Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng nguồn lực và kiến thức, thực hành của cán bộ y tế về tiêm an toàn tại...

Tài liệu Thực trạng nguồn lực và kiến thức, thực hành của cán bộ y tế về tiêm an toàn tại trạm y tế xã phường thành phố phủ lý tỉnh hà nam năm 2016

.PDF
96
270
53

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y DƢỢC THÁI BÌNH CHU THỊ HỒNG HUẾ THỰC TRẠNG NGUỒN LỰC VÀ KIẾN THỨC, THỰC HÀNH CỦA CÁN BỘ Y TẾ VỀ TIÊM AN TOÀN TẠI TRẠM Y TẾ XÃ/PHƢỜNG THÀNH PHỐ PHỦ LÝ TỈNH HÀ NAM NĂM 2016 LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG Mã số: 60 72 02 01 Hƣớng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Xuân Bái 2. PGS.TS. Ngô Thị Nhu THÁI BÌNH -2017 LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn, ngoài sự nỗ lực của bản thân tôi còn nhận được sự giúp đỡ của các cơ quan, tập thể và cá nhân. Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn Đảng ủy, Ban giám hiệu, phòng Quản lý đào tạo Sau đại học, Khoa Y tế Công cộng - Trường Đại học Y Dược Thái Bình là cơ sở trực tiếp đào tạo cho tôi sự trưởng thành về kiến thức, kỹ năng, phương pháp nghiên cứu khoa học. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Cao đẳng Y tế Hà Nam đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, làm việc và thu thập số liệu để hoàn thành luận văn đúng tiến độ. Đặc biệt, với lòng biết ơn sâu sắc tôi xin gửi tới hai Thầy, Cô hướng dẫn của mình là PGS.TS Nguyễn Xuân Bái và PGS.TS. Ngô Thị Nhu. Hai người Thầy đã hướng dẫn chỉ bảo tận tình cho tôi trong suốt quá trình làm đề tài giúp tôi vững bước trên con đường học tập và công tác sau này. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến cha mẹ của tôi, gia đình của tôi, bạn bè và đồng nghiệp là hậu phương vững chắc đã cho tôi động lực vươn lên trong học tập và cuộc sống. Trân trọng cảm ơn! Thái Bình, tháng 05 năm 2017 Chu Thị Hồng Huế LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng nghiên cứu này là của riêng tôi. Những số liệu trong nghiên cứu là do tôi thu thập trong quá trình nghiên cứu và làm việc tại Trường Cao đẳng Y tế Hà Nam một cách tỷ mỷ, khoa học và chính xác. Kết quả thu thập được trong nghiên cứu chưa được đăng tải và công bố trên bất kỳ một tạp chí hay công trình khoa học nào. Các bài trích dẫn, các số liệu tham khảo đều là những tài liệu đã được công nhận. Thái Bình, ngày 30 tháng 05 năm 2017 Tác giả luận văn Chu Thị Hồng Huế DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT AIDS: Acquired Immunodeficiency Syndrome (Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người) BKT: Bơm kim tiêm CDC: Trung tâm kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ (The US Centers for Disease Control) CI: Confidence Interval (Khoảng tin cậy) ĐDV: Điều dưỡng viên HBV: Hepatitis B virus (vi rút viêm gan B) HCV: Hepatitis C virus (vi rút viêm gan C) HIV: Human Immunodeficiency Virus (Vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người) NB: Người bệnh NKBV: Nhiễm khuẩn bệnh viện NVYT: Nhân viên y tế RTTQ: Rửa tay thường quy SIGN: Safe Injection Global Network (Mạng lưới tiêm an toàn toàn cầu) SL: Số lượng TAT: Tiêm an toàn TKAT: Tiêm không an toàn VSN: Vật sắc nhọn WHO: World Health Organization (Tổ chức Y tế Thế giới) MỤC LỤC ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................... 1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU .......................................................... 3 1.1. Kiến thức liên quan đến tiêm an toàn ....................................................... 3 1.1.1. Một số khái niệm ............................................................................ 3 1.1.2. Kiểm soát nhiễm khuẩn liên quan đến tiêm an toàn ........................ 4 1.1.3. Phòng ngừa chuẩn liên quan đến tiêm an toàn ................................ 6 1.1.4. Nguyên nhân và những rủi ro xảy ra do tiêm không an toàn ........... 7 1.1.5. Nguồn lực phục vụ công tác tiêm an toàn ..................................... 13 1.2. Một số nghiên cứu về tiêm an toàn ........................................................ 16 1.2.1. Các nghiên cứu trên thế giới ......................................................... 16 1.2.2. Các nghiên cứu tại Việt Nam ........................................................ 18 1.3. Hệ thống tổ chức ngành Y tế Việt Nam ................................................. 21 Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............ 25 2.1. Địa bàn và đối tượng nghiên cứu ........................................................... 25 2.1.1. Địa điểm nghiên cứu..................................................................... 25 2.1.2. Đối tượng nghiên cứu ................................................................... 25 2.1.3. Thời gian nghiên cứu .................................................................... 26 2.2. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 26 2.2.1. Thiết kế nghiên cứu ...................................................................... 26 2.2.2. Cỡ mẫu và kỹ thuật chọn mẫu....................................................... 26 2.2.3. Biến số và chỉ số trong nghiên cứu ............................................... 27 2.2.4. Các kỹ thuật áp dụng trong thu thập số liệu nghiên cứu ................ 29 2.2.5. Kỹ thuật xử lý số liệu và biện pháp hạn chế sai số ........................ 30 2.2.6. Tiêu chuẩn đánh giá thực hành tiêm an toàn ................................. 31 2.3. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu .......................................................... 33 Chƣơng 3 : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ..................................................... 34 3.1. Thực trạng nguồn lực phục vụ tiêm an toàn tại các trạm y tế điều tra .... 34 3.1.1. Thực trạng nguồn nhân lực phục vụ tiêm an toàn ......................... 34 3.1.2. Thực trạng trang thiết bị phục vụ tiêm an toàn .............................. 37 3.2. Kiến thức và thực hành của NVYT về tiêm an toàn ............................... 41 3.2.1. Kiến thức của NVYT về tiêm an toàn ........................................... 41 3.2.2. Thực hành tiêm an toàn của nhân viên y tế ................................... 48 Chƣơng 4: BÀN LUẬN .............................................................................. 52 4.1. Thực trạng nguồn lực phục vụ tiêm an toàn tại các trạm điều tra ........... 53 4.1.1. Thực trạng nguồn nhân lực ........................................................... 53 4.1.2. Thực trạng trang thiết bị phục vụ tiêm an toàn .............................. 55 4.1.3. Thực trạng các mũi tiêm tại địa bàn nghiên cứu............................ 56 4.2. Kiến thức và thực hành của nhân viên y tế về tiêm an toàn .................... 58 4.2.1. Kiến thức của nhân viên y tế về tiêm an toàn ................................ 58 4.2.2. Thực hành tiêm an toàn của nhân viên y tế ................................... 66 KẾT LUẬN ................................................................................................. 71 KHUYẾN NGHỊ......................................................................................... 73 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1. Trình độ chuyên môn của NVYT tại địa bàn nghiên cứu .............. 34 Bảng 3.2. Thâm niên công tác của NVYT thuộc đối tượng nghiên cứu ....... 35 Bảng 3.3. Tỷ lệ NVYT đã được tập huấn về tiêm an toàn ............................ 35 Bảng 3.4. Tỷ lệ NVYT cho biết thời gian từ khi tập huấn tới nay ................ 36 Bảng 3.5. Bảng nhu cầu được tập huấn lại về tiêm an toàn của NVYT ......... 36 Bảng 3.6. Bảng phân cấp trạm y tế theo tiêu chuẩn và theo vùng ................ 37 Bảng 3.7. Thực trạng một số vật tư tiêu hao liên quan đến tiêm an toàn ....... 37 Bảng 3.8. Thực trạng một số trang thiết bị phục vụ hoạt động tiêm .............. 38 Bảng 3.9. Tỷ lệ trạm có dung dịch sát khuẩn tay nhanh, xà phòng rửa tay ... 39 Bảng 3.10. Số bệnh nhân nằm điều trị tại 21 trạm y tế .................................. 39 Bảng 3.11. Tỷ lệ bệnh nhân bị tai biến trong và sau khi tiêm........................ 40 Bảng 3.12. Tỷ lệ nhân viên y tế bị kim đâm vào tay trong 1 năm qua .......... 40 Bảng 3.13. Kiến thức của NVYT về khái niệm tiêm an toàn ....................... 41 Bảng 3.14. Tỷ lệ NVYT trả lời về số tiêu chuẩn đánh giá tiêm an toàn ....... 41 Bảng 3.15. Ý kiến của NVYT về chỉ định và hiệu quả tiêm thuốc hiện nay . 42 Bảng 3.16. Kiến thức của NVYT về mục đích của tiêm an toàn ................... 42 Bảng 3.17. Kiến thức của nhân viên y tế về nguyên nhân dẫn đến tiêm không an toàn ........................................................................................ 43 Bảng 3.18. Kiến thức của NVYT về nguy cơ xảy ra khi tiêm không an toàn 44 Bảng 3.19. Kiến thức của nhân viên y tế về xử trí bệnh nhân bị sốc phản vệ.44 Bảng 3.20. Kiến thức của nhân viên y tế về vô khuẩn khi tiêm..................... 45 Bảng 3.21. Kiến thức của nhân viên y tế biết về phòng hộ cá nhân khi tiêm. 46 Bảng 3.22. Ý kiến của nhân viên y tế về sự cần thiết phải thực hiện các nội dung trong thao tác tiêm ............................................................. 46 Bảng 3.23. Kiến thức của NVYT về xử lý bơm kim tiêm sau khi sử dụng ... 47 Bảng 3.24. Kiến thức của nhân viên y tế về mục đích của việc tiêu hủy đúng cách vật dụng tiêm và vật sắc nhọn ............................................. 47 Bảng 3.25. Hiểu biết của NVYT về cách xử trí vật sắc nhọn đâm vào tay .... 48 Bảng 3.26. Thực hành vô khuẩn trong tiêm .................................................. 49 Bảng 3.27. Thực hành tiêm đảm bảo an toàn cho người bệnh ...................... 49 Bảng 3.28. Đánh giá thực hành tiêm an toàn của nhân viên y tế ................... 51 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ trạm có bác sĩ .................................................................. 34 Biểu đồ 3.2. Đặc điểm chung về các mũi tiêm được quan sát ...................... 48 Biểu đồ 3.3. Quan sát thực hành kỹ thuật tiêm ............................................. 50 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Theo Tổ chức Y tế thế giới, tiêm là một thủ thuật tương đối phổ biến trong quá trình điều trị. Trên toàn thế giới, ước tính mỗi năm một người nhận khoảng 1,5 mũi tiêm. Tại các nước đang phát triển, hàng năm có khoảng 25 tỷ mũi tiêm trong đó 90% với mục đích điều trị, 3-10% tiêm chủng, 1% nhằm mục đích kế hoạch hóa gia đình và 1% được sử dụng trong truyền máu và các sản phẩm của máu [50]. Tiêm có vai trò quan trọng trong việc phòng và chữa bệnh tại các cơ sở y tế nhất là tại các bệnh viện, đặc biệt nơi có nhiều người bệnh nặng, nhưng hiện nay có khoảng 50% số mũi tiêm tại các nước đang phát triển chưa đạt đủ các tiêu chuẩn cần thiết cho một mũi tiêm an toàn [15], tỷ lệ này ở Nepan vào khoảng 15% [43]. Hậu quả của việc tiêm không an toàn có thể gây ra những nguy cơ như áp xe, teo cơ tại vị trí tiêm, sốc phản vệ và đặc biệt là nguy cơ lây truyền các virus qua đường máu như virus viêm gan B, viêm gan C và HIV/AIDS cho cả người bệnh, nhân viên y tế và cộng đồng [27]. Theo thống kê, từ mũi tiêm không an toàn có từ 2-9% các trường hợp nhiễm HIV/AIDS hàng năm, 2 triệu người mỗi năm nhiễm viêm gan B, C và 1,3 triệu người tử vong sớm/năm, phí tổn y tế trực tiếp là 535 triệu đô la Mỹ/năm [33]. Vì vậy, hiện nay vấn đề tiêm an toàn là một trong những nội dung đang được quan tâm ở nhiều nước [43]. Có nhiều lý do dẫn đến tiêm không an toàn, bên cạnh các động tác tiêm hay gặp sai sót trong quá trình thực hiện các quy trình kỹ thuật tiêm thì phương tiện, dụng cụ tiêm và vấn đề xử lý rác thải sau tiêm cũng là những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến mũi tiêm không an toàn [19]. Các trạm y tế xã/phường là đơn vị y tế cơ sở, thực hiện nhiêm vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, sơ cứu, cấp cứu, điều trị các bệnh lý thông thường. Số lượt người bệnh nằm điều trị nội trú không nhiều nhưng hàng năm các trạm y tế xã/ phường đã có hàng triệu mũi tiêm được thực hiện chủ yếu là tiêm chủng 2 mở rộng. Tuy vậy, cho tới nay trên địa bàn tỉnh nói chung và tại thành phố Phủ lý nói riêng chưa có một nghiên cứu đầy đủ nào xem xét thực trạng nguồn lực và kiến thức, thái độ, thực hành của các nhân viên y tế đang công tác tại các trạm y tế xã, phường về tiêm an toàn. Câu hỏi được đặt ra là: Vậy thực trạng nguồn lực đảm bảo tiêm an toàn cũng như kiến thức, thái độ, thực hành của các nhân viên y tế về tiêm an toàn như thế nào? Chính vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu “Thực trạng nguồn lực và kiến thức, thực hành của nhân viên y tế về tiêm an toàn tại trạm y tế xã/phƣờng thành phố Phủ Lý tỉnh Hà Nam năm 2016”. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 1. Mô tả thực trạng nguồn lực đảm bảo tiêm an toàn tại 21 trạm y tế xã/phường thành phố Phủ Lý tỉnh Hà Nam năm 2016. 2. Đánh giá kiến thức và thực hành về tiêm an toàn của nhân viên y tế tại địa bàn nghiên cứu. 3 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Kiến thức liên quan đến tiêm an toàn 1.1.1. Một số khái niệm Kiến thức: Theo Random House, kiến thức là những kinh nghiệm, những sự kiện có thực phản ánh trí thông minh của con người, được hình thành qua học tập, quan sát và kinh nghiệm. Thái độ: Theo Ajzenn và Ford, thái độ là biểu hiện sự bằng lòng hoặc phản đối một vấn đề nào đó. Thái độ rất quan trọng đối với hành vi của con người. Thực hành: là công việc thực tế đã đạt được qua thực hiện các kỹ năng và kỹ xảo. Tiêm an toàn: Tiêm an toàn (TAT) là mũi tiêm có sử dụng phương tiện tiêm vô khuẩn, phù hợp với mục đích, không gây hại cho người được tiêm, không gây nguy cơ phơi nhiễm cho người thực hiện tiêm, và không gây chất thải nguy hại cho người khác. Hay nói cách khác, tiêm an toàn là mũi tiêm “An toàn cho người bệnh, an toàn cho cộng đồng và an toàn cho cán bộ y tế” [13]. Phòng ngừa chuẩn: Phòng ngừa chuẩn là tổng hợp các phương pháp “Dự phòng phổ cập” (nhằm giảm nguy cơ lây truyền tác nhân gây bệnh đường máu) và “cách ly chất tiết và chất thải của cơ thể” (nhằm làm giảm nguy cơ lây truyền tác nhân gây bệnh từ chất tiết, chất thải của cơ thể) [6]. Nhiễm khuẩn bệnh viện: Nhiễm khuẩn bệnh viện là nhiễm khuẩn mà người bệnh mắc phải trong thời gian nằm viện. Thông thường nhiễm khuẩn 4 bệnh viện xảy ra sau 48 giờ nhập viện. Nhiễm khuẩn này không hiện diện cũng như không ở trong giai đoạn ủ bệnh tại thời điểm nhập viện [4], [6]. 1.1.2. Kiểm soát nhiễm khuẩn liên quan đến tiêm an toàn Mặc dù kiến thức về kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện ngày càng được nâng cao, kháng sinh mới có phổ tác dụng rộng hiện nay rất đa dạng và biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn được tăng cường, song nhiễm khuẩn bệnh viện vẫn chưa giảm và trong tương lai nó vẫn là một trong những thách thức không nhỏ đối với những nhà quản lý bệnh viện, những nhà nghiên cứu, thầy thuốc và điều dưỡng viên lâm sàng. Thống kê cho thấy tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) vào khoảng 510% ở các nước đã phát triển và lên đến 15-20% ở các nước đang phát triển, cá biệt một số nước tỷ lệ này còn lên đến 25% [35]. Các điều tra liên quốc gia do các nước và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thực hiện cho thấy: nhiễm khuẩn bệnh viện ở các nước châu Âu và khu vực Tây Thái Bình Dương từ 7,7% - 9%; tỷ lệ này cao hơn ở Trung Đông và khu vực Đông Nam Á: 11,8% và 10% [49]. Nhiễm khuẩn bệnh viện cũng làm gia tăng tỷ lệ tử vong tại bệnh viện. Đồng thời, NKBV kéo dài thời gian nằm viện trung bình từ 7 đến 15 ngày, làm gia tăng sử dụng kháng sinh và kháng kháng sinh. Do đó, chi phí cho NKBV thường tăng gấp 2-4 lần so với các trường hợp không NKBV [4]. Tại Việt Nam, theo kết quả của ba cuộc điều tra cắt ngang quốc gia được thực hiện vào các năm 1998, 2001 và 2005 thì tỷ lệ NKBV lần lượt là 11,5%, 6,8% và 5,7% [10]. Kết quả điều tra theo vùng, cụm bệnh viện mới đây thì tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện dao động từ 5,5-8% [10]. Vào bất cứ thời điểm nào cũng có khoảng 4.000-5.000 ca NKBV trong đó chưa kể số bệnh nhân điều trị tại tuyến huyện. Phổ biến nhất là: nhiễm khuẩn hô hấp (41,9%), 5 nhiễm khuẩn vết mổ (27,5%), nhiễm khuẩn tiết niệu (13,1%). Lý do làm NKBV không giảm là do bệnh viện ngày càng có nhiều thủ thuật can thiệp, tác nhân gây bệnh ngày càng phức tạp, người bệnh vào viện điều trị thường nặng và dễ bị phơi nhiễm, phương thức lây bệnh ngày càng phức tạp trong khi các biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn vẫn còn đơn giản [21]. Theo WHO từ năm 2000 đến năm 2010, ở các nước đang phát triển, số lượng tiêm trung bình mỗi người mỗi năm giảm từ 3,40 xuống 2,88; trong khi tỷ lệ tái sử dụng thiết bị tiêm giảm từ 39,8% xuống 5,5%. Kết hợp cả hai yếu tố, số lần tiêm không an toàn trên người mỗi năm giảm từ 1,35 xuống 0,16. Ngay cả khi tiến bộ đáng kể đã được thực hiện, khu vực Đông Địa Trung Hải vẫn còn có vấn đề, với 0,57 lần tiêm không an toàn cho mỗi người mỗi năm. Tại châu Phi hạ Sahara và Mỹ Latinh, người ta nhận được bình quân chỉ 0,04-0,05 lần tiêm không an toàn mỗi năm [50]. Công tác kiểm soát nhiễm khuẩn tại Việt Nam cũng đã được quan tâm thông qua việc xây dựng các văn bản, tài liệu hướng dẫn, các chương trình huấn luyện,… Hàng năm, trong tiêu chuẩn kiểm tra bệnh viện, các tiêu chí và tỷ lệ điểm kiểm tra về công tác kiểm soát nhiễm khuẩn là những chỉ số đánh giá chất lượng khám chữa bệnh quan trọng . Năm 1997, Bộ Y tế đã ban hành Quy chế bệnh viện, trong đó có quy chế chống nhiễm khuẩn trong bệnh viện và quy chế xử lý chất thải y tế [1], [5]. Năm 2009, Bộ Y tế tiếp tục ra Quyết định số 1040/2009/QĐ-BYT về việc ban hành Tài liệu hướng dẫn quy trình chống nhiễm khuẩn bệnh viện tập I; Thông tư số 18/2009/TT-BYT về việc hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác kiểm soát nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của nhà nước, tư nhân [5]. Trong các văn bản đó đã đề cập đến khá nhiều nội dung liên quan đến tiêm an toàn như: vệ sinh tay; thực hiện các quy định về vô khuẩn; làm 6 sạch, khử khuẩn, tiệt khuẩn dụng cụ và phương tiện chăm sóc, điều trị; quản lý chất thải; cơ sở vật chất, trang thiết bị và phương tiện,… Kiểm soát nhiễm khuẩn và tiêm an toàn luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau. Thực hiện các mũi tiêm an toàn sẽ góp phần giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện và thực hiện tốt việc kiểm soát nhiễm khuẩn sẽ tăng tỷ lệ các mũi tiêm an toàn. Trong mối liên hệ với tiêm an toàn, một số giải pháp thực hành kiểm soát nhiễm khuẩn bao gồm: (1) Sử dụng phương tiện tiêm vô khuẩn; (2) Phòng ngừa sự nhiễm bẩn phương tiện và thuốc tiêm; (3) Phòng ngừa các tác nhân gây bệnh cho người tiêm do mũi kim tiêm; và (4) Cô lập và quản lý triệt để bơm kim tiêm đã dùng. Ngoài ra còn một số giải pháp khác liên quan đến việc sản xuất bơm kim tiêm, hành vi thực hành của nhân viên y tế (rửa tay, mang găng khi tiêm,…) [6]. 1.1.3. Phòng ngừa chuẩn liên quan đến tiêm an toàn Phòng ngừa chuẩn là tổng hợp các phương pháp nhằm giảm nguy cơ lây truyền tác nhân gây bệnh đường máu giảm nguy cơ lây truyền tác nhân gây bệnh từ chất tiết, chất thải của cơ thể. Mục đích của phòng ngừa chuẩn là giảm nguy cơ lây truyền vi sinh vật từ nguồn nhiễm khuẩn đã biết hay chưa biết rõ tại bệnh viện. Nguyên tắc của phòng ngừa chuẩn là coi tất cả mọi người (cả người bệnh và nhân viên y tế) đều có nguy cơ truyền bệnh và nguy cơ nhiễm bệnh. Do đó, thực hiện tốt phòng ngừa chuẩn chính là biện pháp thiết yếu để dự phòng phơi nhiễm nghề nghiệp cho nhân viên y tế [4],[39]. Có hai cấp độ của phòng ngừa chuẩn. Đó là phòng ngừa chuẩn áp dụng với tất cả người bệnh sử dụng dịch vụ y tế và phòng ngừa dựa vào đường truyền bệnh chỉ áp dụng với những bệnh nhân điều trị nội trú tại bệnh viện. Nội dung của phòng ngừa chuẩn liên quan đến tiêm an toàn bao gồm: (1) Rửa tay thường quy và sát khuẩn tay nhanh; (2) Sử dụng trang phục phòng 7 hộ cá nhân để tránh tiếp xúc với máu, dịch tiết; (3) Sử dụng những phương tiện và thực hành chăm sóc an toàn; (4) Phòng ngừa tổn thương do vật sắc nhọn và mũi kim đâm [6]. Vệ sinh bàn tay là thành phần cơ bản của phòng ngừa chuẩn và là biện pháp hiệu quả nhất trong nỗ lực kiểm soát sự lây truyền tác nhân gây bệnh trong các cơ sở y tế. Vệ sinh bàn tay đối với nhân viên y tế (NVYT) được hiểu như thuốc kháng sinh hữu hiệu, ít tốn kém nhất, đơn giản nhất để giữ cho bệnh viện có được môi trường sạch. Bác sỹ và người bệnh có được rào chắn an toàn trước sự tấn công của vi khuẩn từ đó có thể tránh được các NKBV do bàn tay không sạch gây nên. Nếu cán bộ y tế thực hiện nghiêm việc rửa tay đúng quy trình sẽ giúp giảm 50% số ca nhiễm khuẩn bệnh viện. Ngược lại, nếu không làm tốt công tác chống nhiễm khuẩn bệnh viện, các bệnh nguy hiểm sẽ lan ra các bệnh nhân đang điều trị tại bệnh viện, sau đó lây nhiễm sang người nhà bệnh nhân và nhân viên y tế [14][31]. Tuy nhiên, hiện nay các nhân viên y tế vẫn chưa chú ý đến việc rửa tay, đặc biệt là việc rửa tay trước khi tiếp xúc với mỗi bệnh nhân. Chính vì vậy, WHO đã ra lời kêu gọi tất cả các nhân viên làm việc tại bệnh viện cần phải rửa tay thường xuyên hơn nữa bằng dung dịch sát khuẩn và nếu không có những dung dịch này thì nhất thiết phải rửa bằng xà phòng thường. 1.1.4. Nguyên nhân và những rủi ro xảy ra do tiêm không an toàn * Nguyên nhân của việc tiêm không an toàn Hiện nay, vấn đề tiêm không an toàn vẫn xảy ra phổ biến tại các nước đang phát triển và các nước kém phát triển. WHO gọi tiêm không an toàn là dịch bệnh thầm lặng làm lây truyền viêm gan B, C và HIV. Có nhiều lý do dẫn đến việc tiêm thiếu an toàn bao gồm các yếu tố chủ quan và khách quan [27]. 8 Đầu tiên phải kể đến vấn đề lạm dụng thuốc tiêm trong điều trị bệnh. Có nhiều người bệnh thay vì có thể điều trị bằng thuốc uống thì vẫn được sử dụng thuốc tiêm. Đối với người bệnh, họ thường đề nghị hoặc yêu cầu bác sĩ cho dùng thuốc tiêm vì họ tin rằng việc sử dụng thuốc tiêm sẽ giúp họ nhanh khỏi bệnh hơn so với thuốc uống. Với thầy thuốc, vì muốn thỏa mãn nhu cầu của người bệnh nên sẽ tiêm cho họ mặc dù bệnh đó có thể được điều trị bằng phương pháp khác. Nếu họ không làm như thế người bệnh sẽ cho rằng họ không quan tâm, đôi khi thắc mắc hoặc kiện cáo. Trong một số trường hợp, họ cũng tin rằng thuốc tiêm cũng sẽ nhanh khỏi hơn thuốc uống, đưa ra chỉ định thuốc tiêm chưa hợp lý hoặc có thể họ muốn có lợi ích tài chính cao hơn. Đôi khi việc thiếu sự trao đổi giữa người sử dụng dịch vụ và người cung cấp dịch vụ có thể cũng góp phần trong việc lạm dụng tiêm [29]. Chính vì việc lạm dụng thuốc tiêm đã dẫn đến số mũi tiêm ngày càng nhiều và nguy cơ xảy ra mũi tiêm không an toàn lại càng lớn. Do đó, nếu hạn chế được các mũi tiêm không cần thiết không chỉ làm giảm được một nửa số mũi tiêm không an toàn mà còn làm giảm việc lây truyền các tác nhân gây bệnh qua đường máu, tiết kiệm nguồn lực y tế đồng thời sẽ giảm bớt gánh nặng kinh tế của người bệnh. Theo hướng dẫn của WHO, trong khi sử dụng thuốc phải đảm bảo đúng người bệnh, đúng thuốc, đúng liều lượng, đúng đường dùng và đúng thời gian [3], [7]. Cũng theo WHO, tại một số khu vực, việc sử dụng thuốc tiêm đã hoàn toàn vượt qua các nhu cầu thực tế. Ước tính cứ 10 bệnh nhân thì có 9 bệnh nhân cho rằng mình đã tiêm một lần, trên 70% trong số đó là không cần thiết hoặc có thể dùng thuốc uống thay cho việc tiêm. Việc lạm dụng thuốc tiêm xảy ra nhiều hơn ở các nước có thu thập nhấp, một thống kê tại 13 nước có thu nhập thấp cho thấy trung bình mỗi người nhận 1,5 mũi tiêm một năm, dao động từ 1,2 (ở Tanzania và Ấn Độ) đến 8,5 (ở Pakistan). 8 trong số 13 quốc gia này, 9 25%-96% bệnh nhân ngoại trú được tiêm ít nhất một lần, 5/13 nước có từ 70%99% mũi tiêm được đánh giá là không cần thiết, như tại Tanzania là 70%, Indonesia 82% và Moscow lên đến 99% [43], [49]. Một nghiên cứu tại Banglades cũng cho thấy, khi quan sát 175 mũi tiêm thì có đến 97 mũi tiêm là không cần thiết (55%). Trong số này, 87 mũi tiêm được dùng cho các trường hợp không đảm bảo hiệu quả điều trị bằng cách tiêm và 10 mũi tiêm sử dụng thuốc không thích hợp. Kết quả phỏng vấn 79 bác sĩ điều trị cho kết quả: 68% bác sĩ cho rằng các loại thuốc tiêm có thể được thay thế một phần bằng thuốc uống [34],[35]. Tuy nhiên, có 29% bác sĩ cho rằng sẽ điều trị bằng cách tiêm cho các trường hợp bị sốt, 33% điều trị bằng đường uống và 28% điều trị bằng cả hai cách. Có15% bác sĩ cho rằng chính họ đã từng kê đơn quá nhiều thuốc khi tiêm và 97% bác sĩ cho rằng thuốc tiêm có tác dụng nhanh hơn thuốc uống, 3% cho rằng điều trị bằng cách tiêm sẽ mang lại lợi ích tài chính cao hơn [37]. Nghiên cứu của Vụ Điều trị Bộ Y tế, tại 8 tỉnh thì trung bình mỗi người bệnh điều trị nội trú được tiêm 2,2 mũi/ngày [10]. Nghiên cứu của Vũ Thị Liên tại bệnh viện Định Quán cho kết quả: 82% NVYT cho rằng người bệnh và người nhà thích được tiêm hơn uống, 58% cho rằng chỉ định tiêm là quá mức cần thiết [18]. Nguyên nhân tiếp theo dẫn đến việc tiêm không an toàn là do ý thức của cán bộ y tế. Một số cán bộ y tế chưa tuyệt đối tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật tiêm như vẫn dùng chung bơm kim tiêm cho những loại thuốc khác nhau, cho những người bệnh khác nhau; dùng một kim lấy thuốc để pha thuốc và rút thuốc nhiều lần, lưu kim lấy thuốc trên lọ thuốc; chưa thường xuyên rửa tay trước khi chuẩn bị thuốc; dùng lại kim tiêm để tiêm lại cho người bệnh sau mũi tiêm đầu thực hiện không thành công; cắt giảm các bước của 10 quy trình tiêm: khi đi tiêm không mang đủ cơ số thuốc cấp cứu sốc phản vệ, không có hộp an toàn, không có dây garo khi tiêm tĩnh mạch, không sử dụng xe tiêm, khay đựng bơm kim tiêm khi đi tiêm; thao tác tiêm chưa tốt [36][41]. Một nguyên nhân khác cũng dẫn đến việc tiêm không an toàn đó là thiếu phương tiện hoặc phương tiện tiêm không phù hợp với yêu cầu sử dụng. Trong đó có thể kể đến đó là không đủ bồn rửa tay, dung dịch sát khuẩn tay nhanh, kim tiêm quá to hoặc quá nhỏ so với chỉ định tiêm, buồng bệnh chật chội hoặc ô nhiễm, thiếu hộp an toàn, thiếu các điều kiện vô trùng, khử trùng, tiệt trùng dụng cụ [26]. Đánh giá được thực hiện ở nhiều quốc gia đã cho thấy rằng bơm tiêm và kim tiêm thường chỉ rửa sạch bằng nước ấm giữa các mũi tiêm. Trên thế giới, có đến 40% mũi tiêm dùng bơm kim tiêm sử dụng lại mà không được khử trùng và ở một số nước tỷ lệ này cao đến 70%. Tại một số nước, hoạt động kiểm tra, giám sát việc tái sử dụng bơm kim tiêm (BKT) không được thực hiện một cách chặt chẽ đã dẫn đến việc các bơm kim tiêm không được xử lý an toàn được bày bán tại các chợ đen và điều này đã làm cho hàng triệu người bị nhiễm trùng [30]. Các nguyên nhân khác bao gồm tình trạng quá tải người bệnh, quá tải công việc, thiếu nhân lực,… Theo lãnh đạo Cục Quản lý khám chữa bệnh thì hiện nay 100% bệnh viện chưa tuyển đủ biên chế so với định mức quy định của Thông tư 08/2007/TTLT-BYT-BNV [9] do việc thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP. Việc thiếu nhân lực khám chữa bệnh sẽ dẫn đến tình trạng quá tải công việc. Theo đánh giá của Hội điều dưỡng Việt Nam năm 2015 trung bình một điều dưỡng phải thực hiện 10 mũi tiêm 11 một ngày, nghiên cứu của Phạm Ngọc Tâm thì con số này là 16,8 mũi tiêm đó là chưa kể đến những công việc chuyên môn khác [22]. * Những rủi ro xảy ra do tiêm không an toàn Tiêm không an toàn không chỉ gây nguy cơ lây bệnh hết sức nguy hiểm cho người được tiêm, nguy cơ phơi nhiễm cho người tiêm mà còn gây thiệt hại rất lớn về kinh tế và ảnh hưởng không nhỏ đến cộng đồng. Từ mũi tiêm không an toàn có thể là tác nhân gây nên 40 loại bệnh khác nhau trong đó phải kể đến là viêm gan B, viêm gan C, HIV/AIDS, bệnh sốt xuất huyết, sốt rét, uốn ván,… từ đó làm tăng rủi ro và gánh nặng của các bệnh truyền nhiễm [32]. Theo ước tính của WHO, mỗi năm từ mũi tiêm không an toàn đã làm ảnh hưởng đến 10-26 triệu người, làm cho 417.000 - 1,3 triệu người tử vong, mất 26 triệu năm sống [47], phí tổn y tế gián tiếp là 535 triệu đô la Mỹ/năm. Cũng từ mũi tiêm không an toàn có từ 8-16 triệu người mắc bệnh viêm gan B (HBV) mỗi năm, 2,3-4,7 triệu người mắc bệnh viêm gan C (HCV) trên toàn thế giới [27]. Theo thống kê của WHO thì năm 2000 có 260.000 ca mới nhiễm HIV/AIDS do tiêm thiếu an toàn gây nên và con số này vào năm 2008 đã lên đến 340.000 ca. Số lượng ca mắc mới viêm gan B, viêm gan C và HIV/AIDS do tiêm thiếu an toàn gây nên chiếm 32%, 40%, và 5% trường hợp mắc bệnh [50]. Đặc biệt tại Nam Á, tỷ lệ nhiễm HIV do tiêm không an toàn (TKAT) chiếm đến 9% các trường hợp [39]. Đối với vấn đề sức khỏe bà mẹ trẻ em, ước tính mỗi năm có khoảng 0,12% số ca tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi là hậu quả của việc tiêm không an toàn. Trong đó, 989 trường hợp chết vì HIV/AIDS, 628 trường hợp tử vong vì vi rút viêm gan B và 45.992 tử vong vì nhiễm trùng máu [44]. Số ca tử vong mẹ mỗi năm vì nhiễm virut viêm gan B, nhiễm trùng máu do hậu quả của tiêm không an toàn lần lượt là 7.270 và 4.492 ca. Trên toàn thế giới,
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng