TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
ĐỖ VĂN THÀNH
THỰC NGHIỆM NUÔI GHÉP CÁ SẶC RẰN
(Trichogaster pectoralis Regan, 1909) TRONG RUỘNG LÚA
TẠI HUYỆN VĨNH LỢI TỈNH BẠC LIÊU
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
2014
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
ĐỖ VĂN THÀNH
THỰC NGHIỆM NUÔI GHÉP CÁ SẶC RẰN
(Trichogaster pectoralis Regan, 1909) TRONG RUỘNG LÚA
TẠI HUYỆN VĨNH LỢI TỈNH BẠC LIÊU
CÁN BỘ HƢỚNG DẪN
TS. LAM MỸ LAN
Th.S NGUYỄN THANH HIỆU
2014
THỰC NGHIỆM NUÔI GHÉP CÁ SẶC RẰN
(Trichogaster pectoralis Regan, 1909) TRONG RUỘNG LÚA
TẠI HUYỆN VĨNH LỢI, TỈNH BẠC LIÊU
Đỗ Văn Thành1
1
Khoa Thủy sản. trường Đại học Cần Thơ
1
Email:
[email protected]
ABSTRACT
Snake skin gouramy (Trichogaster pectoralis Regan, 1909) have high economic value
and can be integrated culture in paddy fields or intensive pond culture. To evaluate the
growth, survival rate and productivity of snake skin gouramy in farming model in
combination with paddy, as a basis for building models Paddy - Fish farm combination,
contribute to the improvement revenue to the farmers in Vinh Loi district, Bac Lieu.
Research was conducted in 10 paddy fields with the area of 0.8 to 1.2 ha in Chau Hung
A and Hung Thanh villages, Vinh Loi district, Bac Lieu province. Fingerlings rangers
size from 300-350 fish/kg; Fish was cultured in 8 months. In all paddy fields, water
quality parameters were in the suitable ranges for fish. Fish grew slowly and the final
mean weight were 55.49 to 79.67 g/fish. Average survival rate of snake skin gouramy in
the experimental field was 41%; the highest was in the field 3 (47%) and lowest was
35% in field 9. Fish yield in the experimental field ranged 418-683 kg/ha. Profit from
field 7 was the highest (39.630 million VND/ha/crop) with the cost benefit ratio 88.5%.
Keywords: Snake skin gourami, stocking density, growth, paddy field.
TÓM TẮT
Cá sặc rằn (Trichogaster pectoralis Regan, 1909) là loài cá dễ nuôi, có giá trị kinh tế
cao và có thể nuôi kết hợp trong ruộng lúa hoặc nuôi thâm canh trong ao. Nghiên cứu
nhằm đánh giá về tốc độ tăng trưởng, tỉ lệ sống, năng suất cá sặc rằn trong mô hình
nuôi kết hợp với trồng lúa, làm cơ sở xây dựng mô hình canh tác Lúa - Cá kết hợp, góp
phần cải thiện thu nhập cho người dân ở huyện Vĩnh Lợi tỉnh Bạc Liêu. Nghiên cứu
được thực hiện trong 10 ruộng lúa có diện tích 0,8 – 1,2 ha tại 2 xã Châu Hưng A và
Hưng Thành, huyện Vĩnh Lợi tỉnh Bạc Liêu, cá giống thả có kích cở từ 300 – 350
con/kg, thời gian nuôi thực nghiệm là 8 tháng. Nhìn chung, trong thời gian nuôi thực
nghiệm các yếu tố môi trường nằm trong khoảng thích hợp cho sự sinh trưởng và phát
triển của cá. Cá có tốc độ tăng trưởng chậm, khối lượng trung bình của cá nuôi đạt từ
55,49–79,67g/con. Tỉ lệ sống trung bình của cá sặc rằn trong quá trình nuôi thực
nghiệm là 41%, cao nhất ở ruộng 3 là 47% và thấp nhất ở ruộng 9 là 35%. Năng suất
cá nuôi ở các ruộng thực nghiệm dao động 418 – 683 kg/ha. Năng suất trung bình ở các
ruộng nuôi đạt 54289 kg/ha. Lợi nhuận từ ruộng 7 là cao nhất đạt 39,630 triệu
đồng/ha/vụ với tỉ suất lợi nhuận đạt 88,5%.
Từ khóa: cá sặc rằn, mật độ, tăng trưởng, ruộng lúa.
1
1 GIỚI THIỆU
Nuôi trồng thủy sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của nước
ta. Hàng năm có những đóng góp đáng kể vào việc phát triển chung của nền kinh
tế. Một số loài như cá tra, tôm sú đang là đối tượng chủ lực được nuôi công
nghiệp với quy mô rất lớn, bên cạnh đó còn có những loài cá đồng như cá rô đầu
vuông, cá lóc lai, cá rô đồng… đang là đối tượng được người nuôi quan tâm
trong phong trào nuôi cá đang phát triển mạnh mẽ.
Một trong những loài cá nước ngọt có giá trị kinh tế hiện nay là cá sặc rằn
(Trichogaster pectoralis Regan, 1909). Cá sặc rằn đang là đối tượng được người
nuôi rất quan tâm trong phong trào nuôi cá đang phát triển mạnh mẽ hiện nay với
chất lượng thịt thơm ngon, cá sặc rằn được xem là đặc sản của vùng sông nước ở
cả hai dạng làm khô và cá tươi. Đây là một loài cá dễ nuôi và có thể nuôi kết hợp
với mô hình ruộng lúa hoặc nuôi thâm canh và hiện nay cá sặc rằn đang là đối
tượng nuôi khá quan trọng trong cơ cấu đàn cá nuôi ở ĐBSCL. Theo Dương
Nhựt Long (2003) cá sặc rằn có khả năng chịu đựng tốt với điều kiện môi trường
bất lợi như: pH thấp, nhiệt độ cao, độ trong thấp và đặc biệt là nhờ có cơ quan hô
hấp phụ mà cá sặc rằn có khả năng chịu đựng được các thủy vực có hàm lượng
oxy hòa tan thấp. Cá sặc rằn còn có khả năng sử dụng nhiều loại thức ăn có
nguồn gốc khác nhau như tảo, mùn bã hữu cơ, phân động vật và các phế phẩm
nông nghiệp khác.
Trước đây, cá sặc rằn thường được nuôi trong các mô hình cá - heo kết
hợp, để tận dụng, xử lý các chất thải từ việc nuôi heo để góp phần tăng thêm thu
nhập của người dân. Ngày nay, nhu cầu thị trường về cá sặc rằn ngày càng lớn,
người tiêu thụ chú trọng đến vấn đề về vệ sinh thực phẩm, do đó đã có nhiều mô
hình nuôi thực nghiệm cá sặc rằn bằng thức ăn công nghiệp ở xã Châu Hưng A,
huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu bước đầu cũng đạt được nhiều hiệu quả. Để tiếp
tục tìm hiểu thêm về cá sặc rằn và qua đó cải thiện dần từng bước kỹ thuật nuôi
cá sặc rằn. Đề tài “Thực nghiệm nuôi cá sặc rằn (Trichogaster pectoralis
Regan, 1909) xen canh trong ruộng lúa tại huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu”
được thực hiện.
2 PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Địa điểm và thời gian nuôi thực nghiệm
Thực nghiệm nuôi cá sặc rằn xen canh trong ruộng lúa được thực hiện ở
10 ruộng lúa tại 2 xã Châu Hưng A và Hưng Thành, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc
Liêu từ tháng 7/2013 đến tháng 5/2014.
2
2.2 Bố trí thực nghiệm
Thực nghiệm nuôi cá sặc rằn được thực hiện trong 10 ruộng lúa có diện
tích dao động từ 0,8 - 1,2 ha, ruộng nuôi được thiết kế theo dạng mương bao và
ao trữ, có bờ bao quanh.
Bảng 1. Các ruộng lúa đƣợc chọn để bố trí thực nghiệm
Ruộng
Tên chủ hộ
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Từ Vinh
Trần Văn Ngàn
Nguyễn văn Hòa
Phạm Văn Chấn
Lê Minh Đương
Trương Văn Lương
Võ Văn Huy
Nguyễn Thành Ba
Dương Quốc Dũng
Huỳnh Quốc Đoàn
Địa chỉ
Xã Châu Hưng A
Xã Châu Hưng A
Xã Châu Hưng A
Xã Châu Hưng A
Xã Châu Hưng A
Xã Hưng Thành
Xã Hưng Thành
Xã Hưng Thành
Xã Hưng Thành
Xã Hưng Thành
Diện tích (m2)
Tỉ lệ mƣơng bao (m2)
12.000
10.000
8.000
12.000
9.000
9.000
11.000
9.000
10.000
8.000
1.200
0
800
1.200
0
900
1.100
0
0
1.000
Cá giống được sử dụng trong quá trình nuôi thực nghiệm do nông hộ tự
sản xuất cá bột và ương lên thành cá giống sau 2 tháng ương (tháng 4 - 6). Cá
giống bố trí lên ruộng có kích cỡ đồng đều, màu sắc đồng nhất, không dị tật, dị
hình, không có dấu hiệu mang mầm bệnh, trung bình cỡ cá giống từ 300 – 350
con/kg, mật độ thả 2 con/m2, cá giống được thả lên ruộng lúa vào tháng 7 và thu
hoạch cá vào cuối tháng 3. Thời gian nuôi thực nghiệm là 8 tháng (từ tháng
8/2013 – 3/2014). Thức ăn bổ sung cho cá gồm thức ăn công nghiệp và các loại
phụ phế phẩm nông nghiệp như tấm, cám. Mực nước trên ruộng duy trì thấp nhất
là 20 cm khi có lúa và sau khi thu hoạch lúa dâng mực nước lên tối đa. Lúa mùa
bắt đầu gieo mạ vào tháng 8 và thu hoạch lúa vào cuối tháng 2. Trong quá trình
nuôi, theo dõi các yếu tố môi trường (nhiệt độ, oxy hòa tan, pH…) và hoạt động
của cá hằng ngày.
2.3 Phƣơng pháp thu mẫu
Mẫu nƣớc
Các chỉ tiêu môi trường được thu vào buổi sáng khoảng từ 7 - 8h, định kỳ
thu mẫu mỗi tháng 1 lần, pH, oxy hòa tan, N-NH4+, P-PO43- của môi trường nuôi
được đo bằng test Sera test kit. Mẫu nước dùng để đo được thu ngẫu nhiên trong
ruộng ở độ sâu 0,3 m, sử dụng bộ test đo nhanh trực tiếp tại chỗ và ghi chép số
liệu. Nhiệt độ được đo bằng nhiệt kế thủy ngân, đặt nhiệt kế dưới nước ruộng
nuôi ở độ sâu 0,3 m trong 5 phút và đọc kết quả.
3
Mẫu cá
Mẫu được thu bằng vợt, lưới kéo, chài, thu ngẫu nhiên trong mương bao,
ruộng; mỗi lần thu mẫu 30 con. Định kỳ 1 tháng thu mẫu 1 lần; tiến hành cân để
xác định khối lượng cá.
Tốc độ tăng trƣởng tuyệt đối (g/ngày)
W2 – W1
DWG (g/ngày) =
t2 – t1
Trong đó: W1: khối lượng trung bình của cá nuôi tại thời điểm t1
W2: khối lượng trung bình của cá nuôi tại thời điểm t2
Tốc độ tăng trƣởng tƣơng đối (%/ngày)
LnW2 – LnW1
SGR (%/ngày) =
x 100
t2 – t1
Tỷ lệ sống:
Tỉ lệ sống (%) =
Số cá thu hoạch
Số cá thả nuôi
x 100
Năng suất cá nuôi:
Năng suất cá nuôi (kg/ha) =
Khối lượng cá thu được (kg)
Diện tích nuôi (ha)
2.4 Phân tích hiệu quả lợi nhuận mang lại từ mô hình nuôi
Trong quá trình thực nghiệm nuôi các chỉ tiêu làm cơ sở đánh giá tính
hiệu quả của mô hình nuôi như: chi phí đầu tư, thu hoạch sản phẩm, lợi nhuận và
tỷ suất lợi nhuận được thu thập và phân tích nhằm đánh giá tính hiệu quả tài
chính của mô hình.
2.5 Phân tích và xử lí số liệu
Trong quá trình thực hiện, tất cả các dẫn liệu được thu thập, phân tích và
so sánh kết quả dựa vào phần mềm Excel.
3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Một số yếu tố môi trƣờng trong ruộng nuôi thực nghiệm
Nhiệt độ ở các ruộng nuôi thực nghiệm thấp nhất vào buổi sáng là 28 oC và
cao nhất vào buổi chiều là 32oC, nhiệt độ trung bình dao động từ 28,1 ± 1,17 31,5 ± 0,89°C, do mặt nước trên trảng ở các ruộng lúa vùng Vĩnh Lợi, Bạc Liêu
thấp (15 – 35 cm) nên những ngày không mưa nhiệt độ rất cao trên trảng và hệ
4
thống mương bao chưa được thiết kế hoàn thiện nên không làm nơi trú ngụ được
cho cá. Thông thường khi sự thay đổi đột ngột nhiệt độ khoảng 3 - 4oC sẽ gây sốc
hoặc làm chết cá (Trương Quốc Phú, 2006). Dao động pH giữa các ruộng trong
suốt quá trình nuôi ít thay đổi và nằm trong khoảng thích hợp (từ 7,5 đến 8,5) và
cũng như nhiệt độ, pH cũng có sự chênh lệch lớn giữa ngày và đêm, giữa đầu vụ
và cuối vụ, cụ thể pH cao nhất ở tháng nuôi thứ 7 và thấp nhất ở tháng nuôi thứ
3. Hàm lượng NH4+ trung bình của các ruộng nuôi dao động từ 0,56 0,39 –
0,89 0,60 mg/L và hàm lượng P-PO43- trung bình từ 0,24 0,07 – 0,29 0,05
mg/L, Trong đó hàm lượng oxy trong suốt thời gian nuôi thực nghiệm ổn định và
lớn hơn 4 mg/L (Bảng 2).
Bảng 2. Sự biến động các yếu tố môi trƣờng trong thời gian nuôi thực
nghiệm
Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
Nhiệt độ(oC)
Oxy (mg/L)
28,1±1,17
28,7±1,20
28,5±1,47
29,2±1,25
30,2±1,52
31,5±0,89
30,8±0,85
31,0±0,91
4,22±0,71
4,56±0,77
4,78±0,57
4,28±0,91
4,50±0,56
4,78±0,26
4,89±0,89
4,83±0,87
pH
NH4+ (mg/L)
7,7±0,11
7,9±0,30
7,5±0,15
7,7±0,21
8,1±0,14
8,0±0,14
8,5±0,31
8,1±0,09
0,72±0,44
0,89±0,49
0,89±0,60
0,72±0,44
0,83±0,56
0,67±0,50
0,56±0,39
0,83±0,50
P-PO43- (mg/L)
0,26±0,08
0,24±0,07
0,25±0,07
0,28±0,06
0,28±0,05
0,29±0,05
0,24±0,06
0,27±0,03
Ghi chú: Giá trị là số trung bình ± độ lệch chuẩn.
Theo Trương Quốc Phú (2006) thì pH thích hợp trong ao nuôi từ 6 - 9,
nhiệt độ trung bình 28 - 30°C, hàm lượng oxy từ 3 – 6 mg/L, NH4+ từ 0,2 - 2
mg/L và P-PO43- từ 0,005 – 0,2 mg/L, nhìn chung thì các yếu tố môi trường trong
quá trình nuôi thực nghiệm này đều nằm trong khoảng thích hợp, riêng nhiệt độ
trong các ruộng thực nghiệm cao hơn mức cho phép cho sự phát triển tối ưu của
cá.
3.2 Tăng trƣởng của cá sặc rằn trong các ruộng nuôi
Tăng trƣởng cá nuôi ở các ruộng thực nghiệm
Qua bảng 3 cho thấy cá trong các ruộng nuôi thực nghiệm sau 8 tháng
nuôi có tốc độ tăng trưởng chậm, khối lượng trung bình của cá nuôi đạt từ 55,49 79,67 g/con chưa đạt kích cỡ thương phẩm (120 – 140 g/con). Trong đó khối
lượng cá lớn nhất ở ruộng 9 là 79,67±3,37g, nhỏ nhất là ở ruộng 1 là
55,493,55g (Bảng 3).
5
Bảng 3. Khối lƣợng trung bình của cá ở các ruộng thực nghiệm
Ruộng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Chỉ tiêu
W (g)
DWG (g/ngày)
SGR (%/ngày)
W (g)
DWG (g/ngày)
SGR (%/ngày)
W (g)
DWG (g/ngày)
SGR (%/ngày)
W (g)
DWG (g/ngày)
SGR (%/ngày)
W (g)
DWG (g/ngày)
SGR (%/ngày)
W (g)
DWG (g/ngày)
SGR (%/ngày)
W (g)
DWG (g/ngày)
SGR (%/ngày)
W (g)
DWG (g/ngày)
SGR (%/ngày)
W (g)
DWG (g/ngày)
SGR (%/ngày)
W (g)
DWG (g/ngày)
30 ngày
6,78±1,42
0,135
3,02
8,09±1,06
0,174
3,46
9,07±1,57
0,209
3,91
7,09±1,19
0,242
2,16
7,79 ±1,35
0,165
3,37
9,49±1,19
0,222
4,04
7,07±1,35
0,144
3,14
7,09±1,23
0,142
3,08
9,30 ± 1,30
0,217
4,01
6,78±1,42
0,135
60 ngày
12,77±1,79
0,200
2,11
15,69±1,28
0,253
2,21
17,35±1,33
0,276
2,16
14,33±2,13
0,242
2,35
15,50±2,14
0,257
2,29
18,32±2,17
0,294
2,19
14,22±2,24
0,238
2,33
18,11±2,20
0,368
3,13
16,92±1,38
0,254
2,00
12,77±1,79
0,200
120 ngày
30,64±3,21
0,332
1,31
32,24±3,23
0,318
0,17
35,07±2,55
0,315
1,05
32,09±2,47
0,307
1,13
35,49±2,18
0,341
1,14
38,40±1,55
0,381
1,18
35,77±2,38
0,395
1,34
41,05±2,24
0,444
1,31
38,86±2,33
0,435
1,36
30,64±3,21
0,332
180 ngày
46,40±3,45
0,291
0,7
44,59±2,68
0,266
0,74
50,70±3,02
0,268
0,58
52,23±2,41
0,399
0,87
52,04±3,04
0,311
0,66
38,40±1,55
0,381
1,18
35,77±2,38
0,395
1,34
41,05±2,24
0,444
1,31
38,86±2,33
0,435
1,36
30,64±3,21
0,332
240 ngày
55,49 ± 3,55
0,062
0,11
60,84±3,75
0,236
0,41
63,72±2,99
0,125
0,2
69,59±3,60
0,286
0,44
71,05±3,16
0,327
0,49
73,44±2,44
0,187
0,27
75,74±4,20
0,224
0,31
78,60±3,41
0,274
0,37
79,67±3,37
0,27
0,36
56,74±2,81
0,104
SGR (%/ngày)
3,02
2,11
1,31
1,31
0,19
Ghi chú: Giá trị là số trung bình ± độ lệch chuẩn.
So với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Hà (2009) có khối lượng
trung bình của cá sặc rằn khi thu hoạch dao động từ 86,5 – 92,2 g/con và có tốc
độ tăng trưởng từ 0,47 – 0,50 g/ngày và so với kết quả nghiên cứu của Phạm
Trường Lâm (2013) có khối lượng trung bình cá sặc rằn từ 76,6 – 86,9 và có tốc
độ tăng trưởng từ 0,338–0,404 g/ngày thì khối lượng trung bình và tốc độ tăng
trưởng của các ruộng nuôi thực nghiệm thấp hơn. Nhưng so với kết quả nghiên
cứu của Lý Trường Sơn (2011) có khối lượng trung bình của cá sặc rằn 56 – 59
g/con và có tốc độ tăng trưởng là 0,224 – 0,236 thì kết quả tăng trưởng khối
lượng của các ruộng nuôi từ 0,286 - 0,327 g/ngày là cao hơn, Và so với kết quả
nghiên cứu của Nguyễn Thanh Hiệu (2010) trong mô hình lúa cá kết hợp có thả
10% tỉ lệ cá sặc rằn có khối lượng trung bình từ 55,2 – 58,2 g/con và có tốc độ
tăng trưởng 0,29 – 0,31 g/ngày là phù hợp. Tăng trưởng khối lượng của cá nuôi
trong mô hình kết hợp chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như mật độ nuôi, thức ăn,
6
chất lượng nước và mùa vụ nuôi. Trong đó, môi trường, kích cỡ cá giống, mật độ
nuôi, thức ăn, là những yếu tố ảnh hưởng đến khối lượng của cá nuôi khi thu
hoạch.
Tỷ lệ sống và năng suất cá các ruộng nuôi
Tỉ lệ sống trung bình của cá sặc rằn trong quá trình nuôi thực nghiệm là 41
± 4%, cao nhất ở ruộng 3 là 47% và thấp nhất ở ruộng 9 là 35% (Bảng 4). So với
kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Hà (2009) và của Lý Trường Sơn
(2011) lần lượt là 56 – 61% và 43 – 66% thì kết quả về tỉ lệ sống của cá nuôi
thực nghiệm lần này là thấp hơn. Nhưng so với kết quả nghiên cứu của Nguyễn
Thanh Hiệu (2010) trong mô hình lúa cá kết hợp có thả 10% tỉ lệ cá sặc rằn có tỉ
lệ sống của cá sặc rằn dao động 29,7 – 34,3% thì kết quả tỉ lệ sống trong các
ruộng nuôi thực nghiệm từ 30 – 46% là cao hơn do không có sự cạnh tranh về
thức ăn giữa các loài với nhau và mật độ nuôi thấp 2 con/m2. Nguyên nhân tỷ lệ
sống thấp là do mực nước trên trảng thấp nên nhiệt độ nước cao chênh lệch lớn
giữa ngày và đêm, giữa những ngày mưa và những ngày không mưa và do cách
chăm sóc, quản lý của từng nông hộ khác nhau.
Bảng 4. Tỉ lệ sống và năng suất cá các ruộng nuôi
Chỉ tiêu
Ruộng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Trung bình
Tỉ lệ sống (%)
45
38
47
40
36
42
41
38
35
46
414
Năng suất (kg/ha)
599
462
479
668
460
555
683
538
558
418
54289
Ghi chú: Giá trị là số trung bình ± độ lệch chuẩn.
Năng suất cá nuôi ở các ruộng thực nghiệm dao động 418 – 683 kg/ha,
cao nhất là ở ruộng 7 và thấp nhất là ở ruộng 10. Năng suất trung bình ở các
ruộng nuôi đạt 542 89 kg/ha. Năng suất cá nuôi thực nghiệm này so với kết quả
nghiên cứu của Nguyễn Thanh Hiệu (2010) năng suất mô hình cá lúa 836 – 1,036
kg/ha, so với kết quả nghiên cứu của Phạm Trường Lâm (2013) năng suất cá sặc
rằn nuôi xen canh trong ruộng lúa sau 9 tháng nuôi từ 720 – 1,310 kg/ha thì năng
suất cá sặc rằn trong các ruộng nuôi thực nghiệm là thấp hơn và so với kết quả
điều tra của Nguyễn Thị Thanh Nga (2007) năng suất cá sặc rằn từ 640 – 700
7
kg/ha thì kết quả thực nghiệm lần này là phù hơp. Năng suất cá nuôi ảnh hưởng
bởi tỉ lệ sống, mật độ nuôi và khối lượng của cá khi thu hoạch, đặc biệt hơn là
trong mô hình lúa – cá kết hợp. Nguyên nhân chính dẫn đến năng suất chưa cao
là do tỉ lệ sống cá nuôi trong quá trình nuôi thực nghiệm còn thấp, kích cỡ thu
hoạch còn nhỏ, tỉ lệ sống của cá nuôi quyết định đến năng suất của cá khi thu
hoạch, tỷ lệ sống thấp dẫn đến năng suất thấp. Điều này cho thấy vai trò của việc
thiết kế, xây dựng và quản lý hệ thống ruộng nuôi thì rất quan trọng nó ảnh
hưởng trực tiếp đến tỉ lệ sống, năng suất và hiệu quả kinh tế của mô hình.
3.3 Hiệu quả lợi nhuận của mô hình
Kết quả thực nghiệm cho thấy với tổng chi phí đầu tư ở từng ruộng nuôi
cho lúa trung bình 26,987 2,752 triệu đồng/ha, tổng thu trung bình là 49,150
5,982 triệu đồng/ha, lợi nhuận trung bình 22,163 3,502 triệu đồng/ha. Tỉ suất
lợi nhuận trung bình ở các ruộng là 827,35%. Sản phẩm thu hoạch với giá bán
lúa dao động ở 5,500 đồng/kg thì lợi nhuận cao nhất là là ruộng 7 đạt 29,390
triệu đồng/ha với tỉ suất lợi nhuận là 94,47%, thấp nhất là ở ruộng 3 lợi nhuận đạt
18,220 triệu đồng/ha với tỉ suất lợi nhuận là 70,67% (Bảng 5).
Bảng 5. Hiệu quả tài chính từ các ruộng nuôi (đơn vị 1.000 đồng/ha)
Ruộng
Tổng chi (ha)
Tổng thu (ha)
Lợi nhuận (ha)
Tỉ suất lợi nhuận (%)
Lúa
Cá
Lúa
Cá
Lúa
Cá
Lúa
Cá
1
28.520
12.380
53.600
20.975
25.080
8.595
87,94
69,43
2
28.900
9.940
53.000
16.183
24.100
6.243
83,39
62,81
3
25.780
9.764
44.00
16.771
18.220
7.007
70,67
71,76
4
29.820
14.120
52.400
23.382
22.580
9.262
75,72
65,59
5
27.190
9.533
50.000
16.114
22.810
6.581
83,89
69,04
6
23.380
13.505
41.600
19.432
18.220
5.927
77,93
43,89
7
31.110
13.671
60.500
23.911
29.390
10.24
94,47
74,90
8
26.990
10.890
46.800
18.817
19.810
7.927
73,40
72,79
9
25.800
11.840
48.000
19.519
22.200
7.679
86,05
64,86
10
22.380
8.980
41.600
14.616
19.220
5.636
85,88
62,76
Trung bình
26.987
11.4623
49.150
18.972
22.163
7.5097
82±7,35
65,78±9
Ghi chú: Giá trị là số trung bình ± độ lệch chuẩn.
So với nghiên cứu của Nguyễn Thanh Hiệu (2010) đánh giá sự tăng
trưởng của cá chép (Cyprinus carpio Linaeus, 1758) nuôi trong mô hình lúa - cá
kết hợp với tổng chi phí đầu tư cho lúa từ 29 - 32 triệu đồng/ha và tỉ suất lợi
nhuận từ lúa dao động từ 18 - 25% và so với kết quả Phạm Trường Lâm (2013)
thực nghiệm nuôi cá sặc rằn xen canh trong ruộng lúa ở huyện Hồng Dân, tỉnh
Bạc Liêu thì tổng chi phí đầu tư cho lúa từ 25 - 30 triệu đồng/ha và tỉ suất lợi
nhuận từ lúa mang lại từ 39 - 75% thì kết quả thực nghiệm lần này cao hơn.
8
Qua bảng 5 cho thấy kết quả chi phí đầu tư cho cá trung bình ở mỗi ruộng
nuôi là 11,455 ± 1,897 triệu đồng/ha/vụ, trong đó chi phí đầu tư trung bình cho
việc cải tạo ao là 970 ± 157 ngàn đồng/ha/vụ, cá giống là 3,629 ± 1,620 triệu
đồng/ha/vụ, thức ăn bổ sung là 5,310 ± 2,019 triệu đồng/ha/vụ và chi phí thu
hoạch cá là 1,540 ± 0,165 triệu đồng/ha/vụ. Với giá bán cá là 35,000 đồng/kg
trung bình tổng thu ở từng ruộng là 18,972 ± 3,130 triệu đồng/ha/vụ, lợi nhuận
trung bình ở mổi ruộng là 7,510 ± 1,1514 triệu đồng/ha/vụ và tỉ suất lợi nhuận
trung bình là 65,78 ± 9%. Kết quả thực nghiệm lần này thấp hơn so với kết quả
nghiên cứu của Phạm Trường Lâm (2013) trong thực nghiệm nuôi ghép cá sặc
rằn trong ruộng lúa ở Hồng Dân, Bạc Liêu có chi phí đầu tư trung bình là 19,710
triệu đồng/ha/vụ và trung bình tỉ suất lợi nhuận từ cá là 102%, kết quả nghiên
cứu của Nguyễn Thanh Hiệu (2010) trong mô hình cá lúa kết hợp có thả ghép
10% cá sặc rằn có chi phí đầu tư trung bình là 7,530 triệu đồng/ha/vụ và tỉ suất
lợi nhuận trung bình từ cá là 109%. Giải thích tỉ suất lợi nhuận từ cá của mô hình
nuôi thấp là do tỉ lệ sống của cá nuôi trong cá ruộng nuôi thực nghiệm thấp, khối
lượng trung bình của cá khi thu hoạch nhỏ, năng suất thấp, chênh lệch giá bán
sản phẩm thấp và lợi nhuận thu được từ mô hình từ cá thấp.
Bảng 6. Hiệu quả tài chính của mô hình lúa-cá kết hợp (đơn vị 1.000 đồng/ha)
Ruộng
Tổng chi (ha)
Tổng thu (ha)
Lợi nhuận (ha)
Tỉ suất lợi nhuận (%)
1
40.900
74.575
33.675
82,34
2
38.840
69.183
30.343
78,12
3
35.544
60.771
25.227
70,97
4
43.940
75.782
31.842
72,47
5
36.723
66.114
29.391
80,03
6
36.885
61.032
24.147
65,47
7
44.781
84.411
39.630
88,50
8
37.880
65.617
27.737
73,22
9
10
Trung bình
37.640
31.360
38.449±3.965
67.519
56.216
68.122±8.323
29.879
24.856
29.673±4.687
79,38
79,26
76,98±6,55
Ghi chú: Giá trị là số trung bình ± độ lệch chuẩn.
Lợi nhuận từ ruộng 7 là cao nhất đạt 39,630 triệu đồng/ha/vụ với tỉ suất
lợi nhuận đạt 88,50%, lợi nhuận thấp nhất ở ruộng 6 đạt 24,147 triệu đồng/ha/vụ
với tỉ suất lợi nhuận 65,47%, trung bình lợi nhuận từ các ruộng nuôi là
29,673±4,678 triệu đồng/ha/vụ (Bảng 7). Kết quả thực nghiệm thực nghiệm này
đạt lợi nhuận cao hơn so với kết quả điều tra của Nguyễn Thị Thanh Nga (2007)
lợi nhuận là 24,1 triệu đồng/ha với tỉ suất lợi nhuận là 27%, nghiên cứu của
Nguyễn Thanh Hiệu (2010) lợi nhuận 11,9 – 16,4 triệu đồng/ha với tỉ suất lợi
9
nhuận dao động từ 29,4 – 39,9% và thấp hơn so với nghiên cứu của Phạm
Trường Lâm (2013) lợi nhuận 28,02 – 44,22 triệu đồng/ha với tỉ suất lợi nhuận
dao động từ 66,9 – 84,4%.
Giải thích về kết quả phân tích lợi nhuận từ các ruộng nuôi thực nghiệm
cho thấy bên cạnh giá bản sản phẩm ở địa điểm thực nghiệm khác nhau thì tỉ lệ
sống, chất lượng sản phẩm, năng suất cá, khối lượng cá thu hoạch ảnh hưởng rất
lớn đến lợi nhuận của cả mô hình. Qua thực nghiệm cho thấy lợi nhuận từ việc
kết hợp nuôi cá sặc rằn trên cùng một diện tích trồng lúa, lợi nhuận tăng thêm
trung bình 34%. Từ những thực nghiệm trên cho thấy cá sặc rằn là đối tượng
thích hợp mô hình lúa – cá và có thể áp dụng vào nhiều khu vực khác nhằm cải
thiện kinh tế và tăng thu nhập cho nông dân.
4 KẾT LUẬN
Cá sặc rằn nuôi xen canh trong ruộng lúa có tốc độ tăng trưởng sau 8
tháng nuôi cá đạt khối lượng trung bình dao động từ 55,49 3,55 – 79,67 ± 3,37
g/con, vẫn chưa đạt kích cỡ thương phẩm. Tỉ lệ sống của cá nuôi trong quá trình
nuôi thực nghiệm thấp 35 – 47%, trung bình tỉ lệ sống là 41 ± 4%. Lợi nhuận
mang lại từ mô hình dao động từ 24,147 – 39,630 triệu đồng/ha/vụ, trung bình lợi
nhuận là 29,673 ± 4,687 triệu đồng/ha/vụ và tỷ suất lợi nhuận dao động từ 65,47 –
88,50% trung bình tỉ suất lợi nhuận là 76,98 ± 6,55%.
5 LỜI CẢM TẠ
Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn tới Ts. Lam Mỹ Lan, Ths. Nguyễn
Thanh Hiệu cùng các thầy cô Khoa Thủy sản đã tạo điều kiện, hỗ trợ vật tư thiết
bị cho đề tài này được thực hiện, trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu khoa học
trong sinh viên. Cảm ơn Trường Đại học Cần Thơ đã tạo điều kiện thuận lợi và
hỗ trợ kinh phí cho đề tài. Cảm ơn đến các hộ dân trong đề tài ở huyện Vĩnh Lợi,
tỉnh Bạc Liêu đã cùng tôi tham gia nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Dương Nhựt Long, 2003. Kỹ thuật nuôi cá Nước Ngọt, Khoa Thuỷ Sản, Trường
Đại Học Cần Thơ.
Lý Trường Sơn, 2011. Thực nghiệm ương và nuôi cá sặc rằn tại huyện Hồng
Dân, tỉnh Bạc Liêu. Luận văn tốt nghiệp đại học, Khoa Thủy sản, Trường Đại
Học Cần Thơ. Số trang: 45.
Nguyễn Thanh Hiệu, 2010. Đánh giá sự tăng trưởng, tỉ lệ sống và năng suất cá
chép (Cyprinus carpio Linaeus, 1758) nuôi trong mô hình lúa - cá kết hợp.
Luận văn tốt nghiệp cao học, Khoa Thủy Sản, Trường Đại Học Cần Thơ. Số
trang: 74.
10
Nguyễn Thị Ngọc Hà, 2009. Khảo sát hiện trạng và thực nghiệm nuôi chuyên
canh cá sặc rằn (Trichogaster pectoralis, Regan 1910). Luận văn tốt nghiệp
cao học, Khoa Thủy Sản, Trường Đại Học Cần Thơ. Số trang: 72.
Nguyễn Thị Thanh Nga, 2007. Khía cạnh kỹ thuật và hiệu quả kinh tế các mô
hình canh tác Lúa - cá và lúa độc canh ở vùng dự án thủy lợi Ô môn - Xà No.
Luận án thạc sĩ khoa học ngành nuôi trồng Thuỷ sản.
Phạm Trường Lâm, 2013, Thực nghiệm nuôi cá sặc rằn (Trichogaster pectoralis
Regan, 1909) xen canh trong ruộng lúa tại huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu.
Luận văn tốt nghiệp đại học, Khoa Thủy sản, Trường Đại Học Cần Thơ. Số
trang: 49.
Trương Quốc Phú, 2006. Giáo Trình Quản Lý Chất Lượng Nước Nuôi Trồng
Thủy Sản, Bộ môn Thủy Sinh Học Ứng Dụng – ĐHCT. Số trang: 201.
11