THỰC TRẠNG KINH DOANH DỊCH VỤ LOGISTICS Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
I-THỰC TRẠNG KINH DOANH DỊCH VỤ LOGISTICS Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
1-Nhận thức của các doanh nghiệp Việt Nam về logistics
Qua nghiên cứu và khảo sát thực tế, chúng ta có thể rút ra sự nhận thức
của doanh nghiệp kinh doanh dịch logistics được thể hiện ở những điểm cụ thể
sau đây:
1.1- Logistics là sự phát triển tất yếu của dịch vụ vận tải giao nhận.
Logistics chính là sản phẩm của sự phát triển vận tải giao nhận ở trình độ
cao. Cho đến nay, việc kinh doanh dịch vụ logistics ở các doanh nghiệp Việt
Nam mới chỉ xoay quanh hoạt động vận tải giao nhận. Do đó theo các doanh
nghiệp Việt Nam thì hoạt động logistics có thể chia thành 4 giai đoạn như sau:
* Giai đoạn 1: Người kinh doanh dịch vụ logistics có nhiệm vụ giao
nhận, vận chuyển hàng hóa, làm các thủ tục và tư vấn cho chủ hàng để giải
quyết những vấn đề phát sinh trong giao nhận vận chuyển hàng hóa.
* Giai đoạn 2: Người kinh doanh dịch vụ logistics đảm nhiệm giao nhận
hàng hóa, làm tất cả các thủ tục có liên quan như là người đại lý của chủ hàng,
nhưng người kinh doanh dịch vụ logistics phải đứng ra tiến hành việc gom
hàng.
* Giai đoạn 3: Người kinh doanh dịch vụ logistics đảm nhận việc vận
chuyển hàng hóa từ điểm đầu đến điểm cuối. Họ đảm nhiệm tất cả các dịch vụ
của một số người vận tải và cung cấp dịch vụ. Nguời kinh doanh dịch vụ
logistics cũng đảm nhận việc thông quan cho hàng hóa và thương thảo với cảng
với tư cách là một người kí hợp đồng độc lập với cảng để thực hiện một số công
việc cần thiết. Lúc này người kinh doanh dịch vụ logistics không còn hành động
như một đại lý thay mặt chủ hàng nữa mà là người đứng ra cung cấp các dịch vụ
cho chủ hàng. Họ đã trở thành một người chủ trong dây chuyền vận tải với tư
cách là một bên chính, phát hành các chứng từ vận chuyển đa phương thức và
chịu trách nhiệm đối với hàng hóa trong suốt quá trình vận chuyển từ khi nhận
hàng để chở cho tới khi giao hàng xong cho người nhận hàng, kể cả việc chậm
giao hàng ở nơi đến.
* Giai đoạn 4: Hiện nay người kinh doanh dịch vụ logistics không còn
làm những công việc đơn thuần của giao nhận vận chuyển mà còn đảm nhận
nhiều công việc khác nữa theo yêu cầu của khách hàng đồng thời kết hợp các
công việc liên quan trở thành một chuỗi dịch vụ cung cấp.Logistics trong quan
niệm của các doanh nghiệp Việt Nam bao gồm mọi dịch vụ liên quan tới vận tải
giao nhận (đường biển, đường hàng không, đường bộ và nội thủy) lưu kho lưu
bãi, sắp xếp hàng hóa sẵn sàng cho việc vận chuyển đóng gói bao bì, ghi mã
hiệu, thương hiệu và phân phối đi các nơi theo yêu cầu của khách hàng.
1.2- Lợi ích logistics mang lại cho các doanh nghiệp sản xuất-kinh
doanh.
Các doanh nghiệp sản xuất-kinh doanh trên thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng ngày càng nhận thấy rằng tất cả các chi phí của việc lập kế hoạch
sắp xếp và chuẩn bị mọi mặt cho hàng hóa để sẵn sàng cung cấp và chi phí lưu
thông có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau trên nhiều khía cạnh.
Nếu tận dụng được công nghệ tin học để tổ chức tốt và chặt chẽ các khâu, các
quá trình lưu chuyển thì giá thành của hàng hóa sẽ giảm đáng kể, do vậy năng
lực cạnh tranh của hàng hóa được nâng cao. Logistics không phải là một dịch vụ
đơn lẻ mà luôn luôn là một chuỗi các hoạt động về vận tải giao nhận hàng hóa
như: đóng gói, lưu kho, lưu bãi, phân phối hàng hóa (nguyên liệu hay thành
phẩm) đi các địa chỉ khác nhau, chuẩn bị cho hàng hóa luôn luôn sẵn sàng ở
trạng thái có yêu cầu của khách hàng là vận chuyển ngay. Chính vì vậy mà khi
nói đến logistics bao giờ người ta cũng đề cập đến chuỗi dịch vụ (logistics
system chain). Với hệ thống chuỗi dịch vụ này, người cung ứng dẽ giúp khách
hàng có thể tiết kiệm được chi phí đầu vào trong các khâu dịch chuyển, lưu kho,
lưu bãi và phân phối hàng hóa cũng như chi phí tương thự ở đầu ra.
Qua khảo sát điều tra một số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản
xuất-kinh doanh trên địa bàn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh thì lợi ích của
logistics đối với doanh nghiệp như sau:
* Giảm được chi phí trong khâu vận tải giao nhận.
Theo kết quả điều tra, có tới 56% số doanh nghiệp được hỏi cho rằng:
ứng dụng hoạt động logistics trong kinh doanh sẽ giảm được rất nhiều chi phí
đặc biệt là chi phí vận chuyển. Bởi vì khi ứng dụng hoạt động logistics, nhà
kinh doanh sẽ tập hợp được các kế hoạch riêng lẻ của các cung đoạn, các phần
việc trong lưu chuyển hàng hóa, nguyên vật liệu thành một kế hoạch thống nhất
nhằm thực hiện một kế hoạch chung đã được vạch ra trên toàn bộ hành trình của
hàng hóa. Đảm bảo chi việc hàng được giao đúng thời gian, đúng thời điểm theo
yêu cầu của khách hàng. Áp dụng logistics đã tạo ra sự thống nhất trong hành
động nhằm thực hiện một kế hoạch chung đã định sẵn cho nên tất cả các chi phí
trong vận tải đã được giảm đi rất nhiều như chi phí lưu kho tại các điểm đầu,
điểm cuối của hành trình giao nhận vận chuyển, hạn chế được các nhược điểm
của phương thức vận tải tham gia cũng như phát huy được những ưu điểm của
chúng, giảm được thời gian giao nhận vận chuyển, tăng nhanh thời gian giao
hàng.
* Tăng cường chất lượng dịch vụ của các doanh nghiệp thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh giữa các ngành, các lĩnh vực,
các doanh nghiệp đang diễn ra hết sức gay gắt. Ngành thương mại cũng không
tránh khỏi quy luật đó. Trong bối cảnh đó, để chiến thắng không có biện pháp
nào hữu hiệu hơn là nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp. Chỉ có nâng cao
chất luợng dịch vụ đáp ứng đwocj mọi nhu cầu của khách hàng mới đảm bảo
được sức cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại trên thị trường. Logistcis
chính là yếu tố tạo nên sức mạnh cho doanh nghiệp trong cạnh tranh. Hiệu quả
của logistics chính là sản phẩm được giao nhận và vận chuyển đến đúng địa
điểm, đúng thời gian và an toàn trong điều kiện tốt nhất với giá cả thỏa thuận
hợp lý nhất. Nhờ áp dụng logistics, chất lượng dịch vụ thương mại được nâng
lên rất nhiều, nâng cao được năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị
trường so vói các doanh nghiệp kinh doanh thương mại thông thường trước đây.
* Tăng doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp kinh doanh vận tải
giao nhận.
Logistcis là một công nghệ tiên tiến, khi ứng dụng sẽ mang lại nhiều lợi
ích thiết thực cho các doanh nghiệp sản xuất-kinh doanh. Nhờ tiết kiệm được
chi phí trong các khâu của quá trình lưu thông hàng hóa, nguyên vật liệu và gia
tăng được chất lượng dịch vụ mà từ đó các doanh nghiệp có cơ hội tăng doanh
thu và lợi nhuận của mình. Khi cung ứng dịch vụ logistics các doanh nghiệp
kinh doanh vận tải giao nhận sẽ cung cấp toàn bộ dịch vụ cho cả chuỗi lưu
chuyển hàng hóa “từ kho đến kho”. Hàng hóa của chủ hàng sẽ được lưu gửi
trong hệ thống kho bãi của doanh nghiệp vận tải giao nhận, được vận chuyển
trên các phương thức vận tải của doanh nghiệp vận tải gioa nhận theo một kế
hoạch được vạch sẵn. Như vậy chi phí lưu kho của khách hàng sẽ tăng dẫn tới
doanh thu của doanh nghiệp cũng sẽ tăng. Mặt khác, nếu quy mô hoạt động
cũng như dịch vụ cung cấp càng lớn, càng đa dạng phong phú bao nhiêu thì
càng làm tăng lợi thế của doanh nghiệp bấy nhiêu. Chi phí cho giao nhận một lô
hàng lớn bao giừo cũng rẻ hơn nhiều chi phí giao nhận vận tải ch nhiều lô hàng
nhỏ, lẻ. Việc thu gom các lô hàng lẻ của nhiều chủ gửi để hình thành một lô
hàng lớn hơn đã tạo cho các doanh nghiệp vận tải giao nhận khai thác triệt để
nguồn hàng trong vận tải giao nhận, tiết kiệm được thời gian, tận dụng tối đa
phương tiện vận chuyển và kết quả cuối cùng là lợi nhuận tăng thêm.
2-Thực trạng kinh doanh logistics trong các doanh nghiệp ở Việt Nam
2.1- Các hình thức hoạt động kinh doanh logistics ở Việt Nam
Hiện nay, theo quy định tại điều 233 Luật Thương mại năm 2005, dịch vụ
logistics được phân loại như sau:
a) Các dịch vụ chủ yếu, bao gồm:
* Dịch vụ bốc xếp hàng hóa, bao gồm cả hoạt động bốc xếp container;
* Dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hóa, bao gồm cả hoạt động kinh
doanh kho bãi container và kho xử lý nguyên liệu, thiết bị;
* Dịch vụ đại lý vận tải, bao gồm cả thủ tục làm đại lý hải quan và lập
kế hoạch bốc dỡ hàng hóa;
* Dịch vụ bổ trợ khác; bao gồm cả hoạt đoọng tiếp nhận, lưu kho và
quản lý thông tin liên quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hóa trong suốt cả
chuỗi logistics; hoạt động xử lý lại hàng hóa bị khách hàng trả lại, hàng hóa tồn
kho, hàng hóa quá hạn, lỗi mốt và tái phân phối hàng hóa đó; hoạt động cho
thuê và thuê mua container.
b) Các dịcg vụ logistics liên quan đến vận tải, bao gồm:
* Dịch vụ vận tải hàng hải
* Dịch vụ vận tải thủy nội địa
* Dịch vụ vận tải hàng không
* Dịch vụ vận tải đường sắt
* Dịch vụ vận tải đường bộ
* Dịch vụ vận tải đường ống
c) Các dịch vụ logistics liên quan khác, bao gồm:
* Dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật
* Dịch vụ bưu chính
* Dịch vụ thương mại bán buôn
* Dịch vụ thương mại bán lẻ, bao gồm các hoạt động quản lý hàng lưu
kho, thu gom, tập hợp, phân loại hàng hóa, phân phối lại và giao hàng;
* Các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng hoạt động kinh doanh logistics bao
gồm rất nhiều mảng, nhiều hoạt động. Tất cả các hoạt động được nêu ở trên tạo
thành một chuỗi có mối quan hệ mật thiết với nhau, gọi là “chuỗi cung ứng”.
Thực tế hiện nay ở Việt Nam cho thấy, do nhiều yếu tố tác động khác nhau, cả
chủ quan lẫn khách quan, mà các doanh nghiệp trong nước mới chỉ tập trung
khai thác các mảng nhỏ trong chuỗi cung ứng. Trong đó, chúng ta thấy phổ biến
nhất là hình thức giao nhận vận tải. Đây là hình thức khá đơn giản, các công ty
giao nhận đóng vai trò là người mua buôn sau đó bán lại cho người mua lẻ.
Thông qua hãng vận tải biển, hàng sau khi được gom thành những container sẽ
được vận chuyển đến quốc gia của người nhận. Tại đó các đại lý mà các công ty
Việt Nam có quan hệ đối tác sẽ làm thủ tục hải quan nhận, dỡ hàng và giao lại
cho người mua hàng tại kho. Như vậy hình thức này chỉ là một phần nhỏ trong
toàn bộ chuỗi giá trị gia tăng logistics.
2.2- Qui mô các doanh nghiệp tham gia cung cấp dịch vụ logistics ở
Việt Nam hiện nay.
Quy mô các doanh nghiệp tham gia cung cấp dịch vụ logistics nhỏ, kinh
doanh manh mún. Nguồn lợi hàng tỷ đô đang chảy vào túi của các nhà đầu tư
nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ có phần nhỏ trong miếng bánh
khổng lồ và đang ngày phình to của dịch vụ logistics. Theo tính toán mới nhất
của Cục Hàng hải Việt Nam, lĩnh vực quan trọng nhất trong logistics là vận tải
biển thì doanh nghiệp trong nước mới chỉ đáp ứng chuyên chở được 18% tổng
lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, phần còn lại đang bị chi phối bởi các doanh
nghiệp nước ngoài. Điều này đã thực sự là một thua thiệt lớn cho các doanh
nghiệp Việt Nam khi có đến 90% hàng hóa xuất nhập khẩu vận tải bằng đường
biển. Năm 2006, lượng hàng qua các cảng biển Việt Nam là 153 triệu tấn và tốc
độ tăng trưởng lên đến 19,4%. Đây thực sự là một thị trường mơ ước mà các tập
đoàn nước ngoài đang thèm muốn và tập trung khai phá.
Hiện nay hạ tầng cơ sở logistics ở Việt Nam nói chung còn nghèo nàn,
quy mô nhỏ, bố trí bất hợp lý. Hệ thống cơ sở hạ tầng gioa thông của Việt Nam
bao gồm trên 17.000 km đường nhựa, hơn 3.200 km đường sắt, 42.000 km
đường thủy, 266 cảng biển và 20 sân bay. Tuy nhiên chất lượng của hệ thống
này là không đồng đều, có những chỗ chưa đảm bảo vê mặt kỹ thuật. Hiện tải
chỉ có khoảng 20 cảng biển tham gia vào việc vận tải hàng hóa quốc tế, các
cảng đnag trong quá trình container hóa nhưng chỉ có thể tiếp nhận các đội tàu
nhỏ và chưa được trang bị các thiết bị xếp dỡ container hiện đại, còn thiếu kinh
nghiệm trong việc điều hàng xếp dỡ container.
Đường hàng không hiện nay cũng không đủ phương tiện chở hàng (máy
bay) cho việc vận chuyển vào mùa cao điểm. Chỉ có sân bay Tân Sơn Nhất là
đón được máy bau chở hàng quốc tế. Các sân bay quốc tế như Tân Sơn Nhất,
Nội Bài, Đà Nẵng vẫn chưa có nhà ga hàng hóa, khu vực hoạt động cho đại lý
logistics thực hiện gom hàng và khai quan như các nước trong khu vực đang
làm. Khả năng bảo trì và phát triển đường bộ còn thấp, dường như không được
thiết kế để vận chuyển container, các đội xe tải chuyên dùng hiện đang cũ kĩ,
năng lực vận tải đường sắt không được tận dụng hiệu quả do chưa hiện đại hóa.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, lượng hàng hóa vận chuyển đường sắt
chiếm khoảng 15% tổng lượng hàng hóa lưu thông. Tuy nhiên đường sắt Việt
Nam vẫn đang sử dụng 2 loại khổ ray khác nhau ( 1000 và 1435 mm) với tải
trọng thấp. Chuyến tàu nhanh nhất chạy tuyến Hà Nội-Hồ Chí Minh hiện vẫn
còn cần đến 32 tiếng đồng hồ.
Quy mô của doanh nghiệp còn thể hiện thông qua số nhân viên của công
ty, nhiều doanh nghiệp chỉ có từ 3-5 nhân viên, kể cả người phụ trách. Doang
nghiệp chỉ đáp ứng được một công việc đơn giản của một khách hàng. Cũng vì
vốn và nhân lực it nên việc tổ chức bộ máy của các doanh nghiệp rất đơn giản,
tính chuyên sâu của các doanh nghiệp trong logistics không có. Đặc biệt hầu hết
các doanh nghiệp Việt Nam chưa có văn phòng đại diện tại nước ngoài trong khi
xu thế hiện nay là logistics toàn cầu. Hơn thế nữa, tính nghiệp đoàn của các
doanh nghiệp logistics còn rất rời rạc, thiếu hợp tác hỗ trợ lẫn nhau, cạnh tranh
không lành mạnh.
Các doanh nghiệp tư nhân hiện đang chiếm khoảng 80% tổng số doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics. Các doanh nghiệp này có số vốn rất nhỏ,
có doanh nghiệp chỉ đăng kí vốn kinh doanh từ 300-500 triệu đồng ( tương
đương 18.750-31.250 USD). Trên thực tế nếu muốn kí vận đơn vào Hoa Kỳ thì
phải kí quỹ tới 150.000 USD. Nhiều doanh nghiệ nhà nước sau khi cổ phần hóa
từng bộ phận đã hình thành các công ty cổ phần với cỡ vốn 5 tỷ đồng ( khoảng
312.500 USD ). Với quỹ vốn như vậy các doanh nghiệp Việt Nam không đáp
ứng được nhu cầu khi gia nhập thị trường logistics thế giới.
Hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp đăng kí kinh doanh và mang tên dịch
vụ logistics, nhưng doanh nghiệp dịch vụ logistics thực sự thì không nhiều. Nói
một cách giản đơn theo nghĩa đen thì những nhà cung cấp dịch vụ logistics trọn
gói Door to Door cho hàng hóa xuất nhập khẩu là những người tích hợp hàng
loạt các dịch vụ vận tải giao nhận thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu thành
một chuỗi liên tục để đảm bảo hàng hóa được vận chuyển Door to Door.
2.3- Thực trạng các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics ở Việt
Nam theo các nhóm sau:
2.3.1- Các công ty kinh doanh dịch vụ vận tải giao nhận của Việt
Nam
- Các công ty cung cấp dịch vụ vận tải đơn phương thức
VD: Công ty cung cấp dịch vụ vận tải đường bộ, đường sắt, hàng không,
đường biển.
- Các công ty cung cấp dịch vụ vận tải đa phương thức
- Các công ty cung cấp dịch vụ khai thác cảng
- Các công ty môi giới vận tải
Các loại hình doanh nghiệp hoạt động kinh doanh dịch vụ vận tải giao
nhận ở Việt Nam phát triển rất đa dạng và phong phú. Từ chỗ kinh doanh vận
tải chủ yếu là các loại hình doanh nghiệp nhà nước, đến nay trên thị trường giao
nhận đã có đầy đủ các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
tham gia. Hoạt động kinh doanh vận tải diễn ra sôi động và mạnh mẽ nhất, chủ
yếu nhất vẫn là lĩnh vực Hàng hải.
Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải giao nhận của Việt Nam
mới chỉ chủ yếu tập trung ở thành phố lớn, các cảng lớn như Hà Nội, Hải
Phòng, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ… Các doanh nghiệp lớn đều thành
lập chi nhánh của mình tại các cửa khẩu quốc tế từ Bắc vào Nam. Các chi nhánh
hoạt động trực thuộc sự quản lý của các doanh nghiệp hoặc các công ty con có
tư cách pháp nhân nhưng kinh doanh độc lập và trực thuộc các tổng công ty.
Các chi nhánh chủ yếu cung cấp các dịch vụ phục vụ khách hàng trên địa bàn
mình hoạt động hoặc phối hợp với nhau để thực hiện các hoạt động quá cảnh,
chuyển tải theo kế hoạch chung.
Hiện tại, hầu như tất cả các tổ chức, mạng lưới hoạt động kinh doanh dịch
vụ vận tải giao nhận của các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ dừng lại ở trong
nước, cho đến nay chưa có một doanh nghiệp nào kể cả các doanh nghiệp lớn
của Việt Nam có khả năng thành lập chi nhánh của mình ở nước ngoài để khai
thác nguồn hàng và cung cấp dịch vụ cho khách hàng, kể cả các nước lân cận
như Lào, Campuchia, Trung Quốc…trừ vận tải hàng không như VietnamAirline
và Pacific Airline có đặt văn phòng đại diện ở nước ngoài.
2.3.2- Các công ty cung cấp dịch vụ phân phối
- Công ty cung cấp dịch vụ kho bãi
- Các công ty cung cấp dịch vụ phân phối
Về phân phối hàng hóa, nếu các doanh nghiệp nhà nước có thế manh
trong việc vận chuyển hàng hóa có khối lượng lớn, theo đúng kế hoạch, hàng
siêu trường, siêu trọng thì các doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã… lại có thế
mạnh trong vận chuyển hàng thông thường như hàng bách hóa, hảng rời, hàng
container có số lượng nhỏ và thầu việc phân phối các sản phẩm từ nơi sản xuất
đến nơi tiêu thụ trong nội địa cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh như:
hang xe máy VMEP, hang nước ngọt Cocacola, Pepsi… hoặc vận chuyển máy
móc, thiết bị, hàng công trình ra vào các cảng Việt Nam theo yêu cầu của khách
hàng. Dịch vụ thầu phân phối có thưòi gian từng quí, từng năm và lượng hàng
giao nhận khá ổn định nên hiệu quả kinh doanh cao.
Về dịch vụ kinh doanh kho bãi, hệ thống kho bãi phục vụ hoạt động vận
tải giao nhận ỏ Việt Nam hiện nay phần lớn tập trung ở các doanh nghiệp lớn
thuộc nhà nước hay các bộ, còn các doanh nghiệp khác như tư nhân hay cổ phần
có nhưng rất nhỏ và hạn chế. Kho bãi của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
giao nhận vận tải phần lớn tập trung ở các cảng biển lớn, phần còn lại có thể
nằm sâu trong đất liền. Các chủ hàng xuất nhập khẩu rất ít khi có kho bãi riêng
của mình để thực hiện lưu giữ hàng hóa, vì vậy thường phải thuê kho bãi của
các doanh nghiệp giao nhận vận tải hoặc cảng. Hệ thống kho bãi của các cảng
lớn như cảng Sài Gòn, Hải Phòng, Đá Nẵng là phát triển nhất, còn các cảng
khác quy mô kho bãi cỏn rất khiêm tốn. Loại hình kho bãi được kinh doanh ở
Việt Nam cũng khá da dạng và phong phú, điển hình là bãi container, kho hàng
lẻ, kho ngoại quan và các loại hình kho bãi khác.
2.3.3 Các công ty cung cấp dịch vụ hàng hóa
- Các công ty môi giới khai thuế hải quan
- Các công ty giao nhận gom hàng lẻ
- Các công ty chuyên ngành hàng nguy hiểm
- Các công ty dịch vụ đóng gói vận chuyển
Về phân loại đóng gói bao bì cho hàng hóa xuất nhập khẩu hiện nay cũng
là một trong những chuỗi dịch vụ mà các doanh nghiệp kinh doanh vận tải giao
nhận triển khai cung cấp cho khách hàng. Các hàng mậu dịch có khối lượng lớn,
nhu cầu xuất khẩu thường xuyên, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở
các khu công nghiệp, khu chế xuất thường sử dụng trọn gói các dịch vụ do các
doanh nghiệp kinh doanh vận tải giao nhận cung cấp, từ việc đóng gói bao bì,
kiểm đếm… cho đến việc làm thủ tục hải quan cho hàng hóa. Một số doanh
nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam tự đứng ra thực hiện tất cả các công việc
này nhằm tiết kiệm chi phí
Nhiều đơn vị có những vị trí thích hợp tại các cảng, sân bay, các công ty
vận tải… đã tận dụng lợi thế này để đọc quyền kinh doanh loại hình dịch vụ ,
đơn phương quy định giá dịch vụ mà khách hàng không có cơ hội hay quyền lựa
chọn. Cụ thể, theo ông Thái Duy Dương, chánh văn phòng Hiệp hội Giao nhận
Kho vận Việt Nam, giá xử lý hàng hóa xuất nhập khẩu do một công ty làm ở sân
bay Tân Sơn Nhất thu khoảng 0,05 USD/kg, mức này đã gần bằng giá của
Singapore, trong khi đó thu nhập GDP của Singapore gấp gần 20 lần của Việt
Nam nên mức thu này hoàn toàn không hợp lý. “ Do đây là đơn vị duy nhất
cung cấp dịch vụ này ở sân bay nên các khách hàng bắt buộc phải chấp nhận.
Nếu tại đây có một công ty thứ hai cung cấp dịch vụ giao nhận hàng hóa, lưu
kho bãi thì chắc chắn giá dịch vụ sẽ thấp hơn và chất lượng phục vụ sẽ tốt hơn
và khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam cũng sẽ được cải thiện”,
ông Dương nhấn mạnh.
2.3.4- Các công ty cung cấp dịch vụ logistics chuyên ngành
- Các công ty công nghệ thông tin
- Các công ty viễn thông
- Các công ty cung cấp giải pháp tài chính, bảo hiểm
- Các công ty cung cấp dịch vụ giáo dục và đào tạo
Các công ty cung cấp dịch vụ logistics chuyên ngành đã có những tác
động rất mạnh mẽ tới việc phát triển các dịch vụ logistics tạo ra cơ hội cho
logistics Việt Nam phát triển hội nhập thế giới. Là các công ty hỗ trợ cho quá
trình dịch vụ logistics trơn tru hơn và đáp ứng được yêu cầu của chuỗi cung cấp.
3- Thực trạng hoạt động các dịch vụ logistics của một số doanh nghiệp
tiêu biểu của Việt Nam.
3.1- Tổng công ty hàng hải Việt Nam ( Vinalines )
Tổng công ty hàng hải Việt Nam được xếp vào vị trí số 1 trong nước về
khả năng thực hiện dịch vụ logistics.
Được thành lập và hoạt động từ ngày 1/1/1996 theo Quyết định 250/QĐTTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 29/4/1995, Vinalines lúc đầu gồm 22 công
ty nhà nước, 2 công ty cổ phần và 9 công ty liên doanh, sở hữu 49 tàu với tổng
trọng tải là 396696 DWT và có 18456 lao động.
Kể từ khi đi vào hoạt động năm 1996. Tổng công ty đã tham gia vào rất
nhiều hoạt động vận tải như:
- Vận tải biển, khai thác cảng, đại lý vận tải, môi giới, giao nhận, kinh
doanh vận tải đa phương thức, sửa chữa tàu biển, cung cấp dịch vụ hàng hải và
các hoạt động khác liên quan;
- Xuất khẩu, nhập khẩu nguyên vật liệu và thiết bị chuyên ngành;
- Cung cấp thuyền viên;
- Tham gia liên doanh, hợp tác kinh tế với các đối tác trong và ngoài
nước theo đúng quy định của pháp luật.
Năm 2007, Tổng công ty hàng hải Việt Nam cùng các doanh nghiệp
thành viên đã tham gia góp vốn thành lập các công ty cổ phần như Vinalines,
kinh doanh bất động sản Vinalines Vĩnh Phúc, đầu tư cảng Cái Lân, cảng Hiệp
Phước, đầu tư dầu khí Sao Mai-Bến Đình…
Trong năm 2007, tổng sản lượng vận tải biển ước đạt 24,9 triệu tấn và
75,1 tỷ Tkm, tương ứng tăng 7% và 30%, tổng sản lượng hàng thông qua cảng
đạt 54,2 triệu tấn, tăng 9%. Năm 2008, Tổng công ty vận chuyển được 27,3
triệu tấn và 92,6 tỷ Tkm, tăng lần lượt 9% và 23%, tổng lượng hàng hóa thông
cảng đạt 47,5 triệu tấn, tăng 5% so với năm 2007.
* Vận tải biển
Đến cuối năm 2007, Vinalines có đội tàu gồm 134 chiếc với tổng trọng tải
là 2,1 triệu DWT. Tổng số hàng hóa vận chuyển bởi đội tàu đạt 24,9 triệu tấn và
75,1 tỷ Tkm.
Trên thực tế, Vinalines đã có kế hoạch phát triển đội tàu để tăng năng lực
lên 2,6-3 triệu DWT vào năm 2010 này và 6-7 triệu DWT vào năm 2020. Cơ
cấu đội tàu sẽ được thay đổi theo hướng tăng tỷ lệ các tàu chuyên dụng như tàu
container, tàu hàng rời cỡ lớn và tàu chở tàu, đồng thời giảm tuổi thọ của đội tàu
xuống dưới 16 tuổi. Theo đó, Vinalines đang mong muốn chiếm được thị phần
lớn hơn nhờ nâng cao vị trí và thương hiệu cảu mình tại thị trường trong nước,
khu vực và quốc tế.
* Dịch vụ phụ trợ khác
Hiện nay Vinalines nắm giữ khoảng trên 40 công ty dịch vụ tham gia vào
nhiều hoạt động logistics khác nhau trong hệ thống logistics toàn quốc. Những
công ty này cung cấp nhiều dịch vụ như giao nhận, đại lý tàu biển, vận tải
đường bộ, thông quan, cung cấp thuyền viên, quản lý tài sản… Với hệ thống
dịch vụ rộng khắp, Vinalines có khả năng đáp ứng mọi nhu cầu của thị trường
vận tải của thị trường trong nước.
Bên cạnh đó, Vinalines đẩy mạnh hoạt động cung cấp thuyền viên, đáp
ứng kế hoạch đầu tư đội tàu và bắt đầu những dịch vụ mới ở Việt Nam như môi
giới tàu, môi giới hàng hải…
Để tăng cường và mở rộng mạng lưới logistics, Vinalines sẽ thành lập hệ
thống cảng container nội địa (ICD) Bắc vào Nam thông qua việc cơ cấu lại các
ICD hiện có và đầu tư xây dựng các ICD mới. Việc này giúp Vinalines cung cấp
các dịch vụ tốt hơn cho khách hàng đồng thời cắt giảm chi phí hoạt động. Từ
đó, Vinalines sẽ nâng cao được năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nập
mạng lưới logistics khu vực và quốc tế thông qua việc hợp tác với các tập đoàn
và công ty quốc tế, thành lập các chi nhánh và văn phòng đại diện ở nước ngoài.
* Khai thác cảng
Với việc quản lý và khai thác 5 cảng biển chính tại 5 khu vực kinh tế
trọng điểm là Quảng Ninh, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh và Cần Thơ,
Vinalines hiện là nhà khai thác cảng hàng đầu tại Việt Nam.
Sáu tháng đầu năm 2009, nhiều doanh nghiệp khai thác cảng
trong Tổng công ty đạt mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm 2008
về chỉ tiêu sản lượng hàng thông qua cảng. Có thể kể đến công ty TNHH 1
thành viên cảng Sài Gòn đạt sản lượng hàng thông qua 8,7 triệu tấn (tăng 26%);
Cảng Đoạn Xá đạt sản lượng hàng thông qua 2,2 triệu tấn (tăng 50%); Công ty
TNHH 1 thành viên Cảng Đà Nẵng đạt sản lượng hàng thông qua 1,5 triệu tấn
(tăng 14%); cảng Cái Cui đạt sản lượng hàng thông qua 2,6 triệu tấn (tăng
482%); cảng Cần Thơ đạt sản lượng hàng thông qua trên 4 triệu tấn (tăng
312%); Công ty Viconship Việt Nam đạt sản lượng hàng thông qua 1,4 triệu tấn
(tăng 15%) ...
3.2- VietnamShipper
Tạp chí điện tử VietnamShipper cung cấp các thông tin cần thiết cho giới
chủ hàng tại Việt Nam, gồm các thông tin về lịch tàu, lịch bay, tin Logistics,
hàng hải. Là một kênh thông tin điện tử được đánh giá cao trong lĩnh vực xuất
nhập
khẩu,
giao
nhận,
tiếp
vận
và
logistics…
Trang
web:
www.vietnamshipper.com có lượng thông tin lớn, được cập nhật nhanh liên tục
trong ngày. Website có thiết kế thuận lợi cho việc truy cập và tìm kiếm thông tin
và là nơi cung cấp các dữ liệu tìm kiếm cho các search engine như Google,
Yahoo, MSN…
Mỗi ngày có trên 7000 người truy cập website, chủ yếu là những người
hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu, giao nhận, tiếp vận và
logistics
Tạp trí điện tử này có 10% diện tích dành cho quảng cáo. Đây là công cụ
hỗ trợ đắc lực cho các nhà vận tải, các hãng tàu, các hãng hàng không… giới
thiệu dịch vụ của mình đến khách hàng một cách hiệu quả thông qua dịch vụ
quảng cáo.
Tạp chí chủ hàng Việt Nam là một kênh thông tin để liên kết khách hàng
với chủ hàng, nó đóng góp một phần rất lớn trong việc liên kết và phát triển
chuỗi logistcis.
3.3- Vietnam Airlines
Tổng công ty Hàng không Quốc gia Việt Nam được thành lập vào ngày
27/5/1996 trên cơ sở sát nhập 20 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh hàng
không với hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam làm nòng cốt. Hãng nằm dưới
sự quản lí của một hội đồng 7 người do Thủ tướng chỉ định. Hãng từng là cổ
đông chi phối của hãng hàng không thứ hai của Việt Nam- Pacific Airlines
nhưng cổ phần của hãng đã được chuyển sang bộ tài chính vào tháng 1/2005
Trong các năm qua, các doanh nghiệp vận tải hàng không Việt Nam, nhất
là Vietnam Airlines đã có bước phát triển vượt bậc. Hiện nay, Vietnam Airlines
đang có đội bay trẻ và hiện đại thuộc hàng đầu thế giới. Tỷ lệ máy bay hiện đại
và mới trong tổng số máy bay của Vietnam Airlines là rất cao so với các hãng
hàng không trong khu vực và trên thế giới. Độ tuổi trung bình đội máy bay
Vietnam Airlines là 8,3 năm và đội máy bay sở hữu là 5,2 năm.
Trong vòng 15 năm qua, với tốc độ tăng trưởng trung bình hơn 10%/ năm
(trừ giai đoạn khủng hoảng tài chính ở châu Á năm 1997), Tổng Công ty Hàng
không Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh và vươn lên trở thành một hãng
hàng không có uy tín trong khu vực châu Á nhờ thế mạnh về đội bay hiện đại,
mạng bay rộng khắp và lịch nối chuyến thuận lợi, đặc biệt là tại Đông Dương.
Khởi đầu với những chuyến bay nội địa không thường lệ, ngày nay mạng đường
bay của Vietnam Airlines đã mở rộng đến 20 tỉnh, thành phố
nước và 40 điểm
đến
quốc
trên
cả
tế.
Năm 2006, sau khi được đạt được chứng chỉ uy tín về an toàn khai thác của
Hiệp hội Vận tải Hàng không Quốc tế (IATA), Vietnam Airlines đã chính thức
trở thành thành viên của Hiệp hội Vận tải Hàng không Quốc tế và khẳng định
chất lượng dịch vụ mang tiêu chuẩn quốc tế của mình.
Nhằm khẳng định thương hiệu quốc tế và thế mạnh về đội bay trẻ, hiện
đại, Vietnam Airlines đã để lại ấn tượng mạnh mẽ khi cùng với Công ty cho
thuê tàu bay Việt Nam (VALC) mà Vietnam Airlines là một trong những sáng
lập viên, ký một hợp đồng mua máy bay lớn gồm 12 chiếc Boeing 787, 10 chiếc
Airbus A350 - 900, 20 chiếc Airbus A321 và 5 chiếc ATR72 - 500 trong năm
2007. Vietnam Airlines hy vọng sẽ mở rộng đội bay lên mức 104 chiếc máy bay
hiện đại vào năm 2015 và 150 chiếc vào năm 2020.
II- Thực trạng cơ sở pháp lý về hoạt động logistics ở Việt Nam hiện nay.
Đầu những năm 90 của thế kỉ XX, logistics đã được biết đến ở Việt Nam,
thực tế cho đến nay không ít doanh nghiệp trong và ngoài nước ứng dụng và
triển khai hoạt động cung cấp dịch vụ logistics nhưng hiện tại ở Việt Nam chỉ
duy nhất có luật Thương mại sửa đổi tháng 6/2005 đề cập đến dịch vụ logistics
và luật Thương mại mới có hiệu lực 1/1/2006. Dưới đây là các điều luật nhằm
mục đích hướng dẫn và điều chỉnh hoạt động kinh doanh logistics:
Điều 233. Dịch vụ logistics.
Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức
thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho,
lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng
gói bao bì, ghi kí mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến
hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao. Dịch vụ logistics
được phiên âm theo tiếng Việt là dịch vụ lô-gi-stíc.
Điều 234. Điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics.
1. Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics là doanh nghiệp có đủ điều
kiện kinh doanh logistics theo qui định của pháp luật.
2. Chính phủ qui định chi tiết điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics.
Điều 235. Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics.
1. Trừ các trường hợp có thỏa thuận khác, thương nhân kinh doanh dịch
vụ logistics có quyền và nghĩa vụ sau đây:
a) Được hưởng thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác;
b) Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có lý do chính đáng vì lợi ích
của khách hàng thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có thể thực hiện
khác với chỉ dẫn của khách hàng, nhưng phải thông báo ngay cho khách hàng;
c) Khi xảy ra trường hợp có thể dẫn đến việc không thực hiện được một
phần hoặc toàn bộ những chỉ dẫn của khách hàng thì phải thông báo ngay cho
khách hàng để xin chỉ dẫn;
d) Trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn cụ thể thựuc hiện nghĩa
vụ với khách hàng thì phải thực hiện nghĩa vụ của mình trong thời hạn hợp lý.
2. Khi thực hiện việc vận chuyển hàng hóa, thương nhân kinh doanh dịch
vụ logistics phải tuân thủ các quy định của pháp luật và tập quán vận tải.
Điều 236. Quyền và nghĩa vụ của khách hàng.
Trừ trường hợp có thảo thậu khác khách hàng có các quyền và nghĩa vụ
sau đây:
1. Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng;
2. Cung cấp đầy đủe chỉ dẫn cho thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics;
3. Thông tin chi tiết, đầy đủ, chính xác và kịp thời về hàng hóa cho
thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics;
4. Đóng goi, ghi kí mã hiệu hàng hóa theo hợp đồng mua bán hàng hóa,
trừ trường hợp có thỏa thuận để thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics đảm
nhận công việc này;
5. Bồi dưỡng thiệt hại, trả các chi phí hợp lý phát sinh cho thương nhân
kinh doanh dịch vụ logistics nếu người đó đã thực hiện đúng chỉ dẫn của mình
hoặc trong trường hợp do lỗi của mình gây ra;
6. Thanh toán cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics mọi khoản
tiền đã đến hạn thanh toán.
Điều 237. Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với thương nhân
kinh doanh dịch vụ logistics.
1. Ngoài những trường hợp miễn trách nhiệm qui định ở điều 294 của
Luật này, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không phải chịu trách nhiệm
về những tổn thất đối với hàng hóa phát sinh trong các trường hợp sau đây:
a) Tổn thất là do lỗi của khách hàng hoặc của người được khách hàng ủy
quyền;
b) Thổn thất phát sinh do thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics làm
đúng theo những chỉ dẫn của khách hàng hoặc người được khách hàng ủy
quyền;
c) Tổn thất là do khuyết tật cảu hàng hóa;
d) Tổn thất phát sinh trong trường hợp miễn trách nhiệm theo qui định
của pháp luật và tập quán vận tải nếu thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
tổ chức vận tải;
đ) Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không nhận được thông báo
về khiếu nại trong thoèi hạn 14 ngày, kể từ ngày thương nhân kinh doanh dịch
vụ logistics giao hàng cho người nhận;
e) Sauk hi bị khiếu nại, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không
nhận được thông báo về việc bị kiện tại Trọng tài hoặc Tòa án trong thời hạn
chín tháng, kể từ ngày giao hàng.
2. Thương nhân kinh doanh dịch vuk logistics không phải chịu trách
nhiệm về việc mất khoản lợi đáng lẽ được hưởng của khách hàng, về sự chậm
trễ hoặc thực hiện dịch vụ logistics sai địa điểm không do lỗi của mình.
Điều 238. Giới hạn trách nhiệm.
1. Trừ trưòng hợp có thỏa thuận khác, toàn bộ trách nhiệm của thương
nhân kinh doanh dịch vụ logistics không vượt qua giới hạn trách nhiệm đối với
tổn thất toàn bộ hàng hóa.
2. Chính phủ quy định chi tiết giới hạn trách nhiệm đối với thưưong nhân
kinh doanh dịch vụ logistics phù hợp với các quy định của pháp luật và tập quán
quốc tế.
3. Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không được hưởng quyền
giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại, nếu người có quyền và lợi ích liên
quan chứng minh được sự mất mát, hư hỏng hoặc giao trả hàng chậm là do
thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics cố hành động hoặc không hành động
để gây mất mát, hư hỏng, chậm trễ hoặc đã hành động hoặc đã hành động một
cách mạo hiểm và biết rằng sự mất mát, hư hỏng, chậm trễ đó chắc chắn xảy ra.
Điều 239. Quyền cầm giữ và định đoạt hàng hóa.
1. Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có quyền cầm giữ một số
lượng hàng hóa nhất định và các chứng từ liên quan đến số lượng hàng hóa đó
để đòi tiền nợ đã đến hạn của khách hàng nhưng phải thông báo ngay bằng văn
bản cho khách hàng.
2. Sau thời hạn 45 ngày kể từ ngày thông báo cầm giữ hàng hóa hoặc
chứng từ cí liên quan đến hàng hóa, nếu khách hàng không trả tiền nợ thì
thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có quyền định đoạt hàng hóa hoặc
chứng từ đó theo quy định của pháp luật; trong trường hợp hàng hóa có dấu hiệu
bị hư hỏng thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có quyền định đoạt
hàng hóa ngay khi có bất kì khoản nợ đến hạn nào của khách hàng.
3. Trước khi định đoạt hàng hóa, thương nhận kinh doanh dịch vụ
logistics phải thông báo ngay cho khách hàng biết về việc định đoạt hàng hóa
đó.
4. Mọi chi phí cầm giữ, định đoạt hàng hóa đó do khách hàng chịu.
5. Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics được sử dụng số tiền thu
được từ việc định đoạt hàng hóa để thanh toán các khảon mà khách hàng nợ
mình và các chi phí có liên quan; nếu số tiền thu được từ việc định đoạt vượt
quá giá trị các khoản nợ thì số tiền vượt quá phải trả lại cho khách hàng. Kể từ
thời điểm đó, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không phỉa chịu trách
nhiệm đối với hàng hóa hoặc chứng từ đã được định đoạt
Điều 240. Nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics khi
cầm giữ hàng hóa.
Khi chưa thực hiện quyền định đoạt hàng hóa theo quy định thuộc điều
239 của Luật này, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics khi cầm giữ hàng
hóa có các nghĩa vụ sau:
1. Bảo quản, giữ gìn hàng hóa.
2. Không được sử dụng hàng hóa nếu không được bên có hàng hóa bị
cầm giữ đồng ý.
3. Trả lại hàng hóa khi các điều kiện cầm giữ, định đoạt hàng hóa quy
định tại điều 239 của Luật này không còn.
4. Bồi thường thiệt hại cho bên có hàng hóa bị cầm giữ nếu làm mất mát
hoặc hư hỏng hàng hóa cầm giữ.
III- Đánh giá chung về sự phát triển của dịch vụ logistics trong các
doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Hiện nay trên thị trường Việt Nam có hơn 800 nhà cung cấp dịch vụ
logistics, trong đó có khoảng 18% là công ty nhà nước, 70% là công ty tư nhân,
10% là không đăng kí và 2% là các công ty có vốn đầu tư nước ngoài.
Theo ước tính, mặc dù chỉ chiếm 2% trong tổng số doing nghiệp, nhưng
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 30-35% thị phần của
thị trường. Và hơn 784 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ 3PL trong nước sẽ phải
chia nhau 60-65% thị phần còn lại. Vì thế thị trường dịch vụ logistics ở Việt
Nam rất phân tán, điều này dẫn đến mức độ cạnh tranh ngành sẽ rất cao. Hơn
thế nữa, dưới áp lực cạnh tranh và thiếu hẳn những dịch vụ giá trị gia tăng, giá
sẽ trở thành công cụ cạnh tranh chính của các doanh nghiệp giao nhận và
logistics.
Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ tập trung vào khai thác
những mảng nhỏ trong chuỗi cung ứng mà chúng ta thấy phổ biến là hình thứuc
giao nhận vận tải. Đối với doanh nghiệp công nghiệp và doanh nghiệp xây
dựng: Dịch vụ logistics đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển
về xu hướng phát triển và về quy mô. Logistics phát triển yêu cầu lớn đối với
- Xem thêm -