Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng nợ công và vấn đề tăng trưởng kinh tế ở việt nam...

Tài liệu Thực trạng nợ công và vấn đề tăng trưởng kinh tế ở việt nam

.DOCX
23
239
134

Mô tả:

THỰC TRẠNG NỢ CÔNG VÀ VẤN ĐỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM Đỗ Thị Thúy Nga, K14NHTMC Bùi Hoàng Yến, K15-TCDNC Mai Thị Nhì, K15-TCDND 1. NGUYÊN NHÂN CỦA NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ công. Tình trạng nợ công hiện nay ở nhiều nước đều có chung một số nguyên nhân cơ bản như: (i) Sự kiểm soát chi tiêu và quản lý nợ của Nhà nước kém chặt chẽ và hiệu quả, (ii) Tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư và chi tiêu, (iii) Tệ tham nhũng gia tăng ở nhiều nước, (iv) Các nguồn thu (chủ yếu từ thuế) tăng không kịp với nhu cầu chi, thậm chí một số loại thuế chịu áp lực phải cắt giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau, đặc biệt như thuế quan và phí hải quan của hầu hết các nước phải cắt giảm hoặc loại bỏ để phù hợp với các quy định của WTO và các thỏa thuận thương mại khác mà họ tham gia và (v) Vấn đề quản lý các nguồn thu, nhất là thuế, gặp không ít khó khăn ở nhiều nước do tình trạng trốn thuế, tệ tham nhũng, hối lộ, kiểm soát không chặt và xử lý không nghiêm của các cơ quan chức Đối với Việt Nam có thể khái quát những nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến nợ công bao gồm những lý do sau: 1.1. Mô hình phát triển còn dựa nhiều vào đầu tư công và nợ công Nguyên nhân chính gây ra nợ công Việt Nam ở mức cao được cho là mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng phát triển dựa quá nhiều vào tăng vốn đầu tư. Trong những năm vừa qua, mô hình tăng trưởng của Việt Nam còn dựa nhiều vào đầu tư (đặc biệt là đầu tư công), bên cạnh các yếu tố khác. Kết quả là tỉ lệ đầu tư luôn ở mức khá cao, khoảng 40 - 42% GDP, thậm chí còn lên tới 46,5% GDP vào năm 2007. Trong khi đó, hiệu quả mang lại từ đầu tư ngày càng giảm sút. Hệ số ICOR của Việt Nam cao hơn đáng kể so với các nước có cùng trình độ phát triển. Chính vì vậy, lợi ích từ tăng trưởng và tăng thu ngân sách chưa bù đắp được các chi phí liên quan đến gia tăng đầu tư công và nợ công, ít nhất là trong ngắn hạn. 1.2. Thâm hụt ngân sách Nhà nước 1|Page Nợ công phát sinh do các cấp chính quyền chi tiêu nhiều hơn thu, nên phải vay nợ để bù đắp chênh lệch thu - chi, là hệ quả trực tiếp của thâm hụt ngân sách. 2|Page Báo cáo báo cáo kinh tế vĩ mô 2012 "Từ bất ổn vĩ mô đến con đường tái cơ cấu" do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội công bố cho rằng thâm hụt ngân sách và nợ công của Việt Nam tăng nhanh trong thời gian qua. Theo báo cáo này, thâm hụt ngân sách diễn ra liên tục trong khoảng hơn một thập kỉ qua và có mức độ ngày càng gia tăng. Cụ thể, thâm hụt ngân sách không bao gồm chi trả nợ gốc của Việt Nam trung bình trong giai đoạn 2003 - 2007 chỉ là 1,3% GDP, nhưng con số này đã tăng hơn gấp đôi, lên 2,7% GDP trong giai đoạn 2008 - 2012. Năm 2009, con số thâm hụt ngân sách không bao gồm chi trả nợ gốc theo báo cáo của Bộ Tài chính là 3,7% GDP, trong khi đó con số tương ứng của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cao hơn nhiều, lần lượt là 6,6% và 9,0% GDP. Trung bình trong hai năm 20092010, con số thâm hụt ngân sách của Việt Nam thuộc diện cao nhất so với các nước trong khu vực, vào khoảng 6% GDP/năm. Con số này gấp khoảng 6 lần so với con số tương ứng của Indonesia, gấp 2 lần so với Thái Lan. Để bù đắp bội chi Việt Nam buộc phải vay trong nước và vay nước ngoài. Do số nợ vay được sủ dụng vào những mục đích không sinh lợi nên toàn bộ số chi trả nợ gốc phải trông vaò phát hành nợ mới, đặc biệt là vay trong nước và ngân sách Nhà nước Việt Nam đang đứng trước vòng xoáy nợ nần với quy mô Chính phủ ngày càng lớn. 1.3. Đầu tư công lớn, dàn trải và kém hiệu quả Đầu tư công và đầu tư của DNNN có thể tác động trực tiếp đến nợ công thông qua kênh: (i) Chính phủ đi vay để đầu tư; (ii) Chính phủ vay về cho vay lại; (iii) Chính phủ bảo lãnh cho DNNN đi vay để đầu tư; và (iv) chính quyền địa phương vay trực tiếp hay gián tiếp để đầu tư tại địa phương. Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam các thành phần đầu tư công này không được bóc tách chi tiết và thống kê đầy đủ hàng năm. Trong giai đoạn từ 2001-2010, tổng đầu tư toàn xã hội của Việt Nam thuộc vào diện cao nhất thế giới, trung bình đạt 40,8% GDP và có tốc độ tăng 18,7% mỗi năm. Trong đó, tỉ trọng đầu tư công, mặc dù có xu hướng giảm trong vài năm gần đây, nhưng vẫn đứng ở mức xấp xỉ 40% trong tổng đầu tư toàn xã hội. Với việc tiết kiệm trong nước và tiết kiệm quốc gia chỉ chiếm lần lượt khoảng 28,5 và 32,5% GDP, thì sự gia tăng nhanh của tổng đầu tư toàn xã hội, trong đó có đầu tư công, đã tạo ra sự chênh lệch lớn giữa tiết kiệm và đầu tư của nền kinh tế. Sự chênh lệch này dẫn đến sự gia tăng nhanh của vay nợ nước ngoài nhằm bù đắp cho khoảng trống tiết kiệm - đầu tư trong những năm vừa qua. 1.4. Rủi ro từ khối DNNN Được định hướng giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các DNNN đã nhận được nhiều sự ưu đãi của Chính phủ ở mọi góc độ tiếp cận tín dụng, đất đai, khai thác tài nguyên, tiếp cận thị trường, bảo hộ độc quyền, v.v… đến các hậu thuẫn về mặt chính trị khác. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp này đã có những đóng góp nhất định trong quá trình công nghiệp hóa và tạo việc làm ở Việt Nam, đặc biệt là trong những năm đầu của công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, sự mở rộng nhanh chóng về quy mô lẫn sự tham gia tràn lan trong mọi ngành nghề gần đây của các DNNN, kết hợp với việc thiếu một cơ chế giám sát chặt chẽ và minh bạch đã khiến cho công tác quản lý các DNNN bị buông lỏng, hiệu quả kinh tế của các doanh nhiệp này sa sút trầm trọng gây rủi ro lớn cho nền kinh tế. Bên cạnh hiệu quả đầu tư thấp, thể hiện qua chỉ số ICOR cao, DNNN còn thể hiện khả năng yếu kém trong quá trình tạo việc làm cho nền kinh tế. Cụ thể, mặc dù chiếm xấp xỉ 40% tổng đầu tư cả nước nhưng khu vực nhà nước chỉ tạo ra khoảng 10% việc làm cho toàn xã hội. Trong khi đó, khu vực kinh tế ngoài nhà nước với 35% tổng đầu đầu tư nhưng lại tạo ra tới 87% việc làm cho toàn nền kinh tế. Đặc biệt, trong số các DNNN thì các tập đoàn kinh tế nhà nước đã nhận được sự hậu thuẫn lớn của Chính phủ với kì vọng đưa chúng trở thành những mũi nhọn của nền kinh tế. Tuy nhiên, thay vì tập trung vào các hoạt động kinh doanh cốt lõi, nhiều tập đoàn lại nhanh chóng phát triển thành mạng lưới chằng chịt hàng trăm các tổng công ty, công ty con và công ty liên doanh, liên kết. Các tập đoàn này thực hiện đầu tư dàn trải vào các ngành nghề kinh doanh không phải thế mạnh của mình, bao gồm đầu tư tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bất động sản, khai thác khoáng sản, xây dựng, thương mại, khu nghỉ dưỡng, v.v… mà trong đó, Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) là một ví dụ điển hình. 1.5. Khả năng quản lý bộc lộ nhiều điểm yếu kém Việt Nam hiện chưa có một ủy ban chuyên trách quản lý về nợ công đã dẫn đến việc thiếu tập trung, thậm chí thiếu minh bạch trong quản lý, sử dụng vốn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tham nhũng. Điều này làm gia tăng lo ngại về việc nợ công có thể trở thành mối đe dọa thứ hai, sau lạm phát. Việc phân định trách nhiệm giữa các cơ quan trong vấn đề nợ công còn chưa rõ ràng. “Ở Việt Nam có cái rất đặc biệt, là đôi khi người đi vay không phải là người trả nợ, và người trả nợ không phải là người đi vay” nên “ Các đầu mối về quản lý nợ công không có, dẫn đến tình trạng trách nhiện trong quản lý nợ công vẫn chưa rõ” (Chủ tịch Hội Kế toán và Kiểm toán Đặng Văn Thanh) Khu vực Chính phủ chưa được tách bạch rõ ràng ra khỏi phần còn lại của khu vực công và phần còn lại của nền kinh tế. Chính sách và vai trò quản lý của khu vực công chưa được công khai cụ thể. Do quản lý nợ công chưa chặt chẽ nên tỷ lệ thất thoát của các công trình đầu tư nhà nước được thừa nhận không chính thức là từ 15% đến 45%. Với số nợ nước ngoài thống kê chính thức là 29 tỷ USD, có thể thấy phần thất thoát tài sản Nhà nước là không nhỏ, từ 4 tỷ USD đến khoảng 10 tỷ USD. 20 | P a g e 21 | P a g e 2. THỰC TRẠNG NỢ CÔNG VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NỢ CÔNG CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Thực trạng nợ công Thực hiện chiến lược huy động vốn cho NSNN và cho đầu tư phát triển, trong nhiều năm qua Chính phủ, một số Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và các doanh nghiệp được chính phủ bảo lãnh đã tổ chức huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước thông qua hình thức vay nợ công. Các cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới đã làm nóng lên tình hình nợ công trong nước, trong đó có ba vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất là quy mô, tính an toàn và tài trợ nợ công. Theo luật quản lí nợ công của Việt Nam, nợ công bao gồm nợ của chính phủ, nợ của chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương. Trên đồng hồ đo nợ toàn cầu của The economist, tính đến ngày 12/10/2013, nợ công của Việt Nam là 76,5 tỷ USD tăng 11,8% so với cùng kì năm ngoái. Trung bình mỗi người dân Việt Nam đang gánh 849.41 USD nợ, chiếm 48,6% GDP (Năm 2003, nợ công Việt Nam là 14,4 tỷ USD, bình quân 177 USD mỗi người). Như vậy chỉ trong một thập kỉ, tổng nợ đã tăng lên gấp 5 lần. Nợ trên GDP ở thời điểm đó cũng đã gần 40%. 2.2. Đánh giá hiệu quả quản lý nợ công 2.2.1. Thành tựu đạt được Thứ nhất, thể chế chính sách về nợ đã có bước đột phá với việc Quốc hội đó ban hành Luật quản lí nợ công và phê duyệt của Chính phủ về “Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 – 2020 và tầm nhìn năm 2030”. Nhằm khắc phục những nhược điểm về khung pháp lí quản lí nợ công đang tồn tại, Luật Quản lí nợ công ra đời đã tạo ra những thay đổi rõ rệt. Lần đầu tiên Việt Nam có luật điều chỉnh chuyên biệt về lĩnh vực nợ công, ghi nhận một cách tổng thể các công cụ quản lí nợ công. Luật Quản lí nợ công qui định nguyên tắc Chính phủ thống nhất quản lí nhà nước về nợ công từ vay, giám sát sử dụng vốn vay đến trả nợ và đảm bảo an toàn nợ theo Chiến lược nợ dài hạn và Chương trình quản lí nợ chung hạn. Cùng với đó, trong “Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 – 2020 và tầm nhìn năm 2030” đã đạt được bước tiến quan trọng khi quy định việc huy động vốn vay và trả nợ phải nằm trong giới hạn các chỉ tiêu an toàn về nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia và đảm bảo an ninh tài chính quốc gia; chuyển đổi cơ cấu vay theo hướng tăng dần huy động vốn vay trong nước, giảm dần mức độ vay nước ngoài và hạn chế bảo lãnh Chính phủ đồng thời Chính phủ thống nhất việc quản lí huy động, phân bổ, trả nợ và quản lí nợ công, nợ nước ngoài an toàn hiệu quả. Theo đó, nợ công (bao gồm nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương) đến năm 2020 không quá 65% GDP, trong đó dư nợ Chính phủ không quá 55% GDP và nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP. Luật Quản lí nợ công và “Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 – 2020 và tầm nhìn năm 2030” đã cho thấy hướng đi đúng đắn của Quốc hội và Chính phủ trong việc đề ra chính sách về nợ công để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, đáp ứng được nhu cầu bổ sung vốn cho đầu tư phát triển và cân đối NSNN. Nợ công giai đoạn 2006 - 2012 là 23%, bù đắp bội chi NSNN khoảng 5% GDP. Ngoài ra, nhiều dự án cơ sở hạ tầng, các chương trình xóa đói giảm nghèo, cải thiện môi trường, giải quyết việc làm, an sinh xã hội, các dự án tăng trọng quốc gia... đều được đầu tư bằng nguồn vốn vay công. Thứ ba, các chỉ tiêu về nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia vẫn nằm trong giới hạn an toàn, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Việc xử lí nợ quá hạn các khoản nợ cũ thông qua Câu lạc bộ Paris, Luân Đôn… là một thành công lớn, đưa tỷ lệ tổng số nợ nước ngoài từ mức rất cao, gần 150% GDP năm 1993 trở về mức an toàn 41,5% vào năm 2011; nghĩa vụ trả nợ tương ứng từ mức 195,8% xuống còn khoảng 4,5% so với tổng kim ngạch xuất khẩu, đồng thời làm giảm đáng kể nghĩa vụ trả nợ của Việt Nam, tạo điều kiện khai thông quan hệ tài chính – tín dụng với các tổ chức quốc tế và các Chính phủ nước ngoài. Thứ tư, các hình thức huy động vốn vay ngày càng đa dạng, linh hoạt, tạo tiền đề cho sự hình thành và phát triển đồng bộ thị trường tài chính. Bên cạnh việc huy động vốn ưu đãi ODA, vay thương mại nước ngoài, vay qua phát hành trái phiếu Chính phủ trong nước là công cụ huy động vốn có hiệu quả của nhà nước. Mặt khác, trong năm 2005, Chính phủ đã phát hành trái phiếu quốc tế đợt 1 với tổng trị giá 750 triêu USD dành cho các dự án đóng tàu, đây là hình thức tương đối mới ở Việt Nam. Ngoài việc trực tiếp phát hành nợ, trong thời gian qua Chính phủ đã thực hiện cấp bảo lãnh Chính phủ cho các doanh nghiệp vay vốn. Thứ năm, cơ cấu đồng tiền vay đa dạng; đặc biệt những năm gần đây tỷ giá đồng Việt Nam và đồng đô la tương đối ổn định; Nhật Bản nới lỏng chính sách tiền tệ nên đồng yên yếu đi, chúng ta sẽ có lợi rất nhiều trong chính sách tỷ giá, giảm thiểu rủi ro. 2.2.2. Hạn chế Thứ nhất, chính sách sử dụng nợ công không hiệu quả. Các khoản vốn vay chủ yếu được sử dụng trong khu vực đầu tư công, mặc dù được đầu tư vốn rất lớn nhưng nó không mang lại hiệu quả biểu hiện bởi chỉ số ICOR rất cao. Sự thiếu hiệu quả chủ yếu đến từ các doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là khu vực được Chính phủ bảo lãnh. Các doanh nghiệp Nhà nước thường đầu tư vào các lĩnh vực rủi ro cao như tài chính, ngân hàng, bất động sản, chứng khoán… mà không chú trọng đầu tư vào lĩnh vực ngành nghề kinh doanh chính. Sự không hiệu quả này đang đe dọa tính an toàn của toàn bộ hệ thống tài chính và nền kinh tế, bởi các doanh nghiệp nhà nước đang chiếm khoảng 60% dư nợ tín dụng của các NHTM. Chưa kể, với sự cạnh tranh không bình đẳng, các doanh nghiệp Nhà nước đã gây sức ép không nhỏ lên các doanh nghiệp ngoài nhà nước, góp phần làm méo mó cơ chế thị trường và kìm hãm sự phát triển của kinh tế tư nhân. Sự phối hợp không chặt chẽ, nhiều thủ tục giữa các cơ quan liên quan khiến tiến độ giải ngân vốn chậm cũng là nguyên nhân khiến hiệu quả đầu tư công thấp. Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước không thường xuyên, chưa liên tục nên không đánh giá được hết các sai phạm trong khâu lập thủ tục đầu tư, thiết kế, đấu thầu, sử dụng vốn sai mục đích, quyết toán sai gây thất thoát lớn lượng vốn đầu tư, hiêu quả đầu tư thấp. Thứ hai, chưa tận dụng tối đa nguồn lực từ thì trường chứng khoán. Thị trường thứ cấp của trái phiếu Chính phủ dường như không phát triển, khối lượng giao dich rất ít. Ngay cả khi TTCK sôi động thì khối lượng giao dịch cũng chỉ chiếm khoảng 3 – 4% tổng giá trị giao dịch thị trường và chiếm khoảng 6 – 7% tổng giá trị trái phiếu được niêm yết trên TTCK. Do đó tính thanh khoản của trái phiếu Chính phủ trở nên kém đi, mặc dù đây là loại công cụ tài chính có độ an toàn cao nhất nhưng nó chưa thực sự giữ vai trò chủ đạo trong các giao dịch chứng khoán. Việc hoạch định mục tiêu CSTT, CSTK và quản lí nợ công trong dài hạn chưa có sự thống nhất. Các mục tiêu về tăng trưởng, lam phát thường dựa vào kết quả trong năm hiện tại và các năm trước do vậy ít có sự dự báo về những biến động bất thường trong tương lai. Thực tế cho thấy, Chính phủ đề ra mục tiêu kiềm chế lạm phát trong thời gian vừa qua nhưng mức vay nợ của Chính phủ chỉ làm rất ít, cùng với đó là tăng lương, thâm hụt NSNN, thâm hụt cán cân thương mại. Khi thâm hụt tăng cao, thì mục tiêu của CSTT và CSTK sẽ trở nên mâu thuẫn, hệ quả tất yếu dẫn tới nợ công tăng cao. Trong khi đó, sự phối hợp giữa CSTT và quản lí nợ công trong ngắn hạn chưa đem lại hiệu quả. Trong giai đoạn 2009 – 2011, sự bất ổn của tỉ giá dẫn đến áp lực tăng gánh nặng nợ và chi phí dịch vụ nợ cho các khoản nợ nước ngoài. Thứ ba, quyền hạn của các cơ quan còn chồng chéo, phân tán. Chẳng hạn, đối với cấp Bộ, ngành: Theo Luật Quản lý nợ công thì Bộ Tài chính giúp Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về nợ công (bao gồm tất cả các khâu từ xây dựng mục tiêu, định hướng huy dộng, quản lý và sử dụng vốn vay và quản lý nợ công). Nhưng trên thực tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư lại được Chính phủ giao cho việc huy động vốn ODA và vốn đô la. Tuy nhiên khâu huy động lại không gắn kết với nguồn trả nợ, không gắn với mục đích sử dụng... Mặt khác, Bộ Tài chính là đơn vị chủ trì xây dựng hạn mức vay nước ngoài, bao gồm cả hạn mức tự vay, tự trả của doanh nghiệp nhưng điều hành cụ thể lại do NHNN. Như vậy, rõ ràng từ kênh huy động, trả nợ, sử dụng vẫn còn chưa thống nhất với nhau. 3. ẢNH HƯỞNG CỦA NỢ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 3.1. Xuất khẩu giảm Những số liệu tính toán từ mô hình ước lượng cho thấy, tình trạng nợ công sẽ có những tác động tiêu cực đến xuất khẩu và tăng trưởng GDP của Việt Nam, với mức suy giảm khoảng 1,7% GDP trong năm 2010, cao thứ ba chỉ sau Trung Quốc (2,8%) và Anh (1,9%). Vì vậy, nếu không có những chính sách phản ứng kịp thời hỗ trợ xuất khẩu thì triển vọng trung hạn đối với xuất khẩu của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn. 3.2. Lãi suất thấp ở các nước, trong khi ở Việt Nam lại cao sẽ bất lợi về chi phí cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam Do lo ngại tác động tiêu cực từ khủng hoảng nợ công, nhiều ngân hàng trung ương các nước phát triển vẫn duy trì mức lãi suất sàn thấp lịch sử nhằm kích thích sự phục hồi kinh tế và chấp nhận lạm phát trong chừng mực nhất định. Lãi suất cơ bản tiệm cận 0% ở hầu hết các nước: FED (Mỹ): 0,25%; ECB (EU): 1%; BOE (Anh): 0,5%; Nhật Bản: 0,1%. Ngược lại ở Việt Nam, lãi suất huy động lẫn lãi suất cho vay vẫn đứng ở mức cao. Các doanh nghiệp phải vay vốn với lãi suất khoảng 14-16%/năm với kỳ hạn ngắn và khoảng 14,5-17%/năm với kỳ hạn trung, dài hạn.Nếu tính đến lạm phát ước tính cho năm 2010 là dưới 10%, doanh nghiệp phải đạt mức tỉ suất lợi nhuận trên 24-27%, là mức cao so với tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân của các ngành trong năm 2009 (khoảng 20%). 3.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm Trong những quốc gia có trình độ phát triển tương đương với các nước thuộc EU sẽ hưởng lợi do nguồn vốn FDI dịch chuyển từ châu Âu sang các quốc gia này khi nhà đầu tư muốn tránh thuế thu nhập doanh nghiệp đang có xu hướng tăng cao tại các quốc gia châu Âu. Ngược lại, các nước có trình độ phát triển thấp như Việt Nam lại hoàn toàn không được hưởng lợi từ việc dịch chuyển luồng vốn FDI khỏi châu Âu do sự chênh lệch quá lớn về trình độ công nghệ, trong khi luồng vốn từ các nhà đầu tư châu Âu vào các quốc gia này giảm sút do cuộc khủng hoảng nợ. 3.4. Giá vàng bùng nổ Các nhà đầu tư đang tìm vàng như một nơi trú ẩn an toàn trước nguy cơ cuộc khủng hoảng nợ châu Âu ngày một lan rộng. Cùng với đó, nợ công Việt Nam tăng cao, làm cho giá vàng trong thời gian qua tăng mạnh, lên mức trên 1.300 USD/ounce. Điều này phản ánh nhu cầu về dự trữ an toàn hơn so với đồng tiền giấy, sau khi nhiều cá nhân và tổ chức ở châu Âu, châu Á đua nhau mua vàng, mua bạch kim và bạc. Việc giá vàng tăng cùng với xu hướng tăng mạnh của đồng USD là điều ít khi xảy ra. Rất có thể sẽ tăng tới một kỷ lục mới trong thời gian tới và tạo sự tách biệt hoàn toàn giữa giá tài sản vàng và các tài sản khác. Điều này sẽ tác động xấu đến đầu tư toàn thế giới và Việt Nam bởi một khi vàng chiếm tỉ trọng lớn trong danh mục đầu tư của các tổ chức thì cũng đồng nghĩa với việc các danh mục khác như cổ phiếu, trái phiếu sẽ bị giảm mạnh. Như vậy, luồng vốn đầu tư gián tiếp càng trở nên hạn chế. 3.5. Bảo hiểm rủi ro tín dụng (CDS) xu hướng tăng lên Việt Nam với tỉ lệ nợ cao, thâm hụt ngân sách triền miên đang bị các tổ chức tài chính quốc tế xếp vào mục rủi ro cao, với mức CDS là 263, xếp ngay trên Hy Lạp (321) và Iceland (466). Điều này sẽ là một cản trở rất lớn trong việc thu hút các luồng vốn đầu tư gián tiếp, trực tiếp và cho vay từ nước ngoài. 3.6. Biến động tỉ giá hối đoái sẽ rất khó lường Cuộc khủng hoảng nợ công thế giới đã tạo ra những biến động khó lường về tỉ giá. Đồng USD và đặc biệt là đồng Yên sẽ tiếp tục đà tăng mạnh so với đồng Euro do tính an toàn từ phía các đồng tiền này. Từ khi cuộc khủng hoảng có dấu hiệu nghiêm trọng, đồng Euro mất giá tương đối so với USD. Trong tháng 6, tỉ giá USD/Euro chỉ còn 1,19, rất thấp so với mức xấp xỉ 1,4 của đầu tháng 3, do đó sẽ tạo ra những rủi ro nhất định trong việc vay, trả ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng như cho hoạt động ngoại hối của các ngân hàng thương mại. Với cơ cấu nợ công của Việt Nam nghiêng về nợ nước ngoài nhiều thì ảnh hưởng của tỉ giá tới khả năng hoàn trả vốn khi quản lý nợ công là cao, bởi lẽ :  Về thời hạn, khi đa số các khoản vay nước ngoài là vay trung và dài hạn thì rủi ro tín dụng và rủi ro tỉ giá là cao.  Rủi ro kép với mức chênh lệch lãi suất được đánh giá theo lãi suất thị trường. Nếu như chênh lệch lãi suất quá lớn giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế để thực hiện cân bằng tài khoản vốn có thể gia tăng mức độ đôla hoá và tạo áp lực lên tỉ giá;  Khả năng kiềm chế lạm phát, khi tính toán tỉ giá thực và sức mua ngang giá của tiền đồng vào từng thời kỳ. Vì vậy, giữa số vốn vay và số vốn trả nợ khi đáo hạn vốn vay nước ngoài sẽ chịu tác động của tỉ giá rất lớn, nếu như sử dụng và quản lý vốn vay không có hiệu quả. Nếu chỉ nhìn vào các số liệu được công bố về nợ công thì hiện nay sức ép về nợ công của Việt Nam chưa phải là đáng ngại với phần lớn là vốn vay trung dài hạn, lãi suất thấp, vốn vay ODA nhiều, vốn vay có lãi suất cố định chiếm phần lớn. Song, điều này cũng không nói lên rằng mức độ nợ công của chúng ta hiện nay là vẫn ở ngưỡng an toàn trong điều kiện số liệu thống kê chưa sát thực và cơ sở tính toán chưa chuẩn mực. Vấn đề quan trọng trong quản lý nợ công là nguồn vốn dùng để trả nợ thế nào và việc sử dụng nợ công ra sao.Điều đáng quan ngại hơn là vấn đề sử dụng nợ công ở Việt Nam. Chúng ta đã từng biết bài học quản lý vốn ODA của PMU 18 và hệ quả của nó. Mục tiêu sử dụng vốn ODA là đầu tư vào cơ sở hạ tầng với thời hạn dài, hoàn vốn lâu, quản lý vốn qua nhiều cấp. Mặt khác, cơ chế quản lý nợ công của Việt Nam còn chồng chéo giữa nhiều cơ quan chức năng, khả năng quản lý nợ, nhất là của chính quyền địa phương và vốn vay được Chính phủ bảo lãnh, còn nhiều bất cập. Vì vậy, nếu không xem xét quản lý nợ công nghiêm túc thì tác động của nó tới nền kinh tế mai sau sẽ không phải là nhỏ, nhất là kinh tế Việt Nam được đánh giá là có độ mở cao trên thế giới. 4. GIẢI PHÁP HẠN CHẾ NỢ CÔNG,THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 4.1. Ổn định chính sách tài khóa, cân đối thu chi công, hạn chế vay nợ nước ngoài và đảm bảo cho thâm hụt ngân sách ở mức hợp lý 4.1.1. Quản lý chặt chẽ chi tiêu công và thâm hụt ngân sách Cần quan tâm thực hiện thắt chặt công khố, thực hành tiết kiệm và chi tiêu công hợp lý, thận trọng trong những dự án đầu tư quy mô lớn tiêu tốn một lượng lớn vốn từ những khoản nợ nước ngoài, bởi hiện nay, Việt Nam đang có quá nhiều dự án quy mô lớn, như mở rộng đô thị, xây dựng nhà máy điện hạt nhân, đường sắt cao tốc Bắc - Nam… 4.1.2. Cân đối đầu tư công Vai trò của Nhà nước trong đầu tư cần tập trung tạo động lực cho phát triển kinh tế thị trường, xây dựng thể chế, nguồn nhân lực và hạ tầng. Tuy nhiên, trong phát triển hạ tầng, xu thế của các nước là rút dần các doanh nghiệp công hữu trong các lĩnh vực độc quyền tự nhiên như giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, năng lượng... mà hướng đầu tư công sang phát triển khoa học công nghệ, giáo dục, tạo đòn bẩy để chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang hướng tri thức, xanh, sạch, bền vững về môi trường và xã hội. 4.1.3. Đảm bảo minh bạch các hoạt động thu chi Mối quan hệ giữa khu vực hành chính và khu vực sự nghiệp công cũng cần được minh bạch rõ ràng. Đặc biệt, cần có sự rõ ràng trong việc làm thế nào lợi nhuận thu được từ các tổ chức sự nghiệp có thể đóng góp cho Chính phủ. Những báo cáo tài chính hằng năm của các tổ chức này cần phải công khai về lợi nhuận và phần sẽ đóng góp vào ngân sách nhà nước, thông tin này cũng cần được ghi lại trong báo cáo hằng năm về ngân sách nhà nước. Tương tự, các nguồn chi tiêu của Chính phủ nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức công cần phải được công khai trong báo cáo về ngân sách nhà nước, cũng như báo cáo tài chính hằng năm của các tổ chức này. 4.1.4. Cân đối mô hình phát triển kinh tế Việt Nam là một nước đang phát triển, nên có tỷ lệ đầu tư cao, thường xấp xỉ 40% GDP trong khi chỉ có 27% - 30% GDP là nguồn vốn tiết kiệm trong nước, còn lại hơn 10% nguồn vốn bên ngoài (FDI, ODA, những khoản vay khác). Đây là một tỷ lệ rất cao so với trung bình các nước trong khu vực và trên thế giới. Mô hình tăng trưởng dựa quá nhiều vào nguồn vốn đầu tư bên ngoài sẽ dễ bị tổn thương nếu kinh tế thế giới ngưng trệ. Do đó, giảm lượng vốn đầu tư từ bên ngoài trong cấu trúc vốn nhằm giảm sự phụ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài và thúc đẩy phát triển dựa trên đầu tư có hiệu quả là cần thiết trong mô hình phát triển kinh tế của Việt Nam. 4.2. Khắc phục tình trạng quan liêu,tình trạng trốn lậu thuế 4.2.1. Thúc đẩy vai trò độc lập của các cơ quan phụ trách về quản lý an ninh tài chính và tiền tệ Các cơ quan đó phải được quản trị một cách minh bạch, không được phép phá vỡ các tiêu chí, nguyên tắc an toàn, và phải có tiếng nói với trọng lượng đáng kể để không bị áp đặt bởi ý chí của người điều hành chính sách tài khóa, vốn luôn chịu sức ảnh hưởng đáng kể từ các sức ép chính trị, ví dụ như tư duy nhiệm kỳ, hay sự vận động từ các nhóm lợi ích (dù có thể không nhất thiết gắn với ý nghĩa tiêu cực). 4.2.2. Tiếp tục hoàn thiện thể chế,luật pháp Cần tiếp tục xây dựng,hoàn thiện chính sách pháp luật thuế và các văn bản pháp luật có liên quan,sao cho đảm bảo tính rõ ràng,minh bạch,chặt chẽ,hạn chế tối đa các “kẽ hở” có thể trốn thuế,đồng thời phải phù hợp với các yêu cầu hội nhập quốc tế.Hệ thống thuế cần được cải cách bảo đảm các tiêu chí tạo nguồn thu bền vững, hiệu quả, công bằng và minh bạch. Gánh nặng thuế cần phải được điều chỉnh giảm một cách hợp lý. Tuy nhiên,mức độ hợp lý này phụ thuộc rất nhiều vào quá trình cắt giảm chi tiêu công. Gánh nặng thuế quá cao sẽ khiến cho hệ thống thuế kém hiệu quả do nó khuyến khích việc trốn thuế và bóp méo sự phân bổ nguồn lực. Hệ thống thuế và phí cần được rà soát tránh sự chồng lên nhau. Các sắc thuế cần được điều chỉnh nhằm bảo đảm an sinh xã hội cho người thu nhập thấp, khuyến khích tiết kiệm và hạn chế tiêu dùng, đặc biệt là hàng tiêu dùng xa xỉ nhập khẩu. 4.3. Đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ Phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Phối hợp giữa CSTK và CSTT cần được hiểu là phải đảm bảo giải quyết các tác động của hai chính sách tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế vĩ mô trong ngắn hạn và dài hạn. Trong ngắn hạn, hai chính sách phải phối hợp nhằm đạt được các mục tiêu của từng chính sách một cách có trật tự, bao gồm cả ổn định giá. Trong dài hạn, hai chính sách phải phối hợp để đảm bảo được lợi ích cân bằng giữa mục tiêu của từng chính sách với mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững, kiềm chế lạm phát. Kinh nghiệm quốc tế và các nước Đông Âu cho thấy cần phải xác lập tính độc lập của ngân hàng trung ương trong vận hành chính sách tiền tệ. Việc điều tiết tỷ giá, lãi suất, lạm phát là những công cụ vĩ mô quan trọng cần ổn định và dự báo được. Đồng thời, ngân hàng trung ương cần tăng cường các biện pháp, chế tài nhằm kiểm soát, cảnh báo rủi ro của hệ thống ngân hàng, hướng tới các tiêu chuẩn quốc tế trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới. Chính sách tài khóa và ngân sách, ngoài việc tăng cường hiệu quả thu chi, bớt gánh nặng cho doanh nghiệp, cũng cần minh bạch, dự báo được để tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp. 4.4. Thực hiện tốt chính sách nợ công Cần nêu rõ cơ quan quyết định chính sách, nội dung cơ bản của chính sách là gì và chính sách đó được xây dựng dựa trên những cơ sở khoa học nào. Cần bổ sung quy định để định nghĩa chiến lược nợ theo những khuyến nghị của các chuyên gia WB và IMF, phù hợp với điều kiện của nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Đồng thời, phải quản lý chặt chẽ, công khai, minh bạch các khoản nợ của các ngân hàng thương mại, nhằm không chỉ khai thông tín dụng mà còn tránh rủi ro làm gia tăng nợ công như những diễn biến hiện nay ở EU. 4.5. Cân có cái nhìn đánh giá chính xác kịp thời về tính hình nợ công Mức nợ công, nhất là nợ nước ngoài của Việt Nam đã tiếp cận giới hạn chịu đựng của nền kinh tế so với khả năng trả nợ, vì rõ rằng đã ở chấp chới dưới mức cảnh báo an toàn của WB như trên đã nêu; vấn đề càng nhạy cảm hơn trong bối cảnh khủng hoảng nợ công đang bao phủ toàn cầu và đe dọa nhấn chìm nền kinh tế thế giới vào vòng xoáy khủng hoảng tồi tệ mới vô tiền khoáng hậu… Cần nhận thức rõ rằng, nếu khủng hoảng nợ công xảy ra, Việt Nam sẽ phải tự mình vượt qua mà khó trông cậy vào sự cứu trợ từ các chủ nợ, các khối kinh tế hay tổ chức tài chính khu vực và quốc tế như chuyện của EU hiện tại. Cùng với đó, Việt Nam cần nhanh chóng chuẩn hóa hệ thống thống kê nợ công theo thông lệ quốc tế để nắm bắt được thực chất vấn đề nợ công hiện nay và chiều hướng sắp tới; tăng cường thể chế quản lý và giám sát nợ công, hình thành cơ quan quản lý nợ công thống nhất; về trung và dài hạn, tăng cường tính bền vững của nợ công phải gắn với quá trình tái cơ cấu đầu tư công, tài chính công và tái cấu trúc khu vực doanh nghiệp nhà nước để giảm bớt gánh nặng ngân sách; thay đổi quan điểm tiếp cận tính bền vững nợ công theo hướng chất lượng chính sách và thể chế phát triển sẽ quyết định năng lực trả nợ của một quốc gia; thay đổi cơ cấu nợ công theo hướng bền vững; phát triển nội lực nền kinh tế. 4.6. Thực hiện hiệu quả quản lý nợ công
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng