Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực trạng của lực lượng sản xuất ở việt nam hiện nay và vấn đề xây dựng, phát h...

Tài liệu Thực trạng của lực lượng sản xuất ở việt nam hiện nay và vấn đề xây dựng, phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay ở ngân hàng

.PDF
32
251
104

Mô tả:

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN NGÂN HÀNG ---------- BÀI TIỂU LUẬN ĐỀ TÀI: Thực trạng của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay và vấn đề xây dựng, phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay ở ngân hàng Lớp Nhóm Khoa GVHD : CAO HỌC 18.01 NHB :9 : SAU ĐẠI HỌC : TS.TRẦN THỊ THU HƯỜNG Hà Nội, tháng 09 năm 2016 DANH SÁCH NHÓM 9 LỚP CAO HOC 18.01.NHB 1. Thẩm Quỳnh Trang (nhóm trưởng) 2. Nguyễn Thị Quỳnh Trang 3. Đỗ Thị Mai Trang 4. Phan Thành Trung 5. Dương Thanh Tùng 6. Nghiêm Thị Tuyết 7. Trần Đức Vinh 8. Võ Thị Ngọc Yến LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 5 1. LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI................................................................................. 6 1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT .................... 6 1.1.1 Một số khái niệm cơ bản ........................................................................... 6 1.1.2 Các bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất................................................ 6 1.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của lực lượng sản xuất .............. 7 1.2. VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI ........................................................................................................................ 9 1.2.1. Lực lượng sản xuất - yếu tố quyết định sự tồn tại, biến động và phát triển của đời sống xã hội .................................................................................... 9 1.2.2. Vai trò của lực lượng sản xuất ở một số nước trên thế giới trong giai đoạn hiện nay ............................................................................................................. 11 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .............................................................................................................. 13 2.1. BỐI CẢNH CỦA QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. ................................................................... 13 2.2. THỰC TRẠNG CỦA QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................................... 17 2.2.1 Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam..................................................... 17 2.2.2 Nguyên nhân ........................................................................................... 19 2.3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC GIAI ĐOẠN 20152020 ...................................................................................................................... 20 2.3.1 Chủ động hội nhập quốc tế để phát triển nguồn nhân lực Việt Nam ...... 20 2.3.2 Đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước về phát triển nhân lực ................... 21 2.3.3 Bảo đảm nguồn lực tài chính cho phát triển nhân lực ............................ 22 2.3.4 Cải cách mạnh mẽ và triệt để hơn giáo dục và đào tạo, coi đó là vấn đề trung tâm của phát triển lực lượng sản xuất ..................................................... 22 3. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG, PHÁT HUY NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO HIỆN NAY Ở NGÂN HÀNG ...................................................................... 24 3.1. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC NGÂN HÀNG HIỆN NAY ...... 24 3.2. NGUYÊN NHÂN VÀ HẠN CHẾ ............................................................. 26 3.2.1 Những hạn chế ........................................................................................ 26 3.2.2 Những nguyên nhân ................................................................................ 27 3.3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO HIỆN NAY Ở NGÂN HÀNG .................................................. 28 3.3.1. Giải pháp đối với các cơ sở đào tạo ....................................................... 28 3.3.2. Giải pháp từ phía Ngân hàng Nhà Nước (NHNN) ................................ 29 3.3.3. Giải pháp đối với các ngân hàng thương mại ........................................ 30 KẾT LUẬN ............................................................................................................. 32 LỜI MỞ ĐẦU Quá trình phát triển của lịch sử loài người gắn liền với các hình kinh tế xã hội khác nhau, hình thái kinh tế xã hội phát triển sau hơn hình thái kinh tế xã hội trước. Trong đó phải kể đến vai trò của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất kĩ thuật cho mỗi hình thái kinh tế xã hội. Hình thái kinh tế xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau. Lực lượng sản xuất luôn đóng vai trò to lớn trong đời Rsống xã hội. Sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế xã hội, nó dẫn đến sự thay đổi quan hệ sản xuất do đó kiến trúc thượng tầng thay đổi theo dẫn đến hình thái kinh tế xã hội cũ được thay thế, hình thái kính tế mới cao hơn, tiến bộ hơn. Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, vì vậy phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến sự phát triển của đất nước và sự sống còn của ngành ngân hàng. Ngân hàng được coi là mạch máu của nền kinh tế quốc dân, vì vậy nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống ngân hàng, đặc biệt nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu cho ngành ngân hàng. Vì vậy, muốn có một xã hội ổn định, một nền kinh tế phát triển thì nhiệm vụ hàng đầu phải phát triển, xây dựng lực lượng sản xuất. Nhận thấy được tầm quan trọng của lực lượng sản xuất nói chung và vai trò quan trọng đối với phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực ngân hàng nên em đã chọn đề tài: “Thực trạng của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay và vấn đề xây dựng, phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay ở ngân hàng” làm đề tài cho bải thảo luận của mình 1. LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI. 1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT 1.1.1 Một số khái niệm cơ bản Lực lượng sản xuất dùng để chỉ tổng thể các yếu tố cấu thành nội dung vật chất, kỹ thuật, công nghệ,... của quá trình sản xuất, tạo thành năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người. Với nghĩa như vậy, lực lượng sản xuất cũng đóng vai trò phản ánh căn bản trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người: trình độ thủ công của lực lượng sản xuất là lực lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh phục giới tự nhiên thấp hơn rất nhiều so với lực lượng sản xuất ở trình độ kỹ thuật công nghiệp và công nghệ cao. Quan hệ sản xuất là phạm trù triết học chỉ quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội) .Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ sử hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu, quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất và quan hệ về phân phối các sản phẩm làm ra. Quan hệ sản xuất do con người tạo ra nhưng nó hình thành và phát triển một cách khách quan ko phụ thuộc vào ý chí con người. Nếu như quan niệm lực lượng sản xuất là mặt tự nhiên của sản xuất thì quan hệ sản xuất lại là mặt xã hội của sản xuất. 1.1.2 Các bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất Lực lượng sản xuất được cấu thành bởi hai bộ phận đó là người lao động và tư liệu sản xuất trong đó: Tư liệu sản xuất là những tư liệu để tiến hành sản xuất, bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong đó tư liệu lao động bảo gồm công cụ lao động (máy móc…)và đối tượng lao động khác (phương tiện vận chuyển, bảo quản, chưa đựng công cụ lao động và sản phẩm). Còn đối tượng lao động gồm hai bộ phận là những yếu tố nguyên vật liệu có sẵn trong tự nhiên (đất đai, than đá,…) và một bộ phận phái trải qua sự cải tạo của con người – còn gọi là nhân tạo ví dụ: nhựa, gỗ ép… Trong tư liệu snar xuất thì công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất. Người lao động là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất vì người lao động đóng vai trò là chủ thể của quá trình sản xuất, là người tạo ra tư liệu lao động và sử dụng tư liệu lao động vào đối tượng lao động tao ra sản phẩm còn tư liệu sản xuất chỉ đóng vai trò là khách thể chịu sự tác động trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động. Con người vừa là một phần trong kết cấu của lực lượng sản xuất, vừa tác động đến quá trình phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động này thể hiện ở chỗ con người có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất thông qua những hoạt động phù hợp hoặc không phù hợp với quy luật nội tại của lực lượng sản xuất, với quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ lực lượng sản xuất. Mặc dù tư liệu sản xuất, tiền vốn, khoa học và kỹ thuật đều là những yếu tố cần thiết để thực hiện sản xuất song tất cả đều phải thông qua hoạt động của con người mới đem lại hiệu quả kinh tế, những giá trị mới. Những yếu tố trên sẽ tồn tại ở dạng tiềm năng, sẽ trở thành vô hiệu hóa khi nó không được đặt trong mối quan hệ giữa tư liệu sản xuất và sức lao động. Con người tham gia vào quá trình sản xuất với tư cách là sức lao động, vừa với tư cách là con người có ý thức, chủ thể của những quan hệ kinh tế. Trình độ văn hóa, trình độ kỹ thuật, chuyên môn, ý thức và thái độ của người lao động đối với sản xuất và sản phẩm là những yếu tố quan trọng để sử dụng, khai thác kỹ thuật và tư liệu sản xuất vốn có để sáng tạo ra trong quá trình sản xuất. Ph Awngghen đã nhấn mạnh: “Muốn nâng sản xuất công nghiệp và nông nghiệp lên mức độ cao… mà chỉ có Phương tiện cơ giới và hóa học phù hợp thì không đủ, còn cần phải phát triển một cách tương ứng năng lực con người sử dụng những phương tiện đó nữa” Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động do con người sáng tạo ra là “sức mạnh của tri thức đã được vật thể hóa”, nó “nhân” sức mạnh của con người trong quá trình lao động là yếu tố động lực của sản xuất. Cùng với quá trình tích lũy kinh nghiệm với những phát minh và sáng chế kỹ thuật, công cụ lao động không ngừng được cải tiến và hoàn thiện. Sự biến đổi công cụ lao động là nguyên nhân suy đến cùng mọi sự biến đổi của xã hội. Các yếu tố trong lực lượng sản xuất tác động lẫn nhau một cách khách quan làm cho lực lượng sản xuất trở thành yếu tố hoạt động nhất, cách mạng nhất trong một phương thức sản xuất 1.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của lực lượng sản xuất Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của quá trình sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại với nhau một cách biện chứng tạo thành quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất – quy luật cơ bản nhất của sự vận động phát triển xã hội. Sự vận động phát triển của lực lượng sản xuất quy định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một Phương thức sản xuất mới ra đời , khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuấtvà do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động xã hội, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ và do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc “ tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Theo quy luật chung, khi đó quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sự phát triển của lực lượng sản xuất không chỉ chịu sự tác động của quan hệ sản xuất mà còn nhiều yếu tố khác như: điều kiện tự nhiên, dân số, thời đại, dân tộc, thể chế chính trị… Dân số của một nước quyết định đến số lượng của lực lượng lao động, nước càng đông dân thì nguồn lao động càng dồi dào Thời đại: Xã hội loài người phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế xã hôi nối tiếp nhau. Mỗi hình thái kinh tế xã hôi lại ứng với sự phát triển phù hợp của lực lượng sản xuất. Trong đó xã hội Công xã nguyên thủy con người tìm ra lửa để nấu chín thức ăn và đuổi thú dữ. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, con người đã chế tạo và sử dụng các công cụ đồ thủ công bằng đá để làm vũ khí săn bắt… Dưới chủ nghĩa tư bản, máy hơi nước ra đời năng suất lao động tăng cao… 1.2. VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI 1.2.1. Lực lượng sản xuất - yếu tố quyết định sự tồn tại, biến động và phát triển của đời sống xã hội Để thấy rõ hơn vai trò của lực lượng sản xuất với sự phát triển của xã hội loài người, ta cần xét vai trò của nó với sự phát triển của nền kinh tế và đời sống xã hội. Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất. Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội hoá. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá. Vai trò của lực lượng sản xuất đối với nền kinh tế và đời sống xã hội được thể hiện rõ nét trong quá trình lịch sử loài người. Xuất phát từ một nền kinh tế nhỏ bé, lạc hậu, thô sơ nhất. Đó là nền văn minh nông nghiệp thời kì chế dộ nguyên thuỷ tiếp đó là chiễm hữu nô lệ và cao hơn chút là chế độ phong kiến. Tất cả các hình thái kể trên đều có lực lượng sản xuất nhỏ bé tự cung tự cấp. Trình độ người lao động và sự phát triển công cụ lao động, cũng như đối tượng lao động còn rất nhiều hạn chế. Bởi vậy mà của cải vật chất tạo ra không nhiều do đó, nền kinh tế thời kì này chưa có gì nổi bật. Điều đó tất yếu dẫn tới ảnh hưởng đến đời sống xã hộ của con người. Một khi không tạo ta được một cách đầy đủ nhu cầu vật chất của con người thì đồng nghĩa không thể có một đời sống nâng cao. Các tiền đề cơ bản đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của con người là ăn, mặc, ở, đi lại mà chưa được đáp ứng thì sẽ chẳng có thể có những đòi hỏi khác được thoả mãn. Có lẽ vì thế nên nhiều tiêu chuẩn để đánh giá sự phát triển toàn diện con người trong thới kì nền văn minh nông nghiệp là rất kém. Tuổi thọ trung bình, tỉ lệ trẻ em tử vong khi sinh, trình độ giáo dục… đều ở mức báo động. Đó là những hệ quả, tuy nhiên, khi chuyển dần sang chủ nghĩa tư bản, lực lượng sản xuất đã có sự nhảy vọt. Tính chất xã hội hoá thay thế cho tính chất cá nhân. lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất mới, tiến bộ hơn quan hệ sản xuất phong kiến trước kia. Số lượng của cải vật chất mà con người làm ra bằng tất cả các thế hệ trước kia cộng lại. Có thể nói, chưa bao giờ lực lượng sản xuất phát triển mạnh đến thế và tạo ra nhiều của cải vật chất đến vậy. Nhìn một cách toàn diện, con người tạo nên một nền kinh tế phát triển thực sự, hơn hẳn các nền kinh tế trước đó. Đó là nền kinh tế hàng hoá. lực lượng sản xuất đã làm thay đổi rất nhiều, nếu không nói là tất cả. Sự phát triển của lực lượng sản xuất mới trong lòng chế độ phong kiến đã thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng một quan hệ sản xuất mới. Thiết lập nên chế độ cộng hoà. Như vậy, có thể thấy rằng dù trong xã hội nào đi chăng nữa thì tầm qua trọng của lực lượng sản xuất đối với nền kinh tế là rất lớn. Điều đó thực tế lịch sử chứng minh rất rõ ràng. Với sự ra đời của lực lượng sản xuất mới Tư bản chủ nghĩa, đời sống xã hội của con người được tăng lên rõ rệt. Tuổi thọ trung bình tăng, trình độ của con người được nâng cao, quyền lợi con người được đảm bảo… Mặc dù vậy, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn có nhiều hạn chế, mâu thuẫn không thể khắc phục. Chỉ có chủ nghĩa xã hội với tính ưu việt của nó mới khắc phục được tất cả những hạn chế của chế độ trước kia. Tạo nên một xã hội mới, thực sự vì con người. Ở đó, lực lượng sản xuất được giải phóng tối đa, tạo môi trường kinh tế bền vững, phát triển ở trình độ cao. Nếu một nền kinh tế mà ở đó, thiếu vắng sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại thì nền kinh tế đó khó có thể đứng vững. Thậm chí còn bị tiêu vong. Do đó mới thấy hết ý nghĩa, tầm quan trọng của lực lượng sản xuất. Sự phát triển lâu dài, bền vững và ổn định của bất kì một quốc gia nào trong lịch sử đều đi liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Yếu tố con người, lực lượng sản xuất chủ đạo sẽ là đòn bẩy, là động lực thúc đẩy. Người ta biết đến sự thần kì của Nhật Bản sau thế chiến thứ hai bởi một nền kinh tế phục hồi và phát triển nhanh chóng. Người lao động Nhật Bản, công cụ lao động Nhật Bản, và cả sự quản lý, điều hành của Nhật Bản là bài học quý đối với các nước đi sau. Những thành tựu kinh tế mà đất nước Nhật Bản đạt được không thể tách rời sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tóm lại, lực lượng sản xuất có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của một nền kinh tế và trong đời sống xã hội nói chung. 1.2.2. Vai trò của lực lượng sản xuất ở một số nước trên thế giới trong giai đoạn hiện nay Trong thời đại ngày nay, khi mà tiến bộ khoa học - kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, cho phép máy móc thay thế sức lao động của con người trong những hoạt động sản xuất vật chất thì vai trò của con người - nguồn lao động đối với nền kinh tế càng được đưa lên hàng đầu. Số lượng lao động đông đảo trong các doanh nghiệp sẽ giúp họ mở rộng quy mô sản xuất, đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Chất lượng của lao động cũng ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sản xuất. Máy móc, trang thiết bị được cải tiến càng đòi hỏi người lao động có trình độ chuyên môn phù hợp để sử dụng những trang thiết bị hiện đại đó. Sự sáng tạo trong sản xuất kinh doanh của con người sẽ thôi thúc sản xuất phát triển ở nhiều lĩnh vực khác nhau... Vai trò của yếu tố con người có vị trí quan trọng hàng đầu đối với sự phát triển của xã hội. Không phải không có lý khi các nước trên thế giới tập trung vào phát triển nguồn lực con người. Đầu tư vào con người được xem như nguồn đầu tư mang lại hiệu quả cao nhất. Máy móc, kỹ thuật, công nghệ hiện đại rồi sẽ đến lúc trở nên lạc hậu nhưng nguồn lực con người nếu được bồi dưỡng sẽ trở thành nguồn tài nguyên vô tận. Nhật Bản là nước thành công nhất trong việc đầu tư vào con người. Với nguồn tài nguyên thiên nhiên, Nhật Bản sớm ý thức được tầm quan trọng của yếu tố con người và tập trung mọi sức mạnh để phát triển nguồn lực này. Bằng các chính sách ưu tiên, hỗ trợ cho người lao động đặc biệt là về đời sống tinh thần, Nhật Bản đã tận dụng được nguồn lao động trong nước, tạo điều kiện để người lao động tiếp cận nhanh với khoa học - kỹ thuật và nhanh chóng ứng dụng vào trong sản xuất. Thành công trong việc đầu tư vào yếu tố con người là nhân tố hàng đầu giải thích cho sù phát triển “thần kỳ” của Nhật Bản trong những năm sau chiến tranh thế giới thứ hai. Tiếp thu kinh nghiệm đó, một loạt các nước như Trung Quốc, Singapore, Hàn Quốc, Ấn Độ... cũng tập trung phát triển nguồn lao động và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Thành công vang dội của Singapore có phần nhờ chủ nghĩa nhân tài do ông Lý Quang Diệu đề ra và thực thi, với nội dung: tài nguyên duy nhất của Singapore là con người; không đào tạo và sử dụng nhân tài thì đất nước sẽ suy vong. Còn trong Báo cáo chính trị tại đại hội XV Đảng Cộng Sản Trung Quốc viết: “Nhân tài là nguồn tài nguyên quan trọng nhất trong phát triển kinh tế xã hội”. Các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng hoàn toàn có thể dựa vào biện pháp phát triển nguồn tài nguyên con người của mình để từng bước phát triển xã hội. Ta đã biết vai trò to lớn của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế như Thái Lan nhờ có lực lượng sản xuất phát triển đã giúp cho nền kinh tế phát triển bền vững. Trước những năm 1945 nền kinh tế Thái Lan là nền nông nghiệp lạc hậu, độc canh là phổ biến với kỹ thuật sản xuất dùng trong nông nghiệp hết sức lạc hậu. Công nghiệp phát triển què quặt, phiến diện chủ yếu là công nghiệp khai thác mỏ và sơ chế nguyên liệu. Nền kinh tế phụ thuộc hoàn toàn vào tư bản nước ngoài. Từ cuối thập kỷ 60 đến nay nhờ có sự quan tâm đầu tư cho phát triển lực lượng sản xuất mà nền kinh tế Thái Lan đã có sự biến đổi sâu sắc đạt được nhiều thành tựu. Nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao và liên tục ổn định. Trong giai đoạn năm 19901999 tốc độ tăng GDP hằng năm đạt 4,7%. Cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển hướng. GDP trong nông nghiệp năm 1990 là 12,5% nhưng đến năm 2001 giảm xuống 8,6%. Dịch vụ năm 1990 là 50%; năm 2001 là 49,3%. GDP bình quan đầu người năm 1995 là 3500 USD đến năm 2005 là 9000 USD một người. Ngành nông nghiệp đã chú trọng đầu tư vốn ứng dụng khoa học kỹ thuật, phương pháp canh tác mới, lai tạo nhiều giống mới, phát triển thuỷ lợi và tăng cường chiều sâu cho nông nghiệp. Thái Lan từ chỗ chỉ có 2 loại cây trồng truyền thống như gạo, cao su đã đa dạng hoá nhiều loại cây trồng. Sản lượng lương thực tăng đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo. Công nghiệp thì Thái Lan chú trọng ứng dụng thành tựu khoa học vào chế biến nông sản, biến ngành này trở thành ngành mũi nhọn cạnh tranh với các nước trên thế giới. Dịch vụ đang phát triển nhanh với nhiều loại hình đa dạng. Đầu tư về trang thiết bị, khoa học cho ngành này càng được nâng cao. Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 đã làm cho nền kinh tế Thái Lan gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng nhờ có giải pháp của nhà nước và đặc biệt là sự lớn mạnh không ngừng của lực lượng sản xuất đã giúp cho Thái Lan khôi phục được nền kinh tế và trở thành con rồng trong khu vực Đông Nam Á. Tóm lại vai trò của lực lượng sản xuất trong đời sống xã hội là vô cùng quan trọng, quyết định về lượng và chất của đời sống xã hội. Về lượng: Lực lượng sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội, đáp ứng nhu cầu của xã hội Trong quá trình sản xuất con người đã sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến, các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu và phát triển của con người. Về chất: Theo quy luật chung của sự phát triển xã hội, khi lực lượng sản xuất không ngừng phát triển mâu thuẫn với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, kìm hãm nó, tất yếu phải thay thế quan hệ sản xuất lỗi thời bằng một quan hệ sản xuất mới tiên tiến hơn. C.Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ “Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội” C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993. Dưới chủ nghĩa tư bản, nhất là từ khi máy hơi nước ra đời, lực lượng sản xuất mang tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu xã hội. C.Mác đã viết: “Sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hoá lao động đạt đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa... nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của một quá trình tự nhiên”. Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự biến đổi quan hệ sản xuất, do đó mà phương thức sản xuất mới ra đời. Phương thức sản xuất mới nhất định tiến bộ hơn phương thức sản xuất trước đó. Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng. Trình độ phát triển của một xã hội thể hiện ở chính phương thức sản xuất của xã hội hay cụ thể là ở lực lượng sản xuất tồn tại trong xã hội đó. Các Mác đã chứng minh: “ Cái rìu đá cho ta xã hội công xã nguyên thủy. Cái cối xay gió cho ta xã hội phong kiến. Cái máy hơi nước cho ta xã hội tư bản”. Trong quá trình đấu tranh cho sự phát triển xã hội, Lênin đã nói: “Suy cho cùng phương thức sản xuất này thắng phương thức sản xuất kia chính là ở chỗ tạo ra năng suất lao động xã hội cao hơn”. Qua việc nghiên cứu trên thấy được vai trò quan trọng của lực lượng sản xuất. Nó là động lực thôi thúc nền kinh tế phát triển không ngừng. Nhờ nghiên cứu lực lượng sản xuất ta có thể hiểu và áp dụng nó một cách sáng tạo, khoa học vào trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước vững bước trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng chủ nghĩa xã hội. 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. BỐI CẢNH CỦA QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. Bối cảnh của quá trình phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay. Ở Việt Nam, do điểm xuất phát rất thấp từ một nước nông nghiệp lạc hậu trong chế độ phong kiến hàng nghìn năm, bị chủ nghĩa thực dân cai trị hàng trăm năm, nên yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa càng bức thiết. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, đất nước vừa giành được độc lập lại phải tiến hành kháng chiến lâu dài chống xâm lược nên chưa có điều kiện để chuyển lên con đường Xã hội chủ nghĩa. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, muốn xây dựng Chủ nghĩa xã hội phải phát triển kỹ nghệ, tức là phát triển công nghiệp, khoa học, kỹ thuật. Miền Bắc Việt Nam được giải phóng năm 1954 và bước vào thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Đại hội III của Đảng (9-1960) xác định công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ, tiến hành cách mạng kỹ thuậtxây dựng nền công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến. Xác lập và củng cố quan hệ sản xuất Xã hội chủ nghĩa. Với đường hướng đó, mặc dù trong điều kiện phải tiến hành kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng sản xuất ở miền Bắc đã tăng gấp nhiều lần về cơ sở vật chất-kỹ thuật. Quan hệ sản xuất mới được xây dựng và củng cố với ba yếu tố cơ bản: chế độ công hữu về tư liệu sản xuất với hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể; chế độ quản lý kế hoạch hóa, tập trung, hành chính mà Nhà nước là chủ thể; chế độ phân phối theo lao động, có tính đến một phần về đóng góp tư liệu sản xuất (ruộng 5%). Sau khi miền Nam được giải phóng (1975), đất nước thống nhất và xây dựng Chủ nghĩa xã hội trên cả nước. Đại hội IV của Đảng (12-1976) tiếp tục đường lối đẩy mạnh công nghiệp hóa Xã hội chủ nghĩa và coi cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Xây dựng quan hệ sản xuất mới ở miền Nam theo mô hình đã được xây dựng và củng cố ở miền Bắc, để nhanh chóng thống nhất về chế độ kinh tế. Trong hơn 10 năm xây dựng Chủ nghĩa xã hội trên cả nước, dù bị bao vây, cấm vận và chiến tranh biên giới với những tổn thất nặng nề, song lực lượng sản xuất vẫn phát triển đáng kể; “đã hoàn thành mấy trăm công trình tương đối lớn và hàng nghìn công trình vừa và nhỏ, trong đó có một số cơ sở quan trọng về điện, dầu khí, xi măng, cơ khí, dệt, đường, thủy lợi, giao thông…”(4). Xây dựng các công trình thủy điện Hòa Bình, Trị An, nhiệt điện Phả Lại, các nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch, cầu lớn Thăng Long, Chương Dương, công trình thủy lợi Dầu Tiếng, Kẻ Gỗ, kênh Hồng Ngự thật sự có ý nghĩa lớn về kinh tế - xã hội. Với nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nên Việt Nam đã lâm vào khủng hoảng từ năm 1979. Một trong những nguyên nhân đó là nóng vội, duy ý chí trong cải tạo Xã hội chủ nghĩa và quan hệ sản xuất mới bộc lộ nhiều hạn chế, khuyết điểm, nhất là về cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý. Quan hệ sản xuất đã làm cho nền kinh tế trì trệ, kém phát triển và cũng không thể mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Đại hội VI của Đảng (12-1986) cho rằng: “Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tình hình thực tế của nước ta đòi hỏi phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn”(5). Nhận thức đúng đắn đó là cơ sở để quyết định đường lối đổi mới, lấy đổi mới kinh tế là trung tâm. Đổi mới cơ cấu kinh tế với chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế gắn với nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất; đổi mới cơ chế quản lý và chế độ phân phối, xóa bỏ cơ chế quản lý hành chính, tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh doanh, chuyển dần sang nền kinh tế thị trường. Quan hệ sản xuất đã được nhận thức và chuyển đổi phù hợp. Trong công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước nhằm phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (7-1994) nêu rõ: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Đó là một quá trình lâu dài, “Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Đại hội VIII của Đảng (6-1996) khẳng định Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, hoàn thành những nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ do Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII (12-1996) đề ra và xác định giáo dục, đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu nhằm phát triển lực lượng sản xuất, phát triển đất nước. Đẩy mạnh CNH, HĐH, chú trọng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ là cần thiết và đúng đắn. Nhưng sau 10 năm đổi mới, Đại hội VIII lại thấy rõ một khuyết điểm là: “Việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới có phần vừa lúng túng vừa buông lỏng”(8). Kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước chưa phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Chưa đổi mới kinh tế hợp tác, hợp tác xã tan rã hoặc chỉ tồn tại hình thức chưa có hình thức hợp tác xã mới. Chưa thật sự thúc đẩy và quản lý tốt kinh tế tư nhân. Quản lý kinh tế liên doanh với nước ngoài có nhiều sơ hở. Có sự buông lỏng và lúng túng trong lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới vì quan hệ sản xuất được xây dựng trước đổi mới đã không còn thích hợp và nhận thức về quan hệ sản xuất mới còn chưa rõ ràng. Sau khi khẳng định nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, thì nhận thức về quan hệ sản xuất và thể hiện nó trong xây dựng, phát triển các hình thức tổ chức kinh tế, các thành phần kinh tế mới từng bước được làm rõ. Hội nghị Trung ương 3 khóa IX (9-2001) ban hành nghị quyết Về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX (2-2002) Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Những quan điểm cơ bản đó được thể chế hóa trong sự bổ sung, phát triển Luật doanh nghiệp và Luật hợp tác xã. Công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế đã thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển nhanh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực. Gần 30 năm đổi mới, nhiều công trình lớn của đất nước được xây dựng và đi vào hoạt động. Đó là nhà máy thủy điện Yaly, Sơn La, Tuyên Quang cùng với Hòa Bình, Trị An trước đó, hệ thống tải điện Bắc Nam, cùng với các nhà máy thủy điện vừa và nhỏ, nhiệt điện đã là thành tựu lớn của điện khí hóa toàn quốc. Công nghiệp dầu khí với khu công nghiệp lọc dầu Dung Quất, khí điện đạm Phú Mỹ, Cà Mau. Hiện đại hóa ngành khai thác than và khoáng sản. Tiếp tục phát triển công nghiệp gang thép, cơ khí. Phát triển công nghệ thông tin và viễn thông. Nâng cấp hệ thống đường giao thông. Xây mới các cầu hiện đại: Mỹ Thuận, Cần Thơ, các cầu ở Đà Nẵng, cầu Thanh Trì, Vĩnh Tuy ở Hà Nội và nhiều cầu hiện đại khác. Hiện đại hóa các sân bay, cảng biển. Phát triển hàng trăm khu công nghiệp và chế xuất, hình thành những trung tâm công nghiệp, khu vực kinh tế trọng điểm của đất nước. 2.2. THỰC TRẠNG CỦA QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.2.1 Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam Dân số: Việt Nam có quy mô dân số trên 90 triệu người, đứng thứ 13 thế giới, thứ 7 châu Á và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Dân số phân bố không đều và có sự khác biệt lớn theo vùng. Dân cư Việt Nam phần đông vẫn còn là cư dân nông thôn (khoảng 68 % - năm 2013). Trình độ học vấn của dân cư ở mức khá; tuổi thọ trung bình tăng khá nhanh (năm 2013 đạt 73,1 tuổi). Lao động: Lực lượng lao động nước ta hiện nay khoảng 52.207.000 người; hàng năm trung bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Thể lực và tầm vóc của nguồn nhân lực đã được cải thiện và từng bước được nâng cao, tuy nhiên so với các nước trong khu vực (Nhật Bản, Thái Lan, Xinh-ga-po, Trung Quốc,..) nói chung thấp hơn cả về chiều cao trung bình, sức bền, sức dẻo dai. Lao động Việt Nam được đánh giá là thông minh, khéo léo, cần cù, tuy nhiên ý thức kỷ luật, năng lực làm việc theo nhóm,… còn nhiều hạn chế. Đào tạo: Số lượng nhân lực được tuyển để đào tạo ở các cấp tăng nhanh. Điều này có thể được xem như là một thành tựu quan trọng trong lĩnh vực đào tạo nhân lực. Theo số liệu thống kê sơ bộ năm 2013, số sinh viên đại học và cao đẳng là 2.058.922 người, số tốt nghiệp là 405.900 người; số học sinh các trường trung cấp chuyên nghiệp là 421.705 người. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa phương,… chưa đồng nhất, chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội. Về trình độ chuyên môn kỹ thuật, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong toàn bộ lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 17,9%, trong đó ở thành thị là 33,7%, gấp 3 lần tỷ lệ này ở khu vực nông thôn là 11,2%, phân theo giới tính tỷ lệ này là 20,3% đối với nam và 15,4% đối với nữ; tỷ lệ nhân lực được đào tạo trình độ cao (từ đại học trở lên) trong tổng số lao động qua đào tạo ngày càng tăng (năm 2010 là 5,7%, năm 2012 là 6,4%, sơ bộ năm 2013 là 6,9% ). Sử dụng nhân lực: Lực lượng lao động đã được thu hút vào làm việc trong nền kinh tế là khá cao. Theo báo cáo của Chính phủ tại Kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khoá XIII, nền kinh tế đã tạo ra trong năm 2013 khoảng 1,58-1,6 triệu việc làm mới; tỷ lệ thất nghiệp là 2,18% (trong đó thành thị là 3,59%, nông thôn là 1,54%), tỷ lệ thiếu việc làm là 2,75% (trong đó thành thị là 1,48%, nông thôn là 3,31%). Năng suất lao động có xu hướng ngày càng tăng: Theo cách tính năng suất lao động đo bằng tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá hiện hành chia cho tổng số người làm việc bình quân trong 01 năm, năng suất lao động năm 2005 là 21,4 triệu đồng/người, năm 2010 là 44,0 triệu đồng/người, năm 2012 là 63,1 triệu đồng/người, sơ bộ năm 2013 là 68,7 triệu đồng/người. Đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp khá đã được thu hút và phát huy hiệu quả lao động cao ở một số ngành, lĩnh vực như bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin, sản xuất ô tô, xe máy, đóng tàu, công nghiệp năng lượng, y tế, giáo dục,… và xuất khẩu lao động. Đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng tăng về số lượng và cải thiện về kiến thức, kỹ năng kinh doanh, từng bước tiếp cận trình độ quốc tế. Có thể khái quát một số hạn chế chủ yếu của nguồn nhân lực nước ta như: Chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa phương của nguồn nhân lực chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội. Đội ngũ nhân lực chất lượng cao, công nhân lành nghề vẫn còn rất thiếu so với nhu cầu xã hội để phát triển các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam, nhất là để tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu cũng như nâng cấp vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị đó. Số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, thậm chí nhóm có trình độ chuyên môn cao có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết khá, nhưng lại kém về năng lực thực hành và khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh công nghiệp; vẫn cần có thời gian bổ sung hoặc đào tạo bồi dưỡng để sử dụng hiệu quả. Khả năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, năng lực sử dụng ngoại ngữ là công cụ giao tiếp và làm việc của nguồn nhân lực còn rất hạn chế. Trong môi trường làm việc có yếu tố nước ngoài, ngoại ngữ, hiểu biết văn hoá thế giới luôn là điểm yếu của lao động Việt Nam. Tinh thần trách nhiệm làm việc, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công dân, ý thức văn hoá công nghiệp, kỷ luật lao động của một bộ phận đáng kể người lao động chưa cao. Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Mặt khác, đáng lo ngại là năng suất lao động của Việt Nam có xu hướng tăng chậm hơn so với các nước đang phát triển trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, In-đô-nê-xia. 2.2.2 Nguyên nhân Nguyên nhân của những hạn chế có nhiều, cần được phân tích kỹ và đầy đủ để rút kinh nghiệm, trong đó theo chúng tôi, đáng chú ý là Thứ nhất, nguồn lực quốc gia và khả năng đầu tư cho phát triển nhân lực của phần lớn các gia đình còn hạn chế, chưa đáp ứng điều kiện tối thiểu để bảo đảm chất lượng các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao. Nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước cho phát triển nhân lực còn hạn chế; chưa huy động được nhiều các nguồn lực trong xã hội (nhất là các doanh nghiệp) để phát triển nhân lực. Thứ hai, quản lý nhà nước về phát triển nhân lực còn những bất cập so với yêu cầu. Chủ trương, đường lối phát triển nguồn nhân lực chưa được thể chế hoá bằng các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách và các kế hoạch phát triển một cách kịp thời và đồng bộ; việc triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách chưa kịp thời, chưa nghiêm túc. Nhiều mục tiêu phát triển nguồn nhân lực chưa tính toán đầy đủ các điều kiện thực hiện. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực chưa chặt chẽ. Thứ ba, hệ thống giáo dục quốc dân - lực lượng nòng cốt trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đất nước bộc lộ nhiều hạn chế. Cụ thể là: công tác phân luồng định hướng nghề nghiệp cho học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông chưa tốt; công tác đào tạo, giáo dục nghề nghiệp chưa thực sự dựa trên cơ sở nhu cầu xã hội, chưa thu hút được sự tham phát triển nguồn nhân lực từ các đơn vị sử dụng lao động; đội ngũ giáo viên, giảng viên còn thiếu về số lượng, yếu về chuyên môn nghiệp vụ, còn sự chênh lệch lớn về trình độ phát triển giữa các địa phương, vùng, miền; hệ thống phương pháp, công cụ kiểm tra, giám sát, kiểm định và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo còn lạc hậu, kém hiệu quả; mục tiêu giáo dục toàn diện chưa được hiểu và thực hiện đúng… Thứ tư, hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng về kinh tế, xã hội, văn hoá nước ta với thế giới. Còn nhiều sự khác biệt trong các quy định về giáo dục nghề nghiệp, đào tạo nhân lực của hệ thống pháp luật Việt Nam so với pháp luật của các nước; mô hình hệ thống giáo dục và đào tạo, nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo nhân lực chưa tương thích và chưa phù hợp với các tiêu chuẩn phổ biến của các nước trong khu vực và thế giới; chưa thu hút được nhiều các nguồn lực quốc tế cho phát triển nhân lực. Việc tổ chức, đánh giá chất lượng dạy và học ngoại ngữ, bồi dưỡng một số hiểu biết, kỹ năng cần thiết để hội nhập quốc tế chưa đáp ứng yêu cầu. Môi trường pháp lý, điều kiện làm việc, cơ chế chính sách chưa bảo đảm cho trao đổi nhân lực giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học giữa Việt Nam và các nước được thực hiện thuận lợi, chưa phát huy hết tiềm năng của khả năng hợp tác quốc tế này phục vụ phát triển nguồn nhân lực của đất nước. 2.3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC GIAI ĐOẠN 2015-2020 Phát triển lực lượng sản xuất là yếu tố quan trọng nhất để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy các biện pháp phát triển lực lượng sản xuất có vai trò then chốt trong hệ thống các biện pháp phát triển kinh tế xã hội 2.3.1 Chủ động hội nhập quốc tế để phát triển nguồn nhân lực Việt Nam Xây dựng, thường xuyên cập nhật hệ thống pháp luật về phát triển nguồn nhân lực Việt Nam phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam nhưng không trái với thông lệ và luật pháp quốc tế về lĩnh vực này mà Việt Nam tham gia, ký kết, cam kết thực hiện. Thiết lập khung trình độ quốc gia phù hợp với khu vực và thế giới. Xây dựng nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục và đào tạo theo định hướng phù hợp chuẩn quốc tế và đặc thù Việt Nam; tăng cường quan hệ liên thông chương trình đào tạo giữa các cơ sở giáo dục và các ngành đào tạo của Việt Nam và quốc tế; thực hiên công nhận lẫn nhau chương trình đào tạo giữa các cơ sở giáo dục và đào tạo của Việt Nam và của thế giới; thỏa thuận về việc công nhận văn bằng, chứng chỉ đào tạo giữa Việt Nam với các nước. Tham gia kiểm định quốc tế chương trình đào tạo. Thực hiện đánh giá và quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, liên kết, trao đổi về giáo dục và đào tạo đại học, sau đại học và các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học, công nghệ giữa các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam và thế giới. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa học có tài năng và kinh nghiệm của nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan