Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Triết học Thực trạng sử dụng rượu bia của nam thanh niên...

Tài liệu Thực trạng sử dụng rượu bia của nam thanh niên

.DOCX
85
396
50

Mô tả:

Sử dụng rượu đã trở thành tập quán lâu đời trong đời sống gia đình và các cộng đồng dân cư. Ở nước ta, nhiều vùng coi rượu, bia như là vật chứng để thể hiện sự biết ơn của con người với trời đất, sự thành kính với tổ tiên, sự trọng thị của người thân, bạn bè và những người xung quanh. Bởi vậy mà rượu, bia là một thứ không thể thiếu trong các dịp lễ tết, hội hè…“Phi tửu bất thành lễ”. Đối với một số người rượu, bia còn là chuẩn mực đánh giá bản lĩnh, tính cách của nam giới “Nam vô tửu như kỳ vô phong”. Kinh tế nước ta ngày càng phát triển nên xu hướng sử dụng rượu, bia trong cuộc sống hằng ngày, những dịp lễ hội, quan hệ công việc…ngày càng gia tăng. Để đáp ứng sự gia tăng về nhu cầu sử dụng, các mặt hàng rượu, bia trên thị trường cũng trở nên phong phú hơn với nhiều loại và giá thành khác nhau. Theo điều tra về vị thành niên và thanh niên Việt Nam (SAVY) năm 2003 kết luận: “Tỉ lệ thanh niên đã có uống rượu bia rất cao, trong đó có một nhóm nhỏ say bia rượu thường xuyên”.[21] Điều này khiến nhiều người nhớ đến thông tin Việt Nam đứng đầu khu vực Đông Nam Á về tăng trưởng ngành rượu bia, với khoảng 3 tỷ USD/năm chi cho bia và khoảng 16.000 tỷ đồng/năm (tính theo mức giá rẻ nhất) cho rượu nhà máy. Lượng rượu, bia trung bình sử dụng trên thế giới không tăng trong 10 năm vừa qua, trong khi Việt Nam tăng trưởng theo đường thẳng đứng do năm 2010 ở mức 6,6 lít/người/năm, gần gấp đôi giai đoạn 2003-2005 là 3,8 lít. Việt Nam là nước đứng đầu Đông Nam Á về tiêu thụ rượu, bia. [22] Và con số đó vẫn không dừng lại, lượng rượu được sử dụng ở Việt Nam đang tiếp tục tăng. Dự báo đến 2025 ở mức 7 lít/người/năm. Ngoài ra còn lượng rượu lớn do dân tự nấu mà chưa đánh giá được con số chính xác. Điều đáng nói là chúng ta đang đối mặt với tình trạng gia tăng tai nạn giao thông, với gần 30 người chết mỗi ngày, mà 70% số vụ tai nạn lại có liên quan đến rượu, bia. Rượu, bia cũng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến 60% số vụ bạo hành gia đình ở Việt Nam. Nhiều tấn bi kịch gia đình, án mạng chết người đã xảy ra trong cơn say. Tai nạn xảy ra, phần lớn nạn nhân là thanh niên lái xe trong tình trạng say rượu, không làm chủ được tốc độ nên va chạm người khác hoặc tự gây tai nạn. Nhiều trường hợp, dù được cấp cứu kịp thời, thoát khỏi tử vong nhưng lại bị di chứng suốt đời như mất khả năng nhận thức, khả năng diễn đạt, không còn khả năng lao động,… Cũng vì có tí hơi men vào nên khi xảy ra va chạm người ta dễ nổi khùng, xông vào đánh nhau gây những chấn thương nguy kịch, thậm chí tử vong. Khi say, con người ta không làm chủ được ý thức, anh em, bạn bè đánh nhau vì lời ra tiếng vào, khi say rượu có thể gây những hành vi đáng tiếc, thậm chí phải trả giá bằng tính mạng. Bệnh viện Đà Nẵng cho biết, trong 5 ngày lễ (từ ngày 29/4 - 3/5-2015) đã tiếp nhận 580 trường hợp nhập viện trong đó vì tai nạn giao thông có 142 trường hợp, đánh nhau: 16 trường hợp… mà phần đông những trường hợp tai nạn giao thông hay đánh nhau này có liên quan đến cồn.[25] Còn theo một thống kê tại Việt Nam, các rối loạn do lạm dụng rượu (14%) là nguyên nhân hàng đầu của gánh nặng bệnh tật ở nam giới, tiếp đến là trầm cảm (11%) và tai nạn giao thông (8%). Khoảng 60% các vụ bạo lực gia đình, gần 30% số vụ gây rối trật tự xã hội và gần 70% vụ tai nạn giao thông là do sử dụng rượu, bia. 15% số giường ở bệnh viện tâm thần là dành cho người nghiện rượu. Đây là những con số đáng báo động. [23] Ai cũng nhận thức được ảnh hưởng của việc sử dụng rượu, bia nhưng cùng nhau “trăm phần trăm” đã trở thành thói quen trong nhiều cuộc liên hoan, ăn nhậu, thậm chí còn được xem là thước đo mức độ tình cảm hay bản lĩnh của cánh đàn ông trong các cuộc vui. Vẫn biết, uống rượu, bia từ lâu đã gắn với sinh hoạt đời thường của người Việt Nam. Nhưng nét văn hóa “đối ẩm” truyền thống nay đã ít nhiều bị biến tướng, khi rượu bia bị lạm dụng để người ta thách đố nhau.
MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Sử dụng rượu đã trở thành tập quán lâu đời trong đời sống gia đình và các cộng đồng dân cư. Ở nước ta, nhiều vùng coi rượu, bia như là vật chứng để thể hiện sự biết ơn của con người với trời đất, sự thành kính với tổ tiên, sự trọng thị của người thân, bạn bè và những người xung quanh. Bởi vậy mà rượu, bia là một thứ không thể thiếu trong các dịp lễ tết, hội hè…“Phi tửu bất thành lễ”. Đối với một số người rượu, bia còn là chuẩn mực đánh giá bản lĩnh, tính cách của nam giới “Nam vô tửu như kỳ vô phong”. Kinh tế nước ta ngày càng phát triển nên xu hướng sử dụng rượu, bia trong cuộc sống hằng ngày, những dịp lễ hội, quan hệ công việc…ngày càng gia tăng. Để đáp ứng sự gia tăng về nhu cầu sử dụng, các mặt hàng rượu, bia trên thị trường cũng trở nên phong phú hơn với nhiều loại và giá thành khác nhau. Theo điều tra về vị thành niên và thanh niên Việt Nam (SAVY) năm 2003 kết luận: “Tỉ lệ thanh niên đã có uống rượu bia rất cao, trong đó có một nhóm nhỏ say bia rượu thường xuyên”.[21] Điều này khiến nhiều người nhớ đến thông tin Việt Nam đứng đầu khu vực Đông Nam Á về tăng trưởng ngành rượu bia, với khoảng 3 tỷ USD/năm chi cho bia và khoảng 16.000 tỷ đồng/năm (tính theo mức giá rẻ nhất) cho rượu nhà máy. Lượng rượu, bia trung bình sử dụng trên thế giới không tăng trong 10 năm vừa qua, trong khi Việt Nam tăng trưởng theo đường thẳng đứng do năm 2010 ở mức 6,6 lít/người/năm, gần gấp đôi giai đoạn 2003-2005 là 3,8 lít. Việt Nam là nước đứng đầu Đông Nam Á về tiêu thụ rượu, bia. [22] Và con số đó vẫn không dừng lại, lượng rượu được sử dụng ở Việt Nam đang tiếp tục tăng. Dự báo đến 2025 ở mức 7 lít/người/năm. Ngoài ra còn lượng rượu lớn do dân tự nấu mà chưa đánh giá được con số chính xác. Điều đáng nói là chúng ta đang đối mặt với tình trạng gia tăng tai nạn giao thông, với gần 30 người chết mỗi ngày, mà 70% số vụ tai nạn lại có liên quan đến rượu, bia. Rượu, bia cũng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến 60% số vụ bạo hành gia đình ở Việt Nam. Nhiều tấn bi kịch gia đình, án mạng chết người đã xảy ra trong cơn say. Tai nạn xảy ra, phần lớn nạn nhân là thanh niên lái xe trong tình trạng say rượu, không làm chủ được tốc độ nên va chạm người khác hoặc tự gây tai nạn. Nhiều trường hợp, dù được cấp cứu kịp thời, thoát khỏi tử vong nhưng lại bị di chứng suốt đời như mất khả năng nhận thức, khả năng diễn đạt, không còn khả năng lao động,… Cũng vì có tí hơi men vào nên khi xảy ra va chạm người ta dễ nổi khùng, xông vào đánh nhau gây những chấn thương nguy kịch, thậm chí tử vong. Khi say, con người ta không làm chủ được ý thức, anh em, bạn bè đánh nhau vì lời ra tiếng vào, khi say rượu có thể gây những hành vi đáng tiếc, thậm chí phải trả giá bằng tính mạng. Bệnh viện Đà Nẵng cho biết, trong 5 ngày lễ (từ ngày 29/4 - 3/5-2015) đã tiếp nhận 580 trường hợp nhập viện trong đó vì tai nạn giao thông có 142 trường hợp, đánh nhau: 16 trường hợp… mà phần đông những trường hợp tai nạn giao thông hay đánh nhau này có liên quan đến cồn.[25] Còn theo một thống kê tại Việt Nam, các rối loạn do lạm dụng rượu (14%) là nguyên nhân hàng đầu của gánh nặng bệnh tật ở nam giới, tiếp đến là trầm cảm (11%) và tai nạn giao thông (8%). Khoảng 60% các vụ bạo lực gia đình, gần 30% số vụ gây rối trật tự xã hội và gần 70% vụ tai nạn giao thông là do sử dụng rượu, bia. 15% số giường ở bệnh viện tâm thần là dành cho người nghiện rượu. Đây là những con số đáng báo động. [23] Ai cũng nhận thức được ảnh hưởng của việc sử dụng rượu, bia nhưng cùng nhau “trăm phần trăm” đã trở thành thói quen trong nhiều cuộc liên hoan, ăn nhậu, thậm chí còn được xem là thước đo mức độ tình cảm hay bản lĩnh của cánh đàn ông trong các cuộc vui. Vẫn biết, uống rượu, bia từ lâu đã gắn với sinh hoạt đời thường của người Việt Nam. Nhưng nét văn hóa “đối ẩm” truyền thống nay đã ít nhiều bị biến tướng, khi rượu bia bị lạm dụng để người ta thách đố nhau. Trong thực trạng sử dụng rượu bia hiện nay, điều đáng nói đến ở đây là số lượng thanh niên lạm dụng rượu, bia có xu hướng tăng, không gian uống rượu bia được mở rộng, cả lúc vui, cả lúc buồn, cả trong ngày lễ tết và cả trong các ngày thường…. Theo “điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam” (SAVY) năm 2003, kết luận: “Tỉ lệ thanh niên đã có uống rượu bia rất cao, chủ yếu là nam, trong đó có một nhóm nhỏ say bia, rượu thường xuyên”. Còn theo báo cáo của Vụ học sinh, sinh viên (Bộ GD-ĐT) trong “Hội thảo tổng kết năm năm thực hiện chương trình quốc gia phòng chống tội phạm” (tháng 12-2004), 90% những vụ vi phạm pháp luật trong học sinh, sinh viên là do bia rượu gây ra. Xuất phát từ thực trạng như vậy chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu hành vi sử dụng rượu, bia của sinh viên nam trường Đại học Sư phạm- Đại học Đà Nẵng.” 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu hành vi sử dụng rượu bia của nam sinh viên trường đại học Sư phạm- Đại học Đà Nẵng. Từ đó đề xuất những biện pháp tác động nhằm hạn chế việc sử dụng rượu, bia của nam sinh viên trường Đại học Sư Phạm- Đại học Đà Nẵng. 3. Đối tượng nghiên cứu Hành vi sử dụng rượu, bia của sinh viên nam trường Đại học Sư phạm- Đại học Đà Nẵng 4. Khách thể nghiên cứu Nam sinh viên trường Đại học Sư Phạm- Đại học Đà Nẵng. 5. Khách thể khảo sát 200nh viên nam trường Đại học Sư phạm- Đại học Đà Nẵng. 6. Giả thuyết khoa học Tỷ lệ sử dụng rượu, bia của sinh viên nam trường ĐHSP- ĐHĐN hiện nay khá cao. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như: ảnh hưởng từ gia đình, thất tình, chán đời, cô đơn, muốn khẳng định mình, đua đòi,…gây nhiều tác hại đối với bản thân, gia đình và xã hội. Trên cơ sở những phát hiện về hành vi sử dụng rượu, bia của nam sinh viên trường ĐHSP- ĐHĐN cho phép chúng tôi đưa ra biện pháp khắc phục phù hợp. 7. Nhiệm vụ nghiên cứu Với đề tài này chúng tôi có ba nhiệm vụ cụ thể sau: - Nhiệm vụ 1: Xây dựng lí luận liên quan đến hành vi sử dụng rượu, bia của nam sinh viên. - Nhiệm vụ 2: Thực trạng về hành vi sử dụng rượu, bia của nam sinh viên trường Đại học Sư phạm- đại học Đà Nẵng. - Nhiệm vụ 3: Đề xuất những giải pháp nhằm thay đổi hành vi sử dụng rượu, bia của nam sinh viên trường Đại học Sư Phạm- Đại học Đà Nẵng. 8. Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi không gian: Trường Đại học Sư phạm- Đại học Đà Nẵng. Phạm vi thời gian: từ 1/2015 đến tháng 5/2015. Phạm vi nội dung: Do điều kiện hạn chế, trong phạm vi của đề tài chúng tôi chỉ nghiên cứu hành vi sử dụng rượu bia của nam sinh viên trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng ở các khía cạnh sau: nhận thức về việc sử dụng rượu, bia; hành vi ứng xử và thái độ mong muốn hạn chế sử dụng rượu, bia. 9. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu lý luận. - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn. + Phương pháp trò chuyện. + Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi. + Phương pháp quan sát. - Phương pháp thống kê trong toán học. 10. Bố cục của bài nghiên cứu Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo. Nội dung chính gồm có 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu Chương 3: Kết quả nghiên cứu NỘI DUNG Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu về hành vi sử dụng rượu, bia. 1.1.1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu về hành vi sử dụng rượu, bia trên thế giới. Báo cáo toàn cầu về thực trạng rượu, bia và sức khỏe 2011-WHO thì thế giới tiêu thụ 6,13 lít/người/năm và mức độ tiêu thụ dường như không có sự thay đổi trong suốt thập kỷ qua (WHO, 2011). Còn theo kết quả về một nghiên cứu về sử dụng bia tại 12 quốc gia đang phát triển cho thấy 50% nam giới có uống rượu ít nhất 1 lần/tuần. Người già có khuynh hướng sử dụng rượu, bia hằng ngày nhiều hơn so với nhóm thanh niên. Nam giới có khuynh hướng sử dụng rượu, bia nhiều hơn nữ giới. Số liệu về sử dụng đồ uống có cồn cho thấy, mức tiêu thụ bình quân/người (>15 tuổi)/năm là 6,13 lít cồn nguyên chất, trong đó 28,6% (tương đương 1,76 lít) là từ các đồ uống có cồn do gia đình tự nấu hoặc được sản xuất bất hợp pháp (được gọi là unrecorded alcohol - đồ uống có cồn không chính thống). Mức tiêu thụ đồ uống có cồn rất khác nhau giữa các quốc gia và khu vực. Các quốc gia có mức tiêu thụ cao nhất là các nước phát triển, hầu hết thuộc vùng Bắc bán cầu. Một số nước như Ac-hen-ti-na, Úc, Niu-Di-Lân, Nam Phi, Bắc Mỹ và Nam Mỹ có mức tiêu thụ trung bình. Các nước ở Bắc Phi, cận Sahara, Đông Địa Trung Hải, Nam Á và Ấn Độ Dương tiêu thụ ở mức thấp do đây là các khu vực có tỷ lệc cao dân cư theo đạo Hồi (không cho phép người dân sử dụng đồ uống có cồn). Các loại đồ uống có cồn được tiêu thụ hàng năm trên thế giới gồm: Rượu mạnh (spirit) chiếm 45%; bia chiếm 36%; rượu nhẹ (wine) chiếm 11%; đồ uống có cồn khác chiếm 11%. Xu hướng chung trên toàn cầu cho thấy bia là loại đồ uống có cồn được tiêu thụ tăng nhanh hơn so với rượu trong những thập kỷ gần đây. Đồ uống có cồn không chính thống đang là vấn đề nan giải ở tất cả các khu vực trên toàn cầu do các sản phẩm này có thể chứa các chất gây hại, ảnh hưởng bất lợi đến sức khỏe người sử dụng trong khi lượng tiêu thụ như đã nêu là khá lớn. Các quốc gia có mức tiêu thụ đồ uống có cồn càng thấp thì có tỷ lệ tiêu dùng sản phẩm không chính thống càng cao. Các nước nghèo và các nước đang phát triển thường sử dụng các sản phẩm đồ uống không chính thống nhiều hơn các nước phát triển. Ở Đông Địa Trung Hải và Đông Nam Á, những sản phẩm không chính thống chiếm đến 56,2% và 69% mức tiêu thụ đồ uống có cồn trung bình/ người/năm. Hàng năm trên thế giới có 2,5 triệu người/năm = 3,8% tử vong toàn cầu do rượu, bia chủ yếu tập trung ở nam giới tuổi 15-59. Nếu tính đến ảnh hưởng có lợi của sử dụng rượu bia hợp lý đối với bệnh tim mạch thì tổng số các trường hợp tử vong liên quan đến sử dụng rượu, bia là 2,25 triệu (năm 2004)- GNBT toàn cầu (tử vong và không tử vong- DALYs). Rượu, bia là nguyên nhân gây ra 20 - 50% trường hợp ung thư, động kinh, ngộ độc, tai nạn giao thông và một số loại ung thư. Phí tổn về kinh tế, chiếm 2% - 8% GDP của mỗi quốc gia. Chi phí cho sử dụng rượu bia chiếm 11% thu nhập hộ GĐ tại Ru Ma Ni; 24% ở Ấn Độ và >30% ở Srilanca… Rượu bia là yếu tố nguy cơ thứ 3 toàn cầu, là yếu tố nguy cơ hàng đầu ở khu vực Tây Thái Bình Dương và ở châu Mỹ, là yếu tố nguy cơ thứ hai ở châu Âu. 1.1.2 Tổng quan vấn đề nghiên cứu về hành vi sử dụng rượu, bia tại Việt Nam. Trong khi mức tiêu thụ đồ uống có cồn của toàn thế giới trong gần 2 thập kỷ qua hầu như không thay đổi thì Việt Nam lại là một trong số ít quốc gia có xu hướng tăng nhanh. Mức tiêu thụ rượu bia bình quân/người/năm quy đổi ra cồn nguyên chất đã tăng từ 1,35lít năm 2001 lên 3,3 lít năm 2007; 3,54 lít năm 2008 và khoảng 4 lít năm2010, trong đó tỷ trọng từ bia cao hơn từ rượu. Năm 2008, trong 3,54 lít cồn nguyên chất được tiêu thụ bình quân/người, bia chiếm 51,4%, tương đương 1,82 lít (BộCông thương, 2009). Mức tiêu thụ bia, rượu của người Việt Nam trong 10 năm trở lại đây tăng gấp 2 lần, dự báo đến năm 2025 sẽ tăng lên đến 7 lít/người/năm. Những năm gần đây, rượu tự nấu không bảo đảm chất lượng hoặc các loại rượu được sản xuất/chế biến không hợp pháp đang là vấn đề rất đáng lo ngại ở Việt Nam. Theo thông lệ phân loại quốc tế, những đồ uống có cồn không chính thống này chiếm tỷ trọng rất cao, ước tính có thể chiếm tới khoảng 70% mức tiêu thụ bình quân/người/năm ở Việt Nam (TCYTTG, 2012). Tình trạng gian dối trong kinh doanh rượu hoặc rượu tự pha chế, chủ yếu là pha Methanol gây hậu quả chết người vẫn còn ghi nhận tại một số địa phương. Năm 2008, tỷ lệ có sử dụng rượu bia là 79,9% đối với nam giới và 36,5% đối với nữ giới, trong đó có 60,5% nam giới và 22% nữ giới cho biết đã từng say rượu bia. Việt Nam còn đang phải đối mặt với tình trạng gia tăng nhanh tỷ lệ vị thành niên và thanh niên sử dụng rượu bia. Tỷ lệ sử dụng rượu bia trong vị thành niên và thanh niên đã tăng gần 10% sau 5 năm (từ 51% năm 2003 lên 60% năm 2008). Tỷ lệ có sử dụng rượu bia trong nhóm tuổi không được pháp luật cho phép (14-17 tuổi) đã tăng từ 34,9% lên 47,5% và trong độ tuổi 18-21 cũng đã tăng từ 55,9 lên 67%. Ngày 12/2/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định 244 về Chính sách quốc gia phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia và đồ uống có cồn khác đến năm 2020. Chính sách này được xây dựng từ các quan điểm: Nhà nước không khuyến khích người tiêu dùng sử dụng rượu, bia; mọi người có quyền được bảo vệ khỏi ảnh hưởng bởi tác hại của lạm dụng rượu, bia; việc sản xuất, kinh doanh, sử dụng rượu, bia được kiểm soát toàn diện, đồng bộ, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Chính sách quốc gia đề ra 7 mục tiêu, trong đó có việc giảm dần, tiến tới chấm dứt lưu thông rượu, bia “dỏm” trên thị trường; giảm mức gia tăng tỷ lệ tiêu thụ rượu bình quân/người trưởng thành/năm (quy đổi theo rượu nguyên chất) từ 12,1% giai đoạn 20072010 xuống còn 10% giai đoạn 2013-2016 và 6,5% giai đoạn 2017-2020. Đồng thời phòng ngừa, ngăn chặn, hạn chế người dưới 18 tuổi và các đối tượng cán bộ, công chức, viên chức tiếp cận, sử dụng rượu bia; phòng ngừa bạo lực gia đình, gây rối trật tự công cộng do lạm dụng rượu bia. Ngoài ra có rất nhiều công trình nghiên cứu về rượu, bia như: “Hành vi nghiện dưới góc độ tâm lý học” của PGS. TS. Huỳnh văn sơn (chủ biên); “Mức độ nghiện rượu bia ở nam sinh viên Và người trưởng thành trẻ tuổi tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” của PGS.TS Huỳnh Văn Sơn; “Thực trạng sử dụng rượu bia trong nam thanh thiếu niên ở Hà Nội” của Trần Thanh Loan hay “Hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên khóa 8 khoa kinh tế -quản trị kinh doanh Trường Đại Học An Giang”. Tóm lại, có rất nhiều công trình nghiên cứu về tác hại của việc lạm dụng rượu bia. Tuy nhiên các công trình vẫn chưa đi sâu nghiên cứu về hành vi sử dụng rượu bia nhưng đó là cơ sở cho chúng tôi đi sâu và tìm hiểu đề tài. 1.2 Lý luận về hành vi sử dụng rượu, bia 1.2.1 Khái niệm hành vi Hiện nay trong lí luận cũng như thực tiễn, thuật ngữ hành vi chưa được xác định một cách rõ ràng, dứt khoát. Nói chung, con người vẫn dùng thuật ngữ hành vi cho cả động vật và người. Ở người, thuật ngữ hành vi, hành động, hoạt động, việc làm, cách cư xử thường được dùng thay thế lẫn nhau tùy trường hợp, tùy văn cảnh. Theo X.L.Rubinshtejn: Hành vi là kết quả của hành động tích cực của chủ thể đối với các đối tượng chủ thể gặp trong một hoàn cảnh nào đó [4, tr. 172]. Hành vi con người không còn đơn thuần là hành vi phản ứng mà thành hành vi tích cực. Theo A.N.Leonchiev, hành vi không phải là những phản ứng máy móc của một cơ thể sinh vật, mà hành vi phải được hiểu là hoạt động. Theo Hersey và Hard, đơn vị cơ sở của hành vi là một hành động. Toàn bộ hành vi là một chuỗi hành động [4, tr. 29]. Theo từ điển tâm lý học của Nguyễn Khắc Viện (1995), trang 138, Nxb Thế Giới Trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ em, Hà Nội: Hành vi là từ ứng xử chỉ mọi phản ứng của một động vật khi bị một yếu tố nào đó trong môi trường kích thích; các yếu tố bên ngoài và tình trạng bên trong gộp thành một tình huống, và tiến trình của ứng xử để thích ứng có định hướng nhằm giúp chủ thể thích nghi với hoàn cảnh. Khi nhấn mạnh về tính khách quan, tức là các yếu tố bên ngoài kích thích cũng như phản ứng đều là những hiện tượng có thể quan sát được, chứ không như tình ý bên trong, thì nó là ứng xử. Khi nhấn mạnh định hướng, mục tiêu thì gọi là hành vi. Trong Tâm lí học xã hội thì hành vi được quan niệm như “hành động hay ý định hành động mà cá nhân sẽ ứng xử với đối tượng”. Khi nói đến hành vi người, chúng ta hiểu đó “là những biểu hiện bên ngoài của hoạt động, được điều chỉnh bởi cấu trúc tâm lí bên trong của chủ thể” [6, tr.325]. Theo Phạm Minh Hạc, hành vi là những biểu hiện bên ngoài của hoạt động và bao giờ cũng gắn liền với động cơ, mục đích [5, tr. 105]. Theo Từ điển Tâm lí học, Vũ Dũng định nghĩa: Hành vi là sự tác động qua lại giữa cơ thể sống với môi trường xung quanh, do tính tích cực bên ngoài (kích thích) và bên trong (nhu cầu) thúc đẩy. Thuật ngữ hành vi dùng để chỉ hành động của các cá thể riêng biệt hay của nhóm, loài (hành vi một chủng loại sự vật hay một nhóm xã hội [7, tr. 259] Theo Pgs.Ts Huỳnh Văn Sơn: Hành vi là những biểu hiện ra bên ngoài nhưng lại thống nhất với cấu trúc tâm lí bên trong của nhân cách, là sự thống nhất giữa hình thức bên ngoài và nội dung tâm lí bên trong. Hành vi bên ngoài chỉ là biểu hiện của một đời sống tâm lí bên trong và được điều chỉnh bởi cấu trúc tâm lí bên trong của nhân cách [8] Theo từ điển Tâm lý học của PGS.TS Lê Quang Sơn [14] Hành vi là hình thức biểu hiện tính tích cực vận động có thể quan sát được từ bên ngoài của những thực tế sống, bao gồm từ những thời điểm cử động đến mắt xích thực hiện ở trình độ cao sự tác động qua lại của cơ thể với môi trường xung quanh. Hành vi là một hệ thống có mục đích rõ ràng được thực hiện liên tiếp. Những hành động này tiến hành sự tiếp xúc thực tế của cơ thể với những điều kiện xung quanh tạo ra những mối liên hệ của thực tế sống với những tính chất của môi trường. Những điều kiện xung quanh chuẩn bị thỏa mãn nhu cầu cơ thể, đảm bảo sự đạt được những mục đích nhất định. Ở mức độ hoạt động bị quy định bởi đời sống xã hội, thuật ngữ “hành vi” có nghĩa như những hành động của con người trong suốt mối quan hệ với xã hội, với những người khác và thế giới đối tượng. Nó được xem xét như là những hành động được điều khiển bởi những chuẩn mực xã hội về đạo đức và quyền lợi. Những đơn vị của hành vi là những hành động, trong đó hình thành và đồng thời thể hiện vị thế của nhân cách, niềm tin đạo đức của nhân cách. Ở những lĩnh vực khác nhau thì có những định nghĩa khác nhau về hành vi nhưng nhìn chung chúng đều có nhiều yếu tố tương đồng, từ đó có thể hiểu hành vi là những phản ứng, cách ứng xử biểu hiện ra ngoài của một người trong một hoàn cảnh cụ thể nhất định. 1.3.1 Khái niệm hành vi sử dụng rượu, bia Hành vi sử dụng là cách ứng xử của con người đối với những phương tiện, những công cụ, những cơ sở vật chất nhằm đạt được mục đích của chủ thể - con người. Những yếu tố tạo nên hành vi sử dụng: + Những hành động cấu thành phải là những hành động có mục đích. + Những hành động này phải tác động lên các công cụ, phương tiện nhằm đạt được mục đích. + Những hành động tạo nên hành vi sử dụng phải chứa đựng tình cảm, thái độ đối với khách thể chịu tác động của hành động như sự thích thú, sự chán nản, sự tích cực, hay sự không quan tâm tới những việc mình đang làm. Như vậy, có thể hiểu: Hành vi sử dụng rượu bia là một hiện tượng đa dạng và phức tạp nó tồn tại ở mọi nơi, trong tiến trình phát triển của xã hội. Có 4 cấp độ nguy cơ trong sử dụng rượu bia là: Mức độ an toàn – nguy cơ thấp, mức độ có hại, mức độ nguy hiểm, mức độ phụ thuộc/nghiện rượu bia. Trong đó, việc sử dụng rượu bia chỉ an toàn và có nguy cơ thấp là khi người sử dụng không nên uống và nếu uống thì chỉ nên giữ ở mức không quá 2 đơn vị rượu/ngày đối với nam và không quá 1 đơn vị rượu/ngày đối với nữ. Tuy nhiên, trên thực tế ở nước ta, việc sử dụng rượu bia nhằm những mục đích giải tỏa, vui chơi là chính, do vậy nên hầu như người sử dụng rượu bia đều sử dụng gấp nhiều lần giới hạn trên. Ngoài ra, người ta cũng khuyến cáo cấp độ an toàn nói trên chỉ là lý thuyết trong điều kiện lý tưởng. Việc áp dụng phải tính toán theo thực trạng sức khỏe của mỗi người. 1.3.2 Phân loại hành vi sử dụng rượu, bia Trong phạm vi phần này, chúng tôi phân loại hành vi căn cứ vào khía cạnh giá trị. Nghĩa là, hành vi con người sẽ được phân loại thành hai hướng chính: Hành vi tích cực và hành vi tiêu cực - Hành vi sử dụng rượu, bia tích cực: Đó là các hành vi lành mạnh, sử dụng rượu bia một cách có chừng mực - Hành vi sử dụng rượu, bia tiêu cực: Là các hành vi có nguy cơ hoặc có tác động xấu đến một cá nhân, một nhóm người hay có thể cả một cộng đồng thực hành, lạm dụng rượu, bia một cách quá mức 1.3.3 Nguyên nhân của hành vi sử dụng rượu, bia Nguyên nhân cá nhân Ngoài ra, các khác biệt khác có nguyên nhân từ di truyền cũng đang được thảo luận, thí dụ như việc phân hủy rượu trong cơ thể hay trao đổi các chất dẫn truyền thần kinh (neurotransmitter). Các yếu tố di truyền đóng một vai trò quyết định trong nhiều trường hợp, bằng chứng là rất nhiều người nghiện rượu đã hoặc đang có người nghiện rượu trong gia đình. Thế nhưng các nhà khoa học và bác sĩ chuyên ngành vẫn chưa kết luận được là việc nghiện rượu trong những trường hợp này thật sự là được di truyền lại hay chỉ là bắt chước. Qua một số nghiên cứu (ở những người sinh đôi) người ta phỏng đoán là rất có thể có khả năng di truyền của tiềm năng nghiện. Quan niệm “uống rượu là cách xã giao, là phương tiện không thể thiếu khi đi làm” và “uống rượu giúp tôi giao tiếp bản lĩnh hơn với bạn bè” . Điều này một mặt cho thấy trong quan niệm của sinh viên và người trưởng thành trẻ tuổi mục đích của việc uống rượu bia là hướng về mặt giao tiếp, xã giao trong công việc hoặc cuộc sống; mặt khác phản ánh thực tế về “văn hóa nhậu trong gặp mặt và kinh doanh” vẫn đang ăn sâu vào suy nghĩ, nếp sống của người Việt trẻ. Bên cạnh đó, không ít bạn cho rằng đôi khi có quan niệm “uống rượu là cách thể hiện mình đã trưởng thành”, “rượu giải tỏa những cảm xúc tiêu cực, sự căng thẳng hay những nỗi buồn bất tận”, “uống rượu thể hiện bản chất đàn ông”, “trong tương lai, xã hội không thể sống thiếu rượu”. Ở đây, sự tồn tại của các quan niệm như: Xem rượu như một cách thức thể hiện bản thân, giới tính, giải sầu và thậm chí là khẳng định sự hiện diện tất yếu của rượu bia trong cuộc sống tương lai thật sự đáng phải quan tâm. Chính những yếu tố lệch lạc trong quan niệm như thế sẽ đóng vai trò chi phối, ảnh hưởng quan trọng đến hành vi uống rượu và nghiện rượu của cá nhân. Nguyên nhân chính dường như nằm trong diễn biến về tâm lí xã hội. Rượu, bia thường được dùng để làm giảm bớt căng thẳng nội tâm. Những căng thẳng này xuất hiện khi nhận thức của một con người bị đe doạ bởi những kinh nghiệm trái ngược lại trong thực tế. Áp lực về tâm lý: Áp lực về học tập và cuộc sống khiến SV dễ rơi vào trạng thái căng thẳng, nặng nề. Chính trạng thái tâm lý này khiến SV tìm đến rượu, bia như một phương thức “giải sầu”. Mặc khác nếu SV không khẳng định được bản thân ở trong các lĩnh vực nên tìm cách khẳng định mình “trong mâm nhậu”, để được mọi người nể phục. Nguyên nhân về mặt xã hội Rượu, bia là một chất gây nghiện được xã hội công nhận tuy nhiên rượu, bia có thể dễ dàng kiếm được, rẻ tiền và ngay trong một số trường hợp việc uống rượu được dự kiến trước. Do tư tưởng dùng rượu bia để giao tiếp, những người đàn ông có tửu lượng cao thường được xem là có tính khí đàn ông, đáng khâm phục và từng trải. Bên cạnh đó quảng cáo rượu, bia tràn lan. Hiện nay hoạt động quảng cáo rượu, bia chưa có quy định hạn chế nào. Do đó, việc quảng cáo rượu, bia như hàng hóa, dịch vụ bình thường, không hạn chế về đối tượng tiếp cận, nội dung, thời gian và không gian quảng cáo. Theo thạc sĩ Trần Thị Trang, Vụ phó Pháp chế, Bộ Y tế ho rằng, hiện Luật Quảng cáo chỉ quy định cấm quảng cáo đối với “rượu từ 15 độ trở lên” tức là hoạt động quảng cáo đối với rượu dưới 15 độ và bia là không bị kiểm soát về đối tượng tiếp cận, nội dung, thời gian và không gian quảng cáo. Do đó, việc quảng cáo đối với các sản phẩm này hiện nay được thực hiện như đối với hàng hóa thông thường.[27] . Quảng cáo tràn lan dễ làm lệch lạc nhận thức, nhất là của giới trẻ về rượu, bia. Hiện nay hoạt động quảng cáo bia chưa có quy định nào hạn chế nào. Do đó, việc quảng cáo bia như hàng hóa, dịch vụ bình thường, không hạn chế về đối tượng tiếp cận, nội dung, thời gian và không gian quảng cáo. Các quy định về hạn chế tính sẵn có và nhu cầu sử dụng rượu, bia còn thiếu rất nhiều như: Quy định liên quan đến việc trưng bày rượu, bia và in cảnh báo sức khỏe trên nhãn sản phẩm rượu, bia; quy định hạn chế quảng cáo, khuyến mãi rượu dưới 15 độ và bia; quy định kiểm soát hoạt động tài trợ nhằm tiếp thị của các mặt hàng bia của các cơ sở kinh doanh bia; quy định về ngày, giờ bán lẻ rượu, bia, ; quy định về địa điểm cấm bán và sử dụng rượu, bia… Thiếu quy định nhằm huy động sức mạnh cộng đồng tham gia vào can thiệp giảm tác hại đối với lạm dụng rượu, bia như việc quy định cụ thể đối với lĩnh vực xây dựng đời sống văn hoá cơ sở không rượu, bia hoặc sử dụng hạn chế rượu, bia: Gia đình văn hoá, làng (thôn, bản, ấp…) văn hoá; tổ dân phố văn hoá; cơ quan, đơn vị văn hoá, cưới, việc tang, lễ hội văn minh. Trong khi đây là một kênh quan trọng vì tại Việt Nam việc uống rượu đã được coi là một "văn hóa" gắn nhiều với các hoạt động của cộng đồng. Nguyên nhân từ gia đình: Gia đình được xem là bối cảnh xã hội quan trọng nhất, đó là xã hội thu nhỏ mà lần đầu tiên cá nhân được tiếp xúc góp phần hình thành nhân cách của cá nhân. Thông qua môi trường gia đình mà cá nhân được học hỏi các chuẩn mực, các giá trị mà xã hội đặt ra. Mặc dù gia đình không hoàn toàn quyết định sự phát triển của cá nhân, nhưng những yếu tố quan trọng nhất của nhân cách, những hành vi thể hiện ra bên ngoài đa phần đều được hình thành trong khuôn khổ gia đình. Sự quan tâm và giáo dục của gia đình giúp cá nhân có những định hướng giá trị sống đúng đắn và tránh những hành vi lệch chuẩn. Ngược lại, nếu thiếu vắng một chiếc nôi giáo dục gia đình hiệu quả mà đặc biệt là tình yêu thương, sự quan tâm và khích lệ đúng nghĩa sẽ dễ dàng đẩy cá nhân vào những lựa chọn sai lầm. Nhiều gia đình thiếu sự quan tâm SV hoặc có thái độ “ôn hòa” khi thấy SV sử dụng rượu bia thay vì khuyên răn con mình nên hạn chế để bảo vệ sức khỏe, bởi lẽ các bậc phụ huynh có tư tưởng con mình lớn rồi nên có thể sử dụng rượu, bia hoặc tin tưởng rằng con mình đã biết cách sử dụng rượu, bia hợp lý. Bên cạnh sự thiếu quan tâm thì sự nuông chiều quá mức đối với con cái cũng là một trong những yếu tố khiến SV chúng có hành vi sử dụng rượu, bia tiêu cực. 1.3.4 Tác hại của hành vi lạm dụng rượu, bia Hậu quả đối với sức khỏe: Rượu, bia là yếu tố nguy cơ gây tử vong xếp thứ 8 trên toàn cầu (chiếm 4% sốtrường hợp tử vong toàn cầu) và là yếu tố nguy cơ gây tử vong hàng đầu đối với nam giới trong nhóm tuổi từ15-59. Xếp thứ 3 trong số 19 yếu tố nguy cơ hàng đầu đối với gánh nặng bệnh tật toàn cầu. Ở Việt Nam, sử dụng rượu/bia là là yếu tố gây ra 2,9% trường hợp tử vong và 2,2% gánh nặng bệnh tật quốc gia Rượu, bia là một chất gây hại, tác động bất lợi trực tiếp và gián tiếp đến nhiều cơ quan của cơ thể như: + Ảnh hưởng đến não bộ Bia, rượu làm tăng hoạt động GABA (gamma – aminobutyric) và ức chế ảnh hưởng của glutamate, khiến thông tin truyền đi trong não bộ chậm hơn bình thường. Các tế bào thần kinh ở não bộ rất nhạy cảm trước bất cứ chất độc nào, do đó với lượng cồn lớn trong bia rượu được đưa vào từ đường máu sẽ gây ra những rối loạn trầm trọng trong sự hoạt động của vỏ não và làm cho vỏ não không còn kiểm soát, điều chỉnh được hoạt động của các trung tâm dưới vỏ. Từ đó, gây ra các hành động tiêu cực của người uống như đi đứng loạng choạng, phản ứng chậm, mất kiểm soát và liều lĩnh hơn. Ngoài ra, lượng cồn có trong rượu, bia còn làm cho trí nhớ của bạn bị suy giảm. Nếu nồng độ cồn trong máu là 15g/100cc, bạn bắt đầu không thể ghi nhớ những gì đã làm trong ngày. Khi nồng độ này tăng lên 20g/100cc là lúc bạn mất đi khoảng 50% trí nhớ ngắn hạn. + Gây hại cho cơ tim Rượu bia làm cho cơ tim bị thoái hóa, bộ máy tim mạch bị tổn thương: Đau đầu xuất hiện, khó thở, mắt cá sưng to. Dùng rượu mạnh trong thời gian dài có thể gây giãn cơ tim, phì đại tâm thất và xơ hóa. + Tác hại đối với dạ dày Rượu, bia bị phân hủy từ ethanol thành các acetaldehyde (chất rất độc) có thể gây viêm loét dạ dày. Khi lượng bia, rượu đưa vào cơ thể quá nhiều sẽ gây ra bệnh viêm dạ dày cấp, lóet dạ dày và tá tràng. Nghiện rượu cũng gây ra các biến chứng như thủng dạ dày và chảy máu dạ dày. + Tác hại đối với gan Khi rượu vào cơ thể, nó được hấp thu nhanh với 20% hấp thu tại dạ dày và 80% tại ruột non, sau 30-60 phút toàn bộ rượu được hấp thu hết. Sau đó, rượu được chuyển hóa chủ yếu tại gan (90%). Chính vì lý do này mà chức năng ngăn các chất độc khác nhau do máu mang từ ruột hoặc ở ngoài đến của gan bị suy giảm, dẫn đến việc gan bị nhiễm mỡ, xơ gan và nghiêm trọng hơn nữa là ung thư gan. + Ảnh hưởng đến tim mạch, huyết áp Rượu gây ra thiếu B1, làm cho người bệnh cảm thấy mệt mỏi, phù, tím tái, giảm khả năng gắng sức… dần dần dẫn tới suy tim. Nhiễm độc rượu dẫn tới viêm cơ tim cấp, gây nguy cơ tử vong cao. Ngoài ra, rượu còn gây rối loạn nhịp nhĩ hay nhịp thất, nhất là nhịp nhanh kịch phát ở những người bình thường. + Giảm sức đề kháng của cơ thể Rượu bia làm giảm khả năng tấn công vi khuẩn và phòng ngừa bệnh tật của hệ miễn dịch. Chính vì thế mà người say rượu rất dễ bị cảm, trúng gió… Ngoài ra, rượu bia còn làm thay đổi sự hóa ứng động bạch cầu, số lượng tế bào limpho T, hoạt tính của NK (natural killer cell), do đó người nghiện rượu dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn như viêm phổi, lao phổi, nếu không phát hiện sớm có thể tử vong. + Ảnh hưởng đến xương khớp Rượu bia làm suy yếu sự trao đổi chất, gia tăng axit uric – nguyên nhân của bênh gout. Người uống rượu cũng sẽ thường cảm thấy đau nhức, mỏi xương khớp. Gây ra các bệnh về tâm thần Rượu là một chất tác động tâm thần mạnh. Sử dụng rượu nhiều sẽ gây ra một số các bệnh lí rối loạn tâm thần. Nhiều nghiên cứu cho thấy rượu đóng một yếu tố lớn trong tái phát các bệnh lí tâm thần. Zenevitch năm 1974 thấy rằng có 14,3% bệnh nhân tâm thần phân liệt tái phát là do dùng rượu. Rượu làm hoang tưởng, ảo giác, kích động vận động nặng lên ở giai đoạn cấp của bệnh, mặc dù vẫn tuân thủ điều trị bằng thuốc... nó còn làm tăng lo âu, sầu uất, trầm cảm, làm gia tăng các ý tưởng tự sát hoặc xu hướng kích động tấn công. Về tác hại của rượu, bia đối với sức khỏe tâm thần, ở nước ta trong năm 2010 đã có thống kê tại Viện Sức khỏe tâm thần TW cho thấy, cứ 100 bệnh nhân nhập viện trị bệnh tâm thần thì có 14 người có liên quan đến rượu. Mức độ tác hại đối với sức khỏe do sử dụng rượu, bia với từng cá nhân là khác nhau, tùy thuộc vào các yếu tố như: Tuổi; giới tính; đặc điểm sinh học; mức dung nạp bình quân; địa điểm, bối cảnh và cách thức uống của người sử dụng... Sử dụng rượu, bia là nguyên nhân chủ yếu gây ra 30 bệnh và là nguyên nhân kết hợp gây nên 200 bệnh theo ICD 10 năm 1992. Riêng đối với hệ thần kinh trung ương, rượu, bia gây tác hại ở nhiều mức độ khác nhau và đặc biệt ảnh hưởng trầm trọng đến sức khỏe tâm thần. Nếu người dân Việt Nam uống rượu bia ở mức thấp nhất (0-2,5 gam quy đổi theo cồn nguyên chất/ngày) thì số trường hợp tử vong hằng năm có thể giảm được ít nhất là 13.923 trường hợp ở nam giới và 1.558 trường hợp ở nữ giới.[28] Hậu quả đối với xã hội Rượu, bia ức chế vùng vỏ não điều khiển sự tự chủ, kiềm chế của chúng ta. Nếu vùng vỏ não này bị ức chế, ta sẽ dám làm những việc trước đây không dám làm. Uống nhiều rượu, bia sẽ làm tê liệt hệ thần kinh tự chủ, sự phán đoán và ý thức đạo đức. Nhiều người sau khi uống rượu, bia như bị “kích thích”, nói năng có khi bất chấp, có những hành động mà bình thường không dám làm nên tưởng rằng rượu có tác dụng “kích thích”. Hậu quả tất yếu của lạm dụng rượu bia là hành vi bạo lực, tai nạn giao thông và tệ nạn xã hội. Đã xảy ra nhiều vụ “rượu vào... dao ra” làm chấn động dư luận. Rất nhiều vụ bạo lực gia đình diễn ra với sự “giúp sức” của rượu bia. Ở Việt Nam có 9.000 người tử vong hàng năm do sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông. Cùng với đó, 30% các vụ gây rồi nơi công cộng liên quan đến rượu, bạo lực gia đình. Bởi lẽ, ngay khi chỉ uống một lượng vừa phải cồn trong máu- tùy theo cân nặng và cấu tạo của cơ thể- cồn đã có tác động đến hệ thống thần kinh và đặc biệt là lên não: góc nhìn bị thu hẹp lại và thời gian phản ứng chậm đi. Các nhà nghiên cứu của Đại học Stockholm đã tìm thấy rằng uống 50 g cồn hằng ngày sẽ để lại tác hại vĩnh viễn. Ước lượng vào khoảng 100.000 tế bào não sẽ bị giết chết khi uống một ly bia. Trong một cơn say rượu con số tế bào não chết đi có thể lên đến 10.000.000.[29] Có tới 83% nạn nhân của tai nạn giao thông liên quan đến xe máy, thậm chí có nhiều người tự ngã do sử dụng quá nhiều đồ uống có cồn với nồng độ cồn cao. Nhiều người phải chung sống cả đời với hậu quả của tai nạn giao thông, có người phải “sống thực vật” do chấn thương sọ não bởi với những người uống nhiều rượu, bia khi bị tai nạn thì tỉ lệ bị chấn thương ở đầu, mặt cao gấp đôi và thường nặng hơn những người không sử dụng rượu, bia. Trong khi đó, chỉ có 65% số người uống rượu bia chấp hành đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông.[30] Nói đến tác hại của việc sử dụng rượu, bia quá đà đối với vấn đề an toàn giao thông, phần lớn người dân đều nhận thức được điều này. Song để mỗi người tự ý thức để kiểm soát được hành vi của mình lại không đơn giản. Không ít người, đặc biệt là lứa tuổi thanh niên thừa nhận, họ đã có những cuộc "chè chén" rồi lái xe trong tình trạng say mềm đến nỗi khi tỉnh rượu họ không biết mình về nhà bằng cách nào... và hậu quả của những hành vi liều lĩnh đó là những cái chấn thương, thậm chí những cái chết thương tâm vẫn diễn ra là nỗi nhức nhối trong xã hội và làm đau đầu các cơ quan quản lí. Hậu quả đối với kinh tế: Chi phí dành cho rượu, bia đã tạo gánh nặng cho nền kinh tế, nhất là các nước đang phát triển. Ước tính, chi phí cho rượu, bia và giải quyết hậu quả tác hại của rượu, bia chiếm 2-8% GDP quốc gia. Năm 2012, Việt Nam tiêu thụ 3 tỷ lít bia tạm tính tương đương với 3 tỷ USD, ước tính khoảng gần 3% số thu ngân sách của cả nước đó là chưa kể đến những chi phí gián tiếp để giải quyết những hậu quả do sử dụng rượu bia gây ra trong khi đóng góp cho ngân sách nhà nước của ngành sản xuất rượu, bia, nước giải khát ở VN năm 2012 chỉ là >16.000 tỷ đồng (tương đương 800 triệu USD). Với quy mô GDP khoảng trên 170 tỷ USD/năm mà có đến 3 tỷ USD/năm tiêu thụ rượu, bia, cho thấy gánh nặng kinh tế của thứ đồ uống này không hề nhỏ tại Việt Nam, chỉ tính riêng chi phí trực tiếp cho tiêu thụ bia đã nhiều gấp 4 lần mức đóng góp cho ngân sách nhà nước…[31] TS. Nguyễn Minh Phong, chuyên gia kinh tế, nhận xét: Năm 2013 chúng ta "kiếm" được 2,95 tỉ USD tiền bán gạo nhưng chúng ta lại “tiêu béng” hết vào bia. Nếu lượng tiền dùng cho bia, rượu được đầu tư cho phát triển kinh tế chắc chắn sẽ tạo ra được giá trị gia tăng tốt hơn. Việc tiêu thụ rượu, bia quá lớn phá hủy lợi ích kinh tế khi nó trở thành tệ nạn xã hội Trong quy hoạch 2010-2015 của Bộ Công Thương, đến năm 2015, chỉ tiêu lượng bia tiêu thụ được đưa ra là 2,7 tỷ lít, nhưng đi chưa tới nửa chặng đường quy hoạch (năm 2013) thì con số này đã "vượt chỉ tiêu". Bia tiêu thụ với số lượng lớn mang lại niềm vui cho các nhà sản xuất bao nhiêu thì lại khiến các nhà quản lý, nghiên cứu xã hội băn khoăn bấy nhiêu. Theo các chuyên gia kinh tế, số lượng sản xuất rượu, bia không đủ phục vụ nhu cầu trong nước, đương nhiên sẽ không thể xuất khẩu… và làm mất đi nguồn lực quốc gia. Viê ̣c tiêu thụ rượu, bia quá lớn phá hủy lợi ích kinh tế khi nó trở thành tê ̣ nạn xã hô ̣i vì những cơ thể say xỉn thì chắc chắn không thể lao đô ̣ng mô ̣t cách hiê ̣u quả. .[32] Theo bà Vũ Thị Minh Hạnh, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và chính sách y tế (Bộ Y tế), thực trạng uống bia, rượu đang trở nên đáng báo động và nếu không có biện pháp kiểm soát kịp thời, mức độ tiêu thụ bia, rượu gia tăng hằng năm với mức hơn 10% sẽ khiến cho nỗ lực của mỗi cá nhân, gia đình và toàn xã hội trong phát triển kinh tế cũng như chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cộng đồng bị “hòa tan” cùng với rượu, bia, bên cạnh đó còn ảnh hưởng tới trật tự an toàn xã hội, sự phát triển bền vững của đất nước.[33]
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan