Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức từ thực tiễn tỉnh thái bình...

Tài liệu Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức từ thực tiễn tỉnh thái bình

.PDF
80
407
123

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN HỒ KHÁNH LY THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHỨC TỪ THỰC TIỄN TỈNH THÁI BÌNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và luật Hành chính Mã số : 60. 38. 01. 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN THỊ VIỆT HƢƠNG HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài “Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức từ thực tiễn tỉnh Thái Bình” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn NGUYỄN HỒ KHÁNH LY DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Biểu 2.1. Tỉ lệ độ tuổi viên chức tỉnh Thái Bình tính đến 31/12/2016 Biểu 2.2. Tỉ lệ trình độ chuyên môn viên chức tỉnh Thái Bình tính đến 31/12/2016 Biểu 2.3. Tổng số chỉ tiêu đề nghị tuyển dụng viên chức tỉnh Thái Bình từ năm 2012 đến năm 2016 MỤC LỤC MỞ ĐẦU………………………………………………………………...……1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆNPHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHỨC ................................... 6 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức 6 1.2. Nội dung và hình thức thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ........... 15 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức.... 27 Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNGVIÊN CHỨC TẠI TỈNH THÁI BÌNH................................................ 32 2.1. Một số yếu tố đặc thù của tỉnh Thái Bình ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức .......................................................................... 32 2.2. Cơ sở pháp lý thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức tại tỉnh Thái Bình ................................................................................................................. 38 2.3. Thực tiễn thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức tại tỉnh Thái Bình . 41 2.4. Đánh giá chung thực trạng thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức tại tỉnh Thái Bình............................................................................................. 53 Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHỨC TỪ THỰC TIỄN TỈNH THÁI BÌNH .......................................................................................... 58 3.1. Quan điểm bảo đảm hiệu quả thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức từ thực tiễn tỉnh Thái Bình ..................................................................... 58 3.2. Giải pháp bảo đảm hiệu quả thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức từ thực tiễn tỉnh Thái Bình .............................................................................. 62 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 70 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 72 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã trải qua hơn 30 năm kể từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm 1986 của Đảng đã được nhiều thành công quan trọng. Bên cạnh những mục tiêu, nhiệm vụ đã được đặt ra, một trong những trọng tâm được nêu trong Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII là: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc...”,“xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, trách nhiệm, năng lực và động cơ đúng đắn, thực sự tiên phong, gương mẫu, luôn đặt lợi ích của tập thể, quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, thực sự là cán bộ của dân, phục vụ nhân dân”, “Đẩy mạnh xã hội hóa, tách cung ứng dịch vụ công về quản lý sản xuất kinh doanh ra khỏi chức năng quản lý nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước;...” [7]. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, sự hội nhập quốc tế cùng với quá trình xã hội hóa các dịch vụ công của viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập ngày càng được khẳng định và đòi hỏi nâng cao. Năng lực và hiệu quả làm việc của đội ngũ viên chức ngày càng được Đảng, Nhà nước và xã hội đặc biệt quan tâm. Viên chức là một đội ngũ hoạt động nghề nghiệp lớn ở nước ta hiện nay. Việc lựa chọn đội ngũ viên chức có năng lực tốt, phẩm chất đạo đức tốt, đáp ứng được các yêu cầu của vị trí việc làm và nhu cầu của xã hội là một tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế và xã hội. Luật Viên chức được ban hành vào ngày 15 tháng 11 năm 2010 và chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2012 là một mốc quan trọng đánh dấu một bước tiến mới về sự điều chỉnh của pháp luật đối với đội ngũ viên chức. Luật Viên chức ra đời đã tạo nên một hành lang pháp lý mới, cụ thể hơn trong việc phân định, quản lý và sử dụng viên chức, đã và đang tác động mạnh mẽ đến đội ngũ viên chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp ở nước ta hiện nay. 1 Việc thực hiện Luật Viên chức và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan trong những năm qua đã tạo nên sự thống nhất, đồng thuận và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Trước hết, luật đã xây dựng được khái niệm viên chức hoàn chỉnh, phân biệt với cán bộ, công chức một cách rõ ràng. Từ đó xây dựng hệ thống các quy định về thẩm quyền quản lý, sử dụng viên chức, các quyền và nghĩa vụ của viên chức, các chế độ chính sách,... đã được quy định cụ thể và áp dụng một cách hiệu quả. Chất lượng viên chức được nâng cao, phẩm chất đạo đức, phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn được đề cao rõ rệt. Để có được kết quả trên, một phần quan trọng là do pháp luật về tuyển dụng viên chức đã được quy định cụ thể, chặt chẽ hơn, không còn việc bị đồng hóa với việc tuyển dụng công chức. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức dần xuất hiện không ít những hạn chế, gây nên sự chồng chéo và khó khăn trong công tác tuyển dụng của các cơ quan, đơn vị có thẩm quyền tuyển dụng viên chức và cho các thí sinh tham gia tuyển dụng. Việc này đã gây nên những tác động tiêu cực, ảnh hướng đến nhiều cơ quan, đơn vị, tạo nên sự băn khoăn, lo lắng trong nhân dân. Vì vậy, cần có nhiều hơn những nghiên cứu khoa học, làm cơ sở cho việc nâng cao chất lượng hiệu quả của hoạt động tuyển dụng viên chức. Với những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức từ thực tiễn tỉnh Thái Bình” làm đề tài luận văn Cao học Luật là đáp ứng nhu cầu thực tiễn đang đặt ra hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây, ở Việt Nam, việc nghiên cứu về pháp luật viên chức nói chung và việc tuyển dụng viên chức nói riêng đã được nhiều tác giả quan tâm và đã có nhiều công trình khoa học được công bố. Có thể kể đến một số công trình như: -Bộ Nội vụ (2016), “Điều tra, đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp xây dựng và phát triển đội ngũ viên chức khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta”; - PGS.TS Nguyễn Minh Đoan (2010), Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội; 2 - Lê Minh Hương (2012), “Một số vấn đề về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức theo Nghị định số 29/2012/NĐ-CP của Chính phủ”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước số 5; - Hoàng Minh Tuấn (2016), “Đổi mới chính sách tuyển dụng viên chức trong các đơn vị sự nghiệp thuộc Trung ương Đoàn”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 5; - Nguyễn Huy Hoàng (2011), “Tuyển dụng viên chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập ở nước ta hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ; - Nguyễn Ngọc Bích (2016), “Pháp luật về tuyển dụng viên chức ở nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp”, Luận văn Thạc sĩ; .v.v.. Các công trình nghiên cứu khoa học trên chủ yếu đề cập đến nội dung viên chức và pháp luật về tuyển dụng viên chức nói chung. Các công trình nghiên cứu khoa học nêu trên là một nguồn tài liệu quý báu để tác giả học hỏi, tham khảo để hoàn thiện đề tài tác giả đã lựa chọn. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về thực hiện pháp luật tuyển dụng viên chức một cách hệ thống, đầy đủ. Với mong muốn nghiên cứu một cách tổng quát về thực hiện pháp luật tuyển dụng viên chức và thực tiễn thực hiện pháp luật ở tỉnh Thái Bình hiện nay, luận văn hy vọng là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích đối với những người nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu 3.1. Mục đích của luận văn Luận văn có mục đích tổng quát là xây dựng luận cứ khoa học cho việc đề xuất các giải pháp bảo đảm hiệu quả thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức tại tỉnh Thái Bình nói riêng, trên phạm vi cả nước nói chung. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn - Hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm những khía cạnh lý luận cơ bản về thực hiện pháp luật tuyển dụng viên chức. - Mô tả, đánh giá thực tiễn tuyển dụng viên chức tại tỉnh Thái Bình. Xác định ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân dẫn tới những ưu điểm, hạn chế đó. 3 - Chỉ ra một số bài học kinh nghiệm từ thực tiễn tỉnh Thái Bình; từ đó đưa ra những giải pháp nhằm bảo đảm hiệu quả thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ở tỉnh Thái Bình nói riêng, ở Việt Nam nói chung. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Các quan điểm khoa học về tuyển dụng viên chức, điều chỉnh pháp luật và thực hiện pháp luật về viên chức; - Các quy định pháp luật về tuyển dụng viên chức; - Thực tiễn thực hiện pháp luật tuyển dụng viên chức tại tỉnh Thái Bình. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức đối với các viên chức thuộc các cơ quan chuyên môn và các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện; - Phạm vi không gian: Viên chức trong các cơ quan chuyên môn và các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện trong phạm vi tỉnh Thái Bình; - Phạm vi thời gian: từ khi Luật Viên chức có hiệu lực thi hành vào ngày 01 tháng 01 năm 2012 đến nay. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn thực hiện trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của học thuyết Mac-Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; những quan điểm, đường lối, Nghị quyết, chỉ thị của Đảng về viên chức. Luận văn cũng vận dụng một số học thuyết phổ biến trong quá trình nghiên cứu về tổ chức quyền lực nhà nước như: học thuyết nhà nước pháp quyền, học thuyết về phân chia quyền lực. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích: được áp dụng chủ yếu trong Chương 1 Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên 4 chức, chương 3 - Quan điểm và giải pháp bảo đảm hiệu quả thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức từ thực tiễn tỉnh Thái Bình. - Phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh: được áp dụng chủ yếu trong chương 2- Thực trạng thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức tại tỉnh Thái Bình, ... Ngoài ra, luận văn còn áp dụng phương pháp tiếp cận đa ngành, liên ngành và một số phương pháp thông dụng trong nghiên cứu lĩnh vực khoa học xã hội như: phương pháp lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp xã hội học… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ở nước ta hiện nay. Luận văn là công trình nghiên cứu một cách tổng thể, đánh giá khái quát về cả phương diện lý luận, pháp luật và thực tiễn kể từ khi Luật Viên chức có hiệu lực thi hành. Đồng thời chỉ rõ những kết quả đạt được cũng như những hạn chế, khó khăn trong quá trình thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức. Từ đó đưa ra các quan điểm, giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ở nước ta nói chung và của tỉnh Thái Bình nói riêng. Kết quả nghiên cứu luận văn góp phần nâng cao nhận thức, cung cấp thêm cơ sở lý luận và là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích đối với những người làm công tác nghiên cứu, công tác giảng dạy, cũng như làm công tác tổ chức, tuyển dụng viên chức. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, phần Nội dung của luận văn gồm 03 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức Chương 2. Thực trạng thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức tại tỉnh Thái Bình Chương 3. Quan điểm và giải pháp bảo đảm hiệu quả thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức từ thực tiễn tỉnh Thái Bình. 5 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHỨC 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức 1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức 1.1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật Pháp luật là một công cụ quan trọng nhất để nhà nước điều chỉnh các quan hệ xã hội, củng cố và phát triển các quan hệ xã hội, đảm bảo lợi ích của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Việc ban hành pháp luật không phải chỉ chú trọng về số lượng, mà cần tập trung vào chất lượng, tức là pháp luật được ban hành phải được thực hiện một cách nghiêm túc trong xã hội, mang lại hiệu quả như mục đích đã đặt ra khi xây dựng pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ đó. Do vậy, việc xây dựng và thực hiện pháp luật là hai hoạt động luôn song hành cùng nhau. Hiện nay, ở nước ta có nhiều quan điểm khác nhau về thực hiện pháp luật: Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Thực hiện pháp luật là hiện tượng, quá trình có mục đích làm cho những những quy định của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật”[14,tr.349]. Theo quan điểm này thì tất cả những xử sự phù hợp với các yêu cầu của các quy phạm pháp luật đều được coi là sự thực hiện pháp luật. Đó là các xử sự (hành động hay không hành động) của các cá nhân, tổ chức phù hợp với các quy định của pháp luật, phù hợp với lợi ích của xã hội, nhà nước và công dân. Từ một góc nhìn khác, PGS.TS Nguyễn Minh Đoan quan niệm: “Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật”[9,tr.15]. Như vậy, thực hiện pháp luật là việc xác lập các hành vi hợp pháp, những hành vi không trái với pháp luật, nằm trong giới hạn quy định của pháp luật của các cá nhân, tổ chức trong xã hội. 6 Theo tư tưởng về thực hiện pháp luật của môn học Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Viện Nhà nước và Pháp luật - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng: “Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật”[32,tr.270]. Mặc dù có những khác biệt nhất định nhưng nhìn chung, các quan điểm trên đều đồng nhất cho rằng thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích, làm cho các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành có ý nghĩa thực tế, đi vào đời sống xã hội, tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần cho con người và xã hội. Tất cả những xử sự được tiến hành phù hợp với quy định của các quy phạm pháp luật trên thực tế đều được coi là sự thực hiện các quy phạm pháp luật đó. Tóm lại, thực hiện pháp luật là hành vi (hành động hay không hành động) có mục đích của cá nhân, tổ chức nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật làm cho chúng đi vào đời sống, trở thành hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật. 1.1.1.2. Khái niệm viên chức Theo nhiều quan điểm cho rằng “viên chức” được dùng để chỉ những người làm việc trong các cơ quan, tổ chức công hoặc tư, được hưởng lương theo ngạch, bậc, trình độ và chức vụ. Cách hiểu như vậy bao trùm lên cả những cán bộ, công chức, hợp đồng lao động đang làm việc trong bộ máy công quyền, trong các cơ quan, tổ chức nhà nước. Ở Việt Nam, khái niệm viên chức được thay đổi và hoàn thiện theo từng thời kỳ. Trong Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì không đưa ra khái niệm viên chức, mà chỉ sử dụng thuật ngữ “công chức” để gọi những “công dân Việt Nam được Chính quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong cơ quan Chính phủ, ở trong hay ngoài nước đều là công chức theo quy chế này, trừ trường hợp riêng do Chính phủ quy định” (Điều 1 Sắc lệnh số 76/SL). Đến đầu những năm 60 đến 80 của thế 7 kỷ XX, nước ta thường sử dụng cụm từ “cán bộ, công nhân viên chức nhà nước” để chỉ tất cả những người làm việc trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp[24,tr.23]. Tại Hiến pháp năm 1980, 1992 thuật ngữ “cán bộ, viên chức nhà nước” đã được sử dụng. Pháp lệnh cán bộ công chức 1998, Pháp lệnh Cán bộ công chức sửa đổi, bổ sung 2003 và các văn bản hướng dẫn có thể thấy khái niệm viên chức dần được hình thành một cách rõ nét hơn và được khái quát như sau: “Viên chức là công dân Việt Nam, trong biên chế, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các nguồn thu sự nghiệp theo quy định của pháp luật.” (Điều 2, Nghị định số 116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp Nhà nước). Đến Luật Viên chức năm 2010 được Quốc hội khóa XII ban hành thì khái niệm viên chức đã được nghiên cứu, xây dựng một cách riêng biệt, cụ thể và toàn diện. Theo đó, tại Điều 2 Luật Viên chức thì“Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại các đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.” Như vậy, viên chức là công dân Việt Nam, làm việc theo vị trí việc làm trong các đơn vị sự nghiệp công lập về các lĩnh vực (giáo dục và đào tạo, y tế, khoa học, văn hóa, thông tin, thể thao,...) theo chế độ hợp đồng làm việc, nhằm cung cấp dịch vụ công cơ bản, thiết yếu cho nhân dân và xã hội và phục vụ cho công tác quản lý nhà nước. 1.1.1.3. Tuyển dụng viên chức Hiểu một cách đơn giản và khái quát nhất thì “tuyển dụng” là việc lựa chọn để sử dụng người làm việc phù hợp với vị trí việc làm. Với cách hiểu như vậy, bất kỳ cơ quan, đơn vị, tổ chức nào có nhu cầu về nhân lực thì đều phải tiến hành hoạt động tuyển dụng. Tại Điều 3, Luật Viên chức đã nêu rõ 8 tuyển dụng là “việc lựa chọn người có phẩm chất, trình độ và năng lực vào làm viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập”. Như vậy, tuyển dụng là việc lựa chọn một thành viên mới đủ điều kiện, tiêu chuẩn, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ để trở thành viên chức. Tuyển dụng viên chức khác với tuyển dụng công chức. Do công chức là người đại diện cho nhà nước, thay nhà nước thực hiện quyền lực thông qua công vụ. Vì vậy, tuyển dụng công chức được tuân theo những điều kiện, phương thức chặt chẽ hơn. Tuyển dụng viên chức cũng có những khác biệt với tuyển dụng nhân lực trong các đơn vị, tổ chức ngoài công lập. Tuyển dụng nhân lực vào các đơn vị, tổ chức ngoài công lập chủ yếu tuân thủ theo Bộ luật Lao động và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, mà không nhất thiết phải theo quy định về tuyển dụng viên chức. Việc tuyển dụng viên chức được thực hiện theo Luật Viên chức và các văn bản khác có liên quan, đồng thời cũng phải phù hợp với quy định của pháp luật lao động, vì bản chất viên chức cũng là người lao động, làm việc cho đối tượng sử dụng lao động đặc biệt. Tuyển dụng viên chức là một hoạt động quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Hiện nay, các đơn vị, tổ chức ngoài công lập đang phát triển mạnh mẽ và đang dần chiếm ưu thế trong xã hội, thì việc tuyển dụng viên chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập càng cần được chú trọng và thực hiện nghiêm túc hơn nữa. 1.1.1.4. Pháp luật về tuyển dụng viên chức Xem xét ở nhiều góc độ, thì mối quan hệ trong tuyển dụng viên chức là mối quan hệ giữa chủ thể quản lý, sử dụng viên chức và người dự tuyển. Do tính tổ chức trong quản lý hành chính nhà nước cũng như trong các quan hệ lao động nên đòi hỏi những hành vi của các bên phải được đặt trong một khuôn khổ đã được quy định. Vì vậy, sự điều chỉnh của pháp luật trong hoạt động này là cần thiết. Pháp luật về tuyển dụng viên chức giữ một vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật về viên chức, là sự thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước về tuyển chọn, quản lý con người nhằm nâng cao chất lượng 9 đội ngũ viên chức [24,tr.21]. Hiện nay, về cơ bản, pháp luật về tuyển dụng viên chức đã được quy định chặt chẽ về thẩm quyền tuyển dụng, hình thức tuyển dụng, các bước thực hiện tuyển dụng việc ký hợp đồng lần đầu, chế độ tập sự,... Theo quy định của pháp luật hiện nay, việc tuyển dụng viên chức phải căn cứ vào nhu cầu công việc, vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và quỹ tiền lương của đơn vị sự nghiệp công lập. Tóm lại, có thể hiểu pháp luật về tuyển dụng viên chức là tổng thể các quy phạm pháp luật do chủ thể có thẩm quyền ban hành và được bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong quá trình lựa chọn người có đủ các điều kiện, tiêu chuẩn vào làm viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập. 1.1.1.5.Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức Như đã phân tích ở các nội dung trên, thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức là giai đoạn quan trọng thứ hai sau khi văn bản pháp luật được ban hành, là quá trình mang tính ý chí chủ quan của các chủ thể pháp luật trong tuyển dụng viên chức nhằm cụ thể hóa các quy phạm pháp luật về tuyển dụng viên chức. Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức là quyền và nghĩa vụ của mọi tổ chức, các nhân khi tham gia quan hệ về tuyển dụng viên chức. Có nhiều quy định pháp luật về tuyển dụng viên chức bắt buộc các chủ thể pháp luật phải tuân thủ, thi hành. Bên cạnh đó có những quy định của pháp luật về tuyển dụng viên chức, trong quyền hạn cho phép của pháp luật, các chủ thể có thể tự do thực hiện các hành vi của mình nhằm đạt được mục đích trong hoạt động tuyển dụng viên chức. Từ những nhận định trên có thể hiểu: Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức là hoạt động thực tiễn, có mục đích của các cá nhân, tổ chức làm cho các quy định pháp luật về tuyển dụng viên chức được đi vào đời sống, xã hội và trở thành hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật trong lĩnh vực tuyển dụng viên chức. 10 1.1.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức mang những đặc điểm cơ bản của thực hiện pháp luật nói chung và những đặc điểm riêng. Những đặc điểm chung cơ bản của thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức thể hiện như sau: Thứ nhất, thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức là giai đoạn quan trọng không thể thiếu của cơ chế điều chỉnh pháp luật nhằm đưa quy phạm pháp luật thực định về tuyển dụng viên chức vào đời sống thực tiễn. Pháp luật về tuyển dụng viên chức chỉ phát huy được giá trị và vai trò của mình chỉ khi nó được tôn trọng và được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ trong cuộc sống. Hoạt động thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức đưa kết quả của hoạt động xây dựng pháp luật viên chức vào thực tế và được các chủ thể khác nhau thực hiện một cách hợp pháp trong đời sống xã hội. Do vậy, xây dựng và ban hành pháp luật nhiều hay ít không quan trọng bằng việc tổ chức thực hiện pháp luật một cách chính xác, triệt để. Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức là một giai đoạn quan trọng để việc điều chỉnh các quan hệ trong tuyển dụng viên chức của Nhà nước nhằm đạt được hiệu quả như đã đặt ra. Bằng việc thực hiện các quy phạm pháp luật, các cá nhân,tổ chức tham gia hoạt động tuyển dụng viên chức đã đưa các quy phạm pháp luật về tuyển dụng viên chức vào đời sống, xã hội, tạo nên giá trị và hiệu quả của pháp luật về lĩnh vực này. Thứ hai, thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức là hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Hành vi là toàn bộ những phản ứng, cách cư xử biểu hiện ra ngoài của một người trong một hoàn cảnh cụ thể. Hành vi thực hiện pháp luật là hành vi được xem xét dưới góc độ có ích cho tập thể và xã hội. Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức là hành vi (hành động hay không hành động) được tiến hành phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi và trong phạm vi quy định của pháp luật về tuyển dụng viên chức, do vậy nó là hành vi hợp pháp [9,tr.12]. Thực hiện pháp luật tuyển dụng viên chức là hành vi hợp pháp mà trong đó pháp luật đã cho quy định quyền hạn, nhiệm vụ cụ thể đối 11 với từng chủ thể khác nhau. Nếu vượt quá những quy định này thì hành vi đó là vi phạm pháp luật. Thứ ba, thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức là nghĩa vụ của tất cả các tổ chức và cá nhân. Hiện nay, chủ thể thực hiện pháp luật được coi là mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội. Pháp luật mang tính bắt buộc chung, không phân biệt một cá nhân hay tổ chức riêng biệt nào, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật [9,tr.13]. Do vậy, tất cả các cá nhân, tổ chức đều có nghĩa vụ tuân thủ, thực hiện pháp luật. Đây là một đặc điểm thể hiện về quyền bình đẳng trước pháp luật đã được ghi nhận trong đạo luật cơ bản. Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức là nghĩa vụ của tất cả các chủ thể khi tham gia, không ai có một đặc quyền ưu tiên hay bị hạn chế thực hiện các hành vi mà pháp luật về tuyển dụng viên chức không cho phép. Thứ tư, thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức được tiến hành thông qua nhiều hình thức và với những quy định khác nhau. Mỗi loại quy phạm pháp luật khác nhau có cách thức và quy trình thực hiện khác nhau. Các hình thức thực hiện pháp luật được sử dụng một cách phù hợp, đan xen, hỗ trợ cho nhau để nâng cao hiệu quả tuyển dụng viên chức. Pháp luật về tuyển dụng viên chức được thực hiện với nhiều quy trình, có thể được tiến hành thông qua thủ tục đơn giản hoặc cũng có thể phải thực hiện thông qua các quy trình phức tạp, đòi hỏi sự tham gia của nhiều cá nhân, tổ chức khác nhau theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ mà pháp luật đã quy định [9,tr.15]. Bên cạnh những đặc điểm chung thì thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức còn có những đặc điểm riêng biệt sau: Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức chịu tác động của nhiều yếu tố, trong đó yếu tố con người đóng vai trò quan trọng. Hoạt động tuyển dụng nói chung và tuyển dụng viên chức nói riêng luôn chịu sự tác động từ nhiều yếu tố khác nhau. Các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, sự phát triển của nền kinh tế thị trường,... đã và đang là những yếu tố tác động mạnh mẽ đến quá trình thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức. Tuy nhiên, con người là yếu tố có vai trò quan trọng, ảnh 12 hưởng trực tiếp đến quá trình tuyển dụng. Con người bao gồm cả các chủ thể có thẩm quyền tuyển dụng và những người tham gia dự tuyển. Hiệu quả việc tuyển dụng viên chức cao hay thấp, khách quan hay chủ quan phụ thuộc vào người tham gia hoạt động tuyển dụng viên chức. Con người cũng là mục đích cuối cùng của việc tuyển dụng, là tuyển chọn người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn đáp ứng yêu cầu của vị trí việc làm và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp. Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức phải đồng thời phù hợp với các quy định pháp luật viên chức và pháp luật lao động. Hiện nay, viên chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp và ký kết hợp đồng làm việc. Có thể hiểu viên chức làm việc theo chế độ hợp đồng, và được coi là một kiểu lao động hợp đồng đặc biệt, đây là một đặc điểm khác với công chức. Do vậy, trong quá trình thực hiện tuyển dụng viên chức ngoài việc phải thực hiện đúng theo các quy định của pháp luật viên chức còn phải phù hợp với các quy định của pháp luật lao động. 1.1.3. Vai trò của thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức Thứ nhất, thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức góp phần kiểm nghiệm các quy định pháp luật trong thực tiễn, là cơ sở cho quá trình hoàn thiện pháp luật về viên chức. Bất kỳ quy phạm pháp luật được xây dựng và ban hành thì phải được kiểm nghiệm thông qua việc thực hiện pháp luật. Thông qua quá trình tổ chức thực hiện, mới có thể nhận định pháp luật về tuyển dụng viên chức được đón nhận, phù hợp với yêu cầu của xã hội và đạt được mục đích khi xây dựng và ban hành pháp luật hay không. Pháp luật về tuyển dụng viên chức luôn cần được thực hiện một cách đầy đủ, linh hoạt và phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh. Nhưng trong thực tế, pháp luật về tuyển dụng viên chức không thể bao quát để điều chỉnh được tất cả các tình huống cụ thể có thể xảy ra, dẫn đến những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Tuy nhiên những tồn tại, khó khăn trong thực hiện pháp luật là một cơ sở, kinh nghiệm quý báu để góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tuyển dụng viên chức trong tương lai cho phù hợp với yêu cầu của xã hội và sự phát triển của đất nước. 13 Thứ hai, thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của nhà nước. Pháp luật được xây dựng để nhà nước tham gia điều chỉnh mối quan hệ xã hội một cách hiệu quả. Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của nhà nước. Nhà nước tạo điều kiện để quyền và nghĩa vụ của các cá nhân dự tuyển viên chức được đảm bảo, đồng thời các đơn vị sự nghiệp công lập được tự do trong khuôn khổ pháp luật cho phép để lựa chọn những người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn vào làm việc. Việc thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật về tuyển dụng viên chức làm cho hoạt động này luôn được phát triển ổn định dưới sự quản lý của nhà nước, thể hiện hiệu quả hoạt động của nhà nước trong lĩnh vực tuyển dụng viên chức. Thứ ba, thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức góp phần bảo đảm các quyền cơ bản của con người, quyền công dân. Pháp luật nước ta nói chung và pháp luật về người lao động nói riêng luôn là sự cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Bất kỳ một cá nhân nào, đều có quyền lao động, sáng tạo và phát triển, được cạnh tranh một cách công bằng, công khai. Pháp luật về tuyển dụng viên chức được xây dựng không trái với đạo luật cơ bản và quy định khác về người lao động. Vì vậy, nội dung của pháp luật tuyển dụng viên chức luôn hướng tới bảo vệ các quyền cơ bản cho người lao động, quyền công dân, quyền con người. Do vậy, thực hiện nghiêm túc pháp luật về tuyển dụng viên chức là hành vi thiết thực nhất để góp phần bảo đảm các quyền cơ bản của con người, quyền công dân, tạo sự công bằng trong xã hội. Thứ tư, thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức được thực hiện hiệu quả sẽ giúp tạo sự đồng thuận xã hội, nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ viên chức và nhân dân. Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức sẽ làm tác động đến nhiều mặt của xã hội như các quyền và nghĩa vụ của công dân, kinh tế, an ninh xã hội,... Việc tổ chức, thực hiện pháp luật không nghiêm minh, sẽ dẫn đến quyền của nhiều cá nhân không được đảm bảo, làm mất sự công bằng trong xã hội, tạo nên sự không đồng thuận trong nhân dân. 14 Sự lựa chọn nguồn nhân lực chất lượng kém trong các đơn vị sự nghiệp công lập làm giảm hiệu quả hoạt động của đơn vị, dẫn đến các dịch vụ công không được cung cấp đầy đủ, phúc lợi của nhân dân không được đảm bảo, gây bất bình trong xã hội. Thực hiện pháp luật một cách công bằng, công khai, minh bạch và đúng pháp luật giúp cho đội ngũ viên chức và nhân dân có nhận thức rõ ràng hơn, nghiêm túc hơn về pháp luật về tuyển dụng viên chức, góp phần nâng cao ý thức pháp luật của nhiều thành phần trong xã hội. Thứ năm, thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức góp phần tạo lập nguồn nhân lực chất lượng cho hoạt động của bộ máy nhà nước. Xuất phát từ khía cạnh đơn vị sự nghiệp công lập, một phần của bộ máy nhà nước, nơi cung cấp các dịch vụ công, thì thực hiện đầy đủ pháp luật về tuyển dụng viên chức là việc tạo lập một môi trường cạnh tranh lành mạnh, qua đó, mới thu hút được nguồn nhân lực có chất lượng cao, lựa chọn được nhiều người đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ, của đơn vị. Đội ngũ viên chức có chất lượng lao động tốt, hiệu quả hoạt động cao, là một sự phát triển đi lên của đơn vị sự nghiệp công lập. Từ góc độ người dự tuyển, do xã hội phát triển, ngày càng có nhiều tổ chức, đơn vị ngoài nhà nước cung cấp dịch vụ, việc cạnh tranh giữa các tổ chức, đơn vị trong và ngoài nhà nước ngày càng mãnh liệt, nên người lao động có thể lựa chọn công việc phù hợp với năng lực của mình. Những người có năng lực làm việc cao, kinh nghiệm tốt sẽ lựa chọn vào những đơn vị sự nghiệp tuyển dụng công bằng, khách quan, bảo đảm các quyền và sự phát triển của mình. Việc thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức một cách nghiêm minh là một lợi thế quan trọng để các đơn vị sự nghiệp công lập có thể thu hút, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng tốt, nâng cao hoạt động của bộ máy nhà nước. 1.2. Nội dung và hình thức thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức 1.2.1. Nội dung thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức Hiện nay, pháp luật về tuyển dụng viên chức được quy định chủ yếu tại Luật Viên chức, Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức, Thông tư số 15/2012/TT-BNV 15 ngày 25/12/2012 của Bộ Nội vụ hướng dẫn về tuyển dụng, ký kết hợp đồng làm việc và đền bù chi phí đào tạo, bồi dưỡng đối với viên chức; Thông tư số 16/2012/TT-BNV ngày 28/12/2012 của Bộ Nội vụ Ban hành quy chế thi tuyển, xét tuyển viên chức; quy chế thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp đối với viên chức và nội quy kỳ thi tuyển và thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp đối với viên chức. Pháp luật về tuyển dụng viên chức ở nước ta đang tập trung vào những nội dung, đó là: căn cứ tuyển dụng; nguyên tắc tuyển dụng; điều kiện dự tuyển; thẩm quyền tuyển dụng; phương thức tuyển dụng; thủ tục tuyển dụng viên chức. 1.2.1.1. Căn cứ tuyển dụng viên chức Luật Viên chức đã quy định tại Điều 20 về căn cứ tuyển dụng viên chức, cụ thể: “Việc tuyển dụng viên chức phải căn cứ vào nhu cầu công việc, vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và quỹ tiền lương của đơn vị sự nghiệp công lập.” Theo quy định này, việc tuyển dụng viên chức cần phải căn cứ vào 04 yếu tố sau: nhu cầu công việc, vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và quỹ tiền lương của đơn vị sự nghiệp công lập. Nhu cầu công việc là bước đầu tiên để xây dựng kế hoạch tuyển dụng, khi đó, các đơn vị sự nghiệp công lập sẽ phải xác định những công việc có nhu cầu cần tuyển người làm việc, yêu cầu của công việc đó cần những gì. Từ đó có thể xác định cụ thể về trình độ chuyên môn, kỹ năng, kinh nghiệm và các yêu cầu khác có liên quan nhằm đưa ra yêu cầu đối với người dự tuyển. Việc xây dựng vị trí việc làm là một khâu quan trọng trong tuyển dụng viên chức. Theo quy định pháp luật tại Khoản 1 Điều 7 Luật Viên chức thì vị trí việc làm được hiểu là công việc hoặc nhiệm vụ gắn với chức danh nghề nghiệp hoặc chức vụ quản lý tương ứng, là căn cứ xác định số lượng người làm việc, cơ cấu viên chức để thực hiện việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập. Theo khoản 1 Điều 8 Luật Viên chức thì: “Chức danh nghề nghiệp là tên gọi thể hiện trình độ và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của viên chức trong từng lĩnh vực nghề nghiệp.” Tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp là trình 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan