-10 0 1 2 yên một chỗ được lâu 10 Liên tục bồn chồn hay lúc nào cũng 0 1 2
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan