ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------
NGUYỄN XUÂN BÉ
THỰC THI QUYỀN LỰC CỦA NHÂN DÂN
TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Chính trị học
Hà Nội – 2013
i
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------
NGUYỄN XUÂN BÉ
THỰC THI QUYỀN LỰC CỦA NHÂN DÂN
TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Ngọc Liêu
Hà Nội – 2013
ii
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn "Thực thi quyền lực của nhân dân trong quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam"
là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi thực hiện từ
năm 2012 và hoàn thành vào tháng 12 năm 2013. Các số liệu
và trích dẫn trong luận văn là trung thực. Các kết quả nghiên
cứu của luận văn không trùng với bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Nguyễn Xuân Bé
iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
NNPQXHCN : Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
NNPQ
: Nhà nước pháp quyền
iv
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................3
1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................................3
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài.................................................................................5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................................10
3.1. Mục đích nghiên cứu...............................................................................................10
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ..............................................................................................10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn .......................................................10
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của Luận văn..........................................11
6. Đóng góp của Luận văn .............................................................................................11
7. Kết cấu của Luận văn.................................................................................................11
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VÀ VIỆC THỰC THI QUYỀN LỰC CỦA NHÂN DÂN Ở
VIỆT NAM ...................................................................................................................12
1.1. Nhà nước pháp quyền ............................................................................................12
1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền ..............................................12
1.1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước PQXHCN ....................16
1.1.3. Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam...............24
1.2. Quyền lực, quyền lực chính trị, quyền lực của nhân dân và thực thi quyền lực.....29
1.2.1. Quyền lực và quyền lực chính trị ........................................................................29
1.2.2. Quyền lực của nhân dân ......................................................................................34
1.2.3. Nội dung và hình thức của quyền lực nhân dân ở Việt Nam...............................37
1.2.4. Cơ chế thực thi quyền lực của nhân dân ở Việt Nam .........................................45
CHƯƠNG 2.THỰC THI QUYỀN LỰC NHÂN DÂN TRONG QUÁ TRÌNH
XÂY DỰNG NNPQXHCN Ở VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ..........53
2.1. Đánh giá tình hình thực thi quyền lực nhân dân trong quá trình xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam ......................................................................53
2.1.1 Luật hóa quyền lực của nhân dân trong quá trình xây dựng nhà nước
PQXHCN Việt Nam.......................................................................................................53
2.1.2 Đánh giá việc thực thi quyền lực của nhân dân trong quá trình xây dựng
Nhà nước PQXHCN Việt Nam.....................................................................................64
1
2.2. Một số giải pháp đảm bảo thực thi quyền lực của nhân dân trong quá trình xây
dựng nhà nước PQXHCN Việt Nam hiện nay...............................................................80
2.2.1. Xác dịnh nội dung quyền lực của nhân dân và thể chế hóa quyền lực
đó thành luật...................................................................................................................80
2.2.2. Xây dựng chỉnh đốn Đảng, củng cố và tăng cường.............................................84
2.2.3. Xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước ..........................................................87
2.2.4. Mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân .......................92
2.2.5 Xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả các quy định để Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội và nhân dân tham gia tích cực vào quá trình góp
ý, giám sát và phản biện xã hội......................................................................................96
KẾT LUẬN....................................................................................................................100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................102
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân,
do dân và vì dân là một trong những vấn đề được các văn kiện Đại hội XI đề
cập một cách toàn diện, sâu sắc. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định:
Một là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo là một trong tám đặc trưng của
xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Nhà nước pháp quyền
là một giá trị tư tưởng được tích lũy lâu dài trong lịch sử nhân loại. Sự hình
thành của tư tưởng về nhà nước pháp quyền luôn gắn liền với tư tưởng phát
triển dân chủ, loại trừ chuyên quyền, độc đoán, vô chính phủ, vô pháp luật...
Ở nước ta, tư tưởng về nhà nước pháp quyền cũng đã xuất hiện từ lâu, thể
hiện đậm nét trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Mặc dù, trong quá trình nghiên
cứu, Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa dùng khái niệm “Nhà nước pháp quyền”,
nhưng tư tưởng của Người về nhà nước pháp quyền đã rất rõ. Trong “Việt
Nam yêu cầu ca”, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Bảy xin hiến pháp ban hành, Trăm
điều phải có thần linh pháp quyền” [21, tr.438]. Khái niệm “Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa” lần đầu tiên được Đảng ta sử dụng tại Hội nghị Đại
biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994). Từ đó khái niệm này được sử
dụng chính thức trong các văn kiện Đảng và Nhà nước. Những nội dung
mang tính đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ngày càng định hình và thực hiện trong thực tế. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm
2011) tiếp tục cụ thể hóa về nội hàm của khái niệm Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa như sau: "Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống
3
nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp"[49,tr.85].
Hai là, một trong tám phương hướng cơ bản để đạt được mục tiêu tổng
quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta cần nắm vững là “xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”
[49,tr.72]. So với Cương lĩnh năm 1991 thì đây là sự tiến bộ vượt bậc về tư
duy lý luận của Đảng ta trong quá trình xây dựng và từng bước hoàn thiện
Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh năm 1991 mới xác định
xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong đó chỉ mới đề cập đến nội dung
nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng
sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ
cương xã hội, chuyên chế với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc
và của nhân dân. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, qua tổng kết
20 năm đổi mới, trong đó có 15 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 xác
định: Để đi lên chủ nghĩa xã hội chúng ta phải xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Xây dựng
Nhà nước pháp quyền ở nước ta là công việc mới mẻ, vừa làm vừa rút kinh
nghiệm. Do đó, để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN thành công ở Việt
Nam chúng ta còn phải thực hiện nhiều giải pháp, tìm tòi những căn cứ lý
luận khoa học cùng với đó là từng bước tổng kết thực tiễn ngay trong quá
trình xây dựng. Bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN xét đến cùng là
mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất
của quyền lực nhà nước. Nhân dân không những là chủ thể mà còn là cội
nguồn phát sinh quyền lực, đồng thời với đó là người giám sát quá trình tổ
chức thực thi quyền lực nhà nước. Như vậy, muốn xây dựng thành công Nhà
nước pháp quyền XHCN ở nước ta ngoài việc xây dựng thể chế chính tri,
hoàn thiện khung pháp lý thì việc tìm ra cách thức để thực thi có hiệu quả
quyền lực của người dân là hết sức quan trọng.
4
Trong thời gian vừa qua, bên cạnh những thành tựu mà chúng ta đạt
được như đã ban hành nhiều văn bản, chính sách để tạo điều kiện thuận lợi
cho nhân dân tham gia vào công việc của chính quyền, khối đại đoàn kết được
tăng cường, dân chủ được tôn trọng và từng bước đi vào nền nếp, thì việc phát
huy quyền lực của nhân dân trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN còn nhiều hạn chế, yếu kém cần khắc phục như: Quyền lực nhân dân
có lúc có nơi chưa thật sự chú trọng, thậm chí còn vi phạm dân chủ trầm
trọng. Nhân dân chưa tham gia sâu vào công việc của chính quyền nhà nước
các cấp, cơ chế, giải pháp ở nhiều địa phương chưa thống nhất, đồng bộ. Một
bộ phận cán bộ chính quyền các cấp chưa thật sự lắng nghe tiếng nói từ dân,
chưa gắn chặt hoạt động của chính quyền với lợi ích thiết thực của nhân dân,
gây bức xúc và bất bình trong nhân dân. Hai phương thức cơ bản trong thực
thi quyền làm chủ của nhân dân là "dân chủ trực tiếp" và "dân chủ đại diện"
có lúc, có nơi còn rơi vào hình thức, giã hiệu thậm chí còn lúng túng trong
triển khai hướng dẫn thực hiện, dẫn đến nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta đang xây dựng gặp nhiều bất cập, vướng mắc, chưa đáp ứng được
nhu cầu nguyện vọng và lợi ích chính đáng của mọi tầng lớp nhân dân. Chính
thực tế đó đã đặt ra cho chúng ta cả trước mắt và lâu dài là phải tìm tòi, xây
dựng những giải pháp tối ưu, có tính khả thi để khơi dậy và thực thi có hiệu
quả quyền lực của nhân dân trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Xuất phát từ nhu cầu đó, tôi chọn vấn đề "Thực thi quyền lực của nhân
dân trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam"
làm đề tài Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Từ lâu, vấn đề quyền lực nói chung, quyền lực chính trị nói riêng đã thu
hút sự quan tâm của nhiều nhà hoạt động chính trị cũng như các nhà khoa học
thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn trong và ngoài nước. Trong
những năm gần đây, vấn đề thực thi quyền lực chính trị của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động được xác định như một trong những nhiệm vụ
5
trung tâm của công cuộc đổi mới, cải cách ở một số nước XHCN. Khuynh
hướng bảo vệ và mở rộng quyền lực chính trị của nhân dân lao động trên cơ
sở cải cách thể chế kinh tế, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN..
đang ngày càng đóng vai trò chủ đạo trong quá trình xây dựng và phát triển ở
các nước này. Để phục vụ cho nhiệm vụ chính trị thực tiễn đó, việc nghiên
cứu nội dung, phương thức nâng cao quyền lực của nhân dân nói chung,
quyền lực chính trị của nhân dân nói riêng đã thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà lý luận.
Ở nước ta, liên quan đến vấn đề thực thi quyền lực của nhân dân trong
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đã có rất nhiều
công trình khoa học, các bài báo, các đề tài được tiếp cận trên nhiều góc độ
khác nhau. Đặc biệt là sau Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa
VII (1994), các nhà khoa học đã quan tâm sâu sắc hơn về vấn đề này và đã có
những công trình được công bố. Qua khảo sát bước đầu, chúng tôi nhận thấy
đã có một số công trình đề cập trực tiếp đến vấn đề nói trên, chẳng hạn như:
- Hoàng Chí Bảo, Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến trình
đổi mới, Nxb CTQG, Hà Nội - 2007. Công trình nêu bật tầm quan trọng của
dân chủ và dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là dân chủ cơ sở ở nông thôn ở nước ta
hiện nay; những hạn chế yếu kém trong quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở
trong thời gian qua, đồng thời đề xuất những giải pháp khắc phục nhằm góp
phần thực hiện ngày càng có hiệu quả hơn việc phát huy dân chủ trong đời
sống xã hội, tạo động lực và mục tiêu cho sự nghiệp xây dựng một nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa "dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh".
- Nguyễn Thị Hiền Oanh, Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với
việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội -2005. Công trình đi sâu làm rõ nội dung Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam là một phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Trong
6
đó tập trung chỉ ra những kết quả đạt được trong hoạt động của Mặt trận trong
vai trò là phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Đồng thời,
công trình đã chỉ ra những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân dẫn đến hạn chế
yếu kém đó. Đặc biệt, đã bước đầu đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm cụ thể
hóa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong quá trình thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay.
- Hoàng Mai Hương - Nguyễn Hồng Hải, Tư tưởng của V.I.Lênin về
quyền con người và giá trị thực tiễn ở Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội - 2010.
Các tác giả đã đề cập và nhấn mạnh tư tưởng của Lênin về quyền con người,
dân chủ, quyền dân tộc tự quyết, quyền chính trị và quyền tham gia, đồng thời
nêu bật ý nghĩa của các quyền này đối với thực tiễn Việt Nam hiện nay.
- Trần Hậu Thành, Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội - 2005. Đây là công trình công phu, đề cập một cách khá
đầy đủ về Nhà nước pháp quyền và vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tác giả đã luận giải nội hàm của nhà nước pháp
quyền, so sánh đối chiếu qua các quan điểm khác nhau. Quan trọng hơn, đề
tài đã làm rõ quan điểm và nội dung cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó đề xuất nhiều giải pháp, chỉ ra
phương hướng, các bước đi cụ thể cho tiến trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam.
- Đề tài khoa học cấp cơ sở: Vấn đề quyền lực chính trị và thực thi quyền
lực chính trị (2008), do Viện Chính trị học - Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì và PGS.TSKH. Phan Xuân Sơn làm chủ nhiệm,
đã khái quát một số cách tiếp cận khác đối với quyền lực và quyền lực nhà
nước. Đây chủ yếu là những phương pháp và góc độ tiếp cận quyền lực,
quyền lực nhà nước của chính trị học phương Tây, nhất là Mỹ,...như là bước
đi tiếp theo của việc nghiên cứu quyền lực và quyền lực nhà nước theo hướng
chuyên sâu.
7
- Lê Minh Quân - Bùi Việt Hương: Về quyền lực trong quản lý nhà nước
hiện nay, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội - 2012. Cuốn sách trình bày có hệ
thống và đa dạng cách tiếp cận mới về quyền lực nhà nước hiện nay. Mặt
khác, cuốn sách đã đề cập đến những thay đổi cần thiết về phương thức quản
lý nhà nước, chức năng và nhiệm vụ của quản lý nhà nước dưới góc độ quyền
lực.
- Hồ Bá Thâm - Nguyễn Tôn Thị Tường Vân: Phản biện xã hội và phát
huy dân chủ pháp quyền, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội -2010. Cuốn sách
nhấn mạnh đến những nội dung của phản biện xã hội, nhất là những cơ chế để
phản biện xã hội phát huy hiệu quả cao nhất. Đồng thời, đem cơ chế phản
biện xã hội đặt trong bối cảnh của nền dân chủ pháp quyền để thấy được vai
trò của nó trong việc xây dựng và phát triển nội dung dân chủ hóa xã hội.
- Trần Ngọc Liêu: Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước
với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2013. Cuốn sách đi sâu luận giải các quan điểm
khác nhau về bản chất nhà nước pháp quyền và chỉ ra những thành tựu, nhận
thức của Đảng ta trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Đặc biệt, tác giả đã vạch rõ cách thức để tiếp tục thực thi tốt
hơn quyền lực của nhân dân trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Ngoài các công trình chuyên khảo nói trên, ở nước ta trong thời gian
qua, còn có nhiều công trình khác có liên quan đã công bố như:
- Phạm Văn Bính (2006), Cơ cấu, phương thức thực hiện quyền lực
trong hệ thống hành chính Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Ngô Huy Cương (2006), Dân chủ và pháp luật dân chủ, Nxb Tư pháp,
Hà Nội.
- Dương Xuân Ngọc (2000), Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã: Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb CTQG, Hà Nội.
8
- Nguyễn Sinh Hùng: Tăng cường vai trò giám sát tối cao của Quốc hội
đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Tạp chí Cộng sản, số 844 (Tháng 2
năm 2013)
- Lê Hữu Nghĩa: Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị ở
nước ta hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Lý luận chính
trị, số 1/2013.
- Vũ Lân: Để quần chúng nhân dân tham gia tốt hơn vào công tác xây
dựng Đảng, xây dựng chính quyền, Tạp chí Cộng sản, số 845 (tháng 3 năm
2013).
- Nguyễn Linh Khiếu: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới, Tạp chí Cộng sản, Số 839 (tháng 9
năm 2012)
- Trần Ngọc Liêu (2004), Tư tưởng quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân của Hồ Chí Minh, Tạp chí Cộng sản, Số 10, 5/2004.
- Trần Ngọc Liêu: Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận của Đảng về Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, Số 834 (Tháng 4
năm 2012)
v.v...
Nhìn chung các công trình trên đã bước đầu đi sâu vào những khía cạnh,
góc độ khác nhau về quyền lực của nhân dân trong quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Các công trình đó đã đạt được những giá
trị to lớn cả về lý luận lẫn thực tiễn. Qua đây chúng ta có một cách nhìn nhận
đa chiều và khách quan hơn về vấn đề quyền lực nhân dân và nhà nước pháp
quyền. Tuy nhiên, các công trình trên mới chỉ nhấn mạnh đến vấn đề xây
dựng Nhà nước Pháp quyền XHCN ở Việt Nam, hoặc là chỉ bàn riêng về vấn
đề dân chủ xã hội. Chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu và luận giải
những căn cú khoa học để phát huy tối đa quyền lực của nhân dân góp phần
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Đề tài này mong muốn
9
đóng góp thêm một phần nhỏ đó là cung cấp thêm một số giải pháp nhằm
phát huy hơn nữa quyền lực của nhân dân trong xây dựng Nhà nước
PQXHCN ở nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích:
Thông qua việc làm rõ nội dung, hình thức và cơ chế thực thi quyền lực,
Luận văn hướng tới mục đích nâng cao hơn nữa hiệu quả thực thi quyền lực
nhân dân trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích đặt ra ở trên luận văn có nhiệm vụ:
+ Làm rõ những vấn đề lý luận về quyền lực, quyền lực chính trị, quyền
lực của nhân dân.
+ Luận giải nội dung và cơ chế đảm bảo việc thực thi quyền lực của
nhân dân trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi quyền lực
của nhân dân trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
Quyền lực của nhân dân trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Quyền lực nhân dân được thực thi trên hai phương diện là quyền lực
chính trị được luật hóa thành các văn bản và đảm bảo thực thi bằng bộ máy
nhà nước.
+ Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
10
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu luận văn
- Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận của Luận văn là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực thi quyền lực của
nhân dân trong xây dựng Nhà nước XHCN.
Luận văn kế thừa những thành quả nghiên cứu của những công trình có
liên quan đến đề tài đã được công bố.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời sử dụng các phương pháp
liên ngành và chuyên ngành chính trị học cụ thể như: phân tích, tổng hợp, hệ
thống cấu trúc, nghiên cứu tài liệu, đối chiếu so sánh, v.v...
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về thực
thi quyền lực của nhân dân trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam.
- Góp phần đánh giá những thành tựu và hạn chế của việc thực thi quyền
lực nhân dân trong xây dựng NNPQXHCN ở Việt Nam từ 1994 đến nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả đối với việc
thực thi quyền lực của nhân dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
ở Việt Nam.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ việc giảng dạy và
nghiên cứu các vấn đề như: dân chủ, NNPQ, quyền lực nhân dân, phản biện
xã hội... phục vụ cho cán bộ hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực liên quan đến
đề tài của luận văn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 2 chương, 4 tiết.
11
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VÀ VIỆC THỰC THI QUYỀN LỰC CỦA NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM
1.1 Nhà nước pháp quyền
1.1.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề Nhà nước và pháp luật giữ
một vị trí đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng,
cũng cố một nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân. Những tư tưởng của
Hồ Chí Minh về nhà nước là rất to lớn và sâu sắc, không chỉ được thể hiện
trong các bài viết, các bài phát biểu, trong các văn kiện quan trọng do Người
trực tiếp chỉ đạo xây dựng và ban hành mà cả trong hành động thực tiễn của
Người trên cương vị là người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền có thể khái
quát trên các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, về nhà nước của dân, do dân, vì dân:
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh "Chế độ ta là chế độ dân chủ, địa vị cao
nhất là dân vì dân là chủ" [19, tr.515]. "Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là
nhân dân là chủ"[20, tr.499]. Với Hồ Chí Minh, nhân dân là chủ thể tối cao và
duy nhất của quyền lực nhà nước. Toàn bộ quyền lực nhà nước đều bắt nguồn
từ nhân dân, do nhân dân ủy quyền cho bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm
phụng sự lợi ích của nhân dân. Bộ máy nhà nước được thiết lập là bộ máy
thừa hành ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đội ngũ cán bộ, công chức nhà
nước không thể là các ông quan cách mạng mà là công bộc của nhân dân.
"Chúng ta hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các
làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ
không phải là để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp,
Nhật" [18, tr.56].
12
Là nước của dân, do chính nhân dân lập ra thông qua chế độ bầu cử dân
chủ. Bầu cử dân chủ là phương thức thành lập bộ máy nhà nước đã được xác
lập trong nền chính trị hiện đại, đảm bảo tính chính đáng của chính quyền khi
tiếp nhận sự ủy quyền quyền lực từ nhân dân. Chính vì vậy, để thật sự là nhà
nước của dân, ngay từ những ngày đầu giành được nền độc lập, Hồ Chí Minh
đã đặc biệt quan tâm đến tổ chức cuộc tổng tuyển cử để nhân dân trực tiếp
bầu ra các đại biểu xứng đáng thay mặt mình gánh vác việc nước.
Chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập, 3/9/1945 Hồ Chủ
Tịch đã họp và đề ra những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước, trong đó Người
đề nghị "Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ
phổ thông đầu phiếu"[18, tr.133].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước của dân, không chỉ do
nhân dân lập ra thông qua bầu cử dân chủ mà còn là nhà nước chịu sự kiểm
tra, giám sát, định đoạt của nhân dân. Người khẳng định: "Chế độ ta là chế độ
dân chủ, Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc phê
bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ nhân
dân". "Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với tín nhiệm của
nhân dân. Nguyên tắc ấy bảo đảm quyền kiểm soát của nhân dân đối với đại
biểu của mình" [20, tr.368].
Đối với Hồ Chí Minh, một nhà nước của dân thật sự phải là một nhà nước
do dân và vì dân. Người viết: "Kinh nghiệm trong nước và các nước chứng tỏ cho
chúng ta biết: có lực lượng dân chúng, việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm
được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết
nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi,
những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra"; "Không có lực lượng nhân dân, thì
việc nhỏ mấy, dễ mấy làm cũng không xong..."[19, tr.292]. Một nhà nước của
dân, do dân, vì dân theo Hồ Chí Minh là một nhà nước nếu biết lắng nghe và học
hỏi nhân dân, biết tôn trọng, bồi dưỡng và nâng cao sức dân không chỉ nói lên
13
những mong muốn của mình mà còn chỉ ra được nhà nước cần phải hành động
như thế nào để để giải quyết các vấn đề quốc kế dân sinh. Chính vì lẽ đó, Nhà
nước được thành lập không vì mục đích làm thay cho dân, mà thực hiện vai trò
người cầm lái, người tổ chức để nhân dân bằng trí tuệ, sức mạnh của mình giải
quyết các vấn đề của chính mình. Người viết:"Nếu không có nhân dân thì Chính
phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ thì nhân dân không ai dẫn
đường. Vậy chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối"[18, tr.56]. Nhà
nước của dân, do dân không có mục đích tự thân, ý nghĩa, mục tiêu và sứ mệnh
của Nhà nước là phụng sự hạnh phúc của nhân dân, vì nhân dân. Chính vì lẽ đó,
Người cho rằng "....Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa. Nhưng nếu nước nhà độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì
độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì...Chính phủ ta đã hứa với dân sẽ gắng sức làm
cho ai nấy đều có phần hạnh phúc...."[18, tr.56]. Người nhắc nhở: "Việc gì có lợi
cho dân phải hết sức làm. Việc gì có hại đến dân phải hết sức tránh..."[18, tr.57].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước vì dân, tất cả vì hạnh phúc của
nhân dân là tư tưởng nhất quán trong suốt cuộc đời của Người. Cả cuộc đời của
Người là một tấm gương trong sáng thể hiện sinh động tư tưởng, đạo đức của một
con người suốt đời vì dân, vì nước. Khi đảm nhận chức vụ Chủ tịch nước, Người
đã trả lời các nhà báo "Tôi tột nhiên không ham muốn công danh phú quý chút
nào. Bây giờ phải gánh chức chủ tịch nước là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng
làm, cũng như một người lính vâng lệnh quốc dân ra trước mặt trận" [16, tr.381].
Thứ hai, nhà nước được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật:
Nhận thức được tầm quan trọng của luật pháp, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã
đề cao vai trò của chúng trong điều hành và quản lý xã hội. Năm 1919, tám yêu
sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Véc - xây đã có bốn điểm liên quan
đến vấn đề pháp quyền, còn lại liên quan đến công lý và quyền con người.
Bản Yêu sách của nhân dân An Nam được Hồ Chí Minh chuyển thành
"Việt Nam yêu cầu ca", trong đó có yêu cầu thứ bảy là: "Bảy xin hiến pháp ban
14
hành, Trăm điều phải có thần linh pháp quyền". Đây là tư tưởng rất đặc sắc của
Hồ Chí Minh, phản ánh nội dung cốt lõi của Nhà nước dân chủ mới - Nhà nước
quản lý xã hội bằng pháp luật. Đồng thời, đây cũng là nguyên tắc xuyên suốt trong
hoạt động quản lý nhà nước của Người.
Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh đã đề ra một trong sáu
nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là: Chúng ta phải
có một Hiến pháp dân chủ. Ngày 20/9/1945, Chủ tịch lâm thời nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa ký Sắc lệnh thành lập Ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp gồm 7
thành viên do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban. Bản dự thảo Hiến pháp
hoàn thành khẩn trương và nghiêm túc dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Tại kỳ họp thứ 2 của Quốc hội khóa I vào tháng 10/1946, Quốc hội đã
thảo luận dân chủ và thông qua Bản dự thảo Hiến pháp này. Đó là bản hiến pháp
đầu tiên của nước Việt Nam: Hiến pháp 1946.
Sau 1954, khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhiều quy định trong Hiếp pháp
1946 không còn phù hợp, Hồ Chí Minh đã chủ trương sửa đổi và ban hành
Hiến pháp mới - Hiến pháp 1959. Trong tư duy Hồ Chí Minh, một khi điều
kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì pháp luật, nhất là đạo luật "gốc" - Hiến pháp,
cũng phải thay đổi để đảm bảo khả năng điều chỉnh hợp lý các quan hệ xã hội
đã phát sinh và định hình.
Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Pháp luật của ta là pháp luật dân chủ, phải
nghiêm minh và phát huy hiệu lực thực tế. Nhà nước sử dụng pháp luật để quản lý
xã hội. Song, pháp luật của ta đã có sự thay đổi về chất, mang bản chất của giai
cấp công nhân, là một loại hình pháp luật kiểu mới, pháp luật thật sự dân chủ, vì
nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Báo cáo tại hội
nghị chính trị đặc biệt, ngày 27/3/1964, một trong năm nhiệm vụ để hoàn thành sự
nghiệp cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên là "Tăng cường không
ngừng chính quyền nhân dân. Nghiêm chỉnh thực hiện dân chủ với nhân dân,
15
chuyên chính với kẻ địch. Triệt để chấp hành mọi chế độ và pháp luật của Nhà
nước"[17, tr.235].
Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức nhà nước là các cơ
quan nhà nước hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật
nhưng trong điều kiện của một nước thuộc địa nữa phong kiến ở phương Đông,
Hồ Chí Minh sử dụng linh hoạt pháp trị và đức trị trong tổ chức hoạt động của
Nhà nước và quản lý nhà nước. Với Hồ Chí Minh, pháp luật không phải để trừng
trị con người mà là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Tư tưởng
pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thông qua đội ngũ
cán bộ, công chức của Người thấm đượm một tấm lòng thương yêu nhân dân,
chăm lo cho ấm no, hạnh phúc của nhân dân, thấm đượm lòng nhân ái, nghĩa
đồng bào theo đạo lý truyền thống ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Vì thế, kết
hợp giữa đức trị và pháp trị trong tổ chức nhà nước của Hồ Chí Minh có một nội
hàm triết lý, mang đậm tính dân tộc và nhân văn sâu sắc.
Quá trình xây dựng và phát triển nhà nước ở nước ta trong mỗi giai đoạn
sau này đã có không ít những thay đổi về mô hình bộ máy dưới tác động của
nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, nhưng xuyên suốt mạch phát triển ấy vẫn là
tư tưởng của Hồ Chí Minh về một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân
dân. Ngày nay, trong bối cảnh phát triển mới của đất nước dưới tác động mạnh mẽ
của thời đại và thế giới, trong xu thế toàn cầu hóa, nhiều điểm đã thay đổi, nhưng
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân vẫn còn
nguyên giá trị, tiếp tục định hướng cho các nổ lực nghiên cứu, tìm kiếm giải pháp
đổi mới mô hình bộ máy nhà nước trong các điều kiện phát triển mới.
1.1.2 Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Đảng ta khẳng định, nhiệm vụ lịch sử của Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên
nền tảng dân chủ. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các quan điểm của
Đảng về nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước đã được thể chế hóa trong bản Hiến
16
- Xem thêm -