Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở - thực tiễn tại tỉnh quảng bình...

Tài liệu Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở - thực tiễn tại tỉnh quảng bình

.PDF
105
312
132

Mô tả:

MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................... 5 3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của luận văn ................................................ 6 4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ........................................... 7 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu ................................... 7 6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 7 7. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 8 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ .................................................................... 9 1.1. NHẬN THỨC VỀ DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ CƠ SỞ TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN, BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY ..................... 9 1.1.1. Khái niệm pháp luật về dân chủ ở cơ sở ........................................... 11 1.1.2. Nội dung pháp luật về dân chủ ở cơ sở ............................................. 23 1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC HÌNH THỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ ......................................................... 29 1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở ........................... 29 1.2.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ............................... 32 1.2.3. Hình thức thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ............................... 33 1.3. VAI TRÒ CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG ................................................................................................ 36 1.3.1. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở góp phần mở rộng dân chủ, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân ............ 36 1.3.2. Vai trò của thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở đối với hoạt động của chính quyền cơ sở ............................................................ 38 1.3.3. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở góp phần phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở cơ sở .......................................................................... 39 1.3.4. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng tiêu cực khác ................... 41 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH .......................... 43 2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ TÌNH HÌNH KINH TẾ-XÃ HỘI TỈNH QUẢNG BÌNH ................................................................................................ 43 2.2. QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH .. 50 2.2.1. Quá trình triển khai thực hiện pháp lệnh dân chủ cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Bình ................................................................................... 50 2.3. HẠN CHẾ, NGUYÊN NHÂN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH ................................................................... 75 2.3.1. Những yếu tố tác động đến việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở .. 75 2.3.2. Hạn chế.............................................................................................. 76 2.3.3. Nguyên nhân ..................................................................................... 77 2.3.4. Bài học kinh nghiệm ......................................................................... 80 CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH .......................................................................... 82 3.1. QUAN ĐIỂM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH ........................................................ 82 3.1.1 Nhiệm vụ chung ................................................................................. 83 3.1.2. Các nhiệm vụ cụ thể .......................................................................... 87 3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở TỈNH QUẢNG BÌNH ................................................. 89 3.2.1. Nâng cao nhận thức của các chủ thể thực hiện pháp luật về vai trò, tầm quan trọng và nội dung của pháp luật về dân chủ cơ sở .... 89 3.2.2. Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở xã, thị trấn gắn với việc thực hiện nội dung pháp luật về dân chủ ở cơ sở ....................................................................................... 90 3.2.3. Gắn việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở với việc phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh quốc phòng ......................... 91 3.2.4. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xây dựng chính quyền cơ sở thực sự trong sạch vững mạnh ........ 91 3.2.5. Kịp thời sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm và đề xuất những kiến nghị nhằm từng bước bảo đảm thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở....... 92 KẾT LUẬN .................................................................................................... 96 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 98 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT PLDC: Pháp lệnh dân chủ QCDC: Quy chế dân chủ HĐND: Hội đồng nhân dân UBND: Ủy ban nhân dân MTTQ: Mặt trận Tổ quốc UBTVQH Ủy ban thường vụ Quốc hội BCĐ Ban chỉ đạo MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Dân chủ là một khái niệm, một chế độ chính trị, sự thể hiện quyền lực của quần chúng nhân dân có từ thời thế giới cổ đại. Ngay từ trong việc giải thích nguồn gốc ra đời của nhà nước, ở trong thuyết Thần học đã tồn tại một trường phái dân chủ nói lên quyền lực thực sự phải nằm ở nhân dân. Tuy rằng thuyết Thần học đã giải thích nguồn gốc ra đời của nhà nước còn phiến diện, sai lầm nhưng điều đáng nói ở đây là họ cũng đã biết đến vai trò quan trọng của quần chúng nhân dân. Đến thời Hy Lạp cổ đại, ngay trong hai thành bang lớn nhất của Hy Lạp là thành bang SPác và thành bang Anthena nền dân chủ cũng đã được đề cao, tuy rằng ở mỗi nước có một nền dân chủ khác nhau nhưng cả hai đều đã nói lên được rằng trong xã hội bấy giờ đã tồn tại những suy nghĩ về quyền lực của nhân dân. Dân chủ là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội, trong đó thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thông qua một hệ thống bầu cử tự do. Chính vì với tư cách là một thiết chế chính trị - xã hội, một hình thức nhà nước, dân chủ có mối quan hệ hữu cơ với pháp luật, bởi pháp luật là một yếu tố cấu thành của nội dung dân chủ. Nền dân chủ chúng ta đã và đang phấn đấu xây dựng là nền dân chủ triệt để, một nền dân chủ thực sự và cũng là một nền dân chủ rộng rãi. Đó là một nền dân chủ mà tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Một trong các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước ở nước ta hiện nay là nguyên tắc Tập trung dân chủ. Vấn đề đáng nói ở đấy là vấn đề giữa tập trung và dân chủ. Tập trung thì phải tập trung đúng mức, dân chủ cũng phải dân chủ đúng mức, tức là sự kết hợp hài hòa giữa tập trung và dân chủ. Chính vì vậy, bên cạnh vấn đề dân chủ thì phải biết dân chủ phải đi liền với kỷ cương, pháp chế. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có sự kết hợp hài hoà giữa quyền và trách 1 nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ, gắn và điều hòa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, lợi ích của quốc gia và lợi ích của sự phát triển xã hội. Quan điểm về dân chủ đã có từ rất lâu, tuy nhiên những quan điểm đó không phải khi nào cũng đồng nhất, chỉ có một điểm rằng tất cả các quan điểm nói về dân chủ luôn đề cao vai trò của quần chúng nhân dân. Nói đến dân chủ, trước hết phải nói đến quyền được làm chủ, quyền được thụ hưởng nền dân chủ của người dân trong một thể chế chính trị - xã hội. Trong bản Tuyên ngôn độc lập đọc ngày 2-9-1945 tại Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Tiếp đó, Người trích dẫn Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1789: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi". Dân chủ luôn luôn là ước vọng của con người, mọi dân tộc trong mọi thời đại. Nó cần như cơm ăn, áo mặc, nước uống hằng ngày. Dân chủ là thước đo chất lượng cuộc sống văn minh xã hội và năng lực quản lý của một nhà nước. Dân chủ không phải tự nhiên mà có. Lịch sử đất nước ta đã chứng minh, muốn có một xã hội thực sự dân chủ, thực sự văn minh, lành mạnh phải đấu tranh, thậm chí phải hy sinh xương máu. Dân chủ và cuộc đấu tranh vì dân chủ, hòa bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển là một xu thế lớn của thời đại. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ". Quan điểm của Người đã cho chúng ta thấy vấn đề dân chủ luôn xoay quanh chữ dân. Dân là cái bắt đầu và cũng là cái kết thúc. Tức là tất cả bắt đầu cũng từ dân, từ nhân dân mà ra, mọi việc cũng đều do nhân dân, do nhân dân quyết định và kết quả cuối cùng là vì nhân dân, vì quyền lợi của nhân dân. Một chế độ dân chủ rộng rãi, một chế độ dân chủ thực sự là tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân 2 lấy nhân dân làm trung tâm. Nhân dân là điểm xuất phát cũng đồng thời là điểm kết thúc của mọi quyền lợi. Từ khi ra đời từ ngày 3-2-1930 cho đến nay, sau hơn 80 năm, vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, về mối quan hệ giữa dân chủ và nhà nước, giữa Đảng và nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát huy dân chủ, nhất là dân chủ ở cơ sở trong mọi hoạt động đời sống xã hội. Tuy nhiên không phải ai cũng hiểu được dân chủ là gì? Chính vì không hiểu được nội dung và bản chất của dân chủ mà có thể là người dân hay kể cả các cơ quan, tổ chức đã không phát huy được giá trị của dân chủ, ảnh hưởng đến đời sống xã hội. Hiểu, đẩy mạnh việc thực hiện dân chủ cơ sở là một việc làm hết sức quan trọng, nó không chỉ giới hạn trong mỗi cá nhân, tổ chức hay chỉ trong các cơ quan nhà nước mà đòi hỏi phải có sự tham gia, phối hợp của các cấp, các ngành, của chính quyền và đoàn thể. Việc hiểu và thực hiện tốt vấn đề thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở sẽ phát huy được quyền làm chủ trực tiếp của cán bộ, công chức, người lao động, góp phần tích cực, hiệu quả vào công tác xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, xây dựng khối đoàn kết trong cơ quan, đơn vị, giữ vững ổn định chính trị từ cơ sở, tạo động lực quan trọng để hoàn thành nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị. Khi hiểu được bản chất, nội dung của dân chủ đặc biệt là việc hiểu được vấn đề thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở sẽ tạo ra một sự dân chủ rộng rãi và thực sự trong đời sống xã hội. Người dân sẽ thấy được vị trí và tầm quan trọng của mình trong đời sống chính trị, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội sẽ phải nghiêm túc trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Cũng chính vì điểm đó mà mà phương châm, khẩu hiệu “Sống và làm việc theo Hiến 3 pháp và pháp luật” sẽ được phát huy một cách triệt để và có hiệu quả tạo ra một xã hội ổn định, tạo tiềm lực cho một nền kinh tế phát triển. Nếu nhìn nhận một cách khách quan, việc hiểu và thực hiện tốt dân chủ sẽ tạo động lực cho sự phát triển của xã hội cũng như nền kinh tế thì ngược lại, nếu không hiểu đúng bản chất và nội dung của nó thì sẽ gây ra nhiều xáo trộn. Một xã hội sẽ mất đi sự ổn định của nó, tình hình chính trị cũng chính vì thế mà trở nên mất trật tự. Chính vì vậy bên cạnh những cố gắng và thành tựu bước đầu đạt được, việc thực hiện pháp luật về dân chủ trên từng địa phương còn có những hạn chế, thiếu sót, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau. Có nơi, có lúc, quyền làm chủ của nhân dân chưa thực sự được tôn trọng và phát huy một cách tối đa. Các chủ thể thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở chưa thực làm tròn vai trò, trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở. Nhận thấy, trong giai đoạn hiện nay, khi thực hiện tốt vấn đề dân chủ sẽ đảm bảo được các vấn đề mà theo tác giả đây là những vấn đề hết sức cần thiết và tác giả cũng nhận thấy đây là điểm nhấn của luận văn, điểm mới mà các công trình nghiên cứu trước về đề tài dân chủ rất ít đề cập tới. Khi hiểu và thực hiện tốt vấn đề dân chủ sẽ góp phần củng cố và tăng cường xây dựng nhà nước pháp quyền được tốt hơn. Bởi vì theo quan điểm hiện nay, đặc trưng của nhà nước pháp quyền là: Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; nguyên tắc tổ chức quyền lực Nhà nước là nguyên tắc tập quyền; Nhà nước pháp quyền được đặt trong quan hệ không thể tách rời với xã hội công dân. Do vậy khi vấn đề dân chủ được thực hiện tốt thì vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền sẽ được tăng cường và ngược lại, khi xây dựng được nhà nước pháp quyền thì vấn đề dân chủ sẽ được thực hiện một cách rộng rãi và có hiệu quả hơn. Mặt khác, khi xây dựng, củng cố và phát huy nền dân chủ thì việc bảo vệ quyền con người sẽ được phát huy một cách tích cực. Bởi vì thực chất bảo vệ 4 quyền con người cũng là dân chủ. Bảo vệ quyền con người tức là bảo vệ nhân quyền, là bảo vệ những giá trị cao quý, là thành quả của những cuộc đấu tranh chung. Ở đây vấn đề dân chủ cũng thể hiện được quyền lực của nhân dân, quyền của người dân được thực hiện như thế nào. Đó cũng là một yếu tố thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Ngoài ra, việc thực hiện tốt vấn đề dân chủ cơ sở góp phần trong việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Với phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra nhiều công việc của cơ quan nhà nước cần có sự tham gia của người dân, nhiều vấn đề phải công khai cho nhân dân biết đặc biệt là công khai về tài chính đã góp phần to lớn trong việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng Với tâm huyết muốn góp phần xây dựng một nền dân chủ rộng rãi và thực sự trong xã hội của chúng ta, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở - thực tiễn tại tỉnh Quảng Bình” làm luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Sách Thái Ninh - Hoàng Chí Bảo: “Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa”, NXB Sự thật, Hà Nội, 1991; Nguyễn Khắc Mai: “Dân chủ - di sản văn hóa Hồ Chí Minh”, NXB Sự thật, Hà Nội 1997; Nguyễn Đình Lộc: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân”; Lương Gia Ban: “Dân chủ và việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”, NXB CTQG, Hà Nội, 2003… Các công trình này tập trung làm rõ giá trị nên tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ chí Minh về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa, đánh giá khách quan những thành quả, tiến bộ mà chủ nghĩa tư bản có được cũng như chỉ ra hạn chế do bản chất giai cấp tư sản quy định. Hoàng Chí Bảo: “Dân chủ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt 5 Nam”, Tạp chí Thông tin lý luận, số 7-1989; Nguyễn Tiến Phồn: “Dân chủ và tập trung dân chủ - Lý luận và thực tiễn”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001 Những tác phẩm này đã nêu rõ thành công, hạn chế trong xây dựng và thực hiện nền dân chủ ở các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam. Nêu ra những nguyên nhân, hạn chế và giải pháp khắc phục. Tạp chí Hoàng Chí Bảo: “Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ: Quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu”, Tạp chí Thông tin lý luận, số 9-1992; Trần Quang Nhiếp: “Thực hiện dân chủ ở cơ sở là một hệ giải pháp đồng bộ thống nhất”, Báo Đại Đoàn kết, ngày 1-12-1997; PGS, TS Hoàng Văn Hảo: “Vấn đề dân chủ và các đặc trưng của mô hình tổng thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2/2003… Những bài viết trên bổ sung nhận thức mới, đề xuất cách làm mới để xây dựng, thực hiện dân chủ phù hợp với đặc điểm lịch sử, truyền thống của dân tộc, đặc điểm của thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Công trình luận án, luận văn Luận án: Lưu Minh Trị: “Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn ngoại thành Hà Nội (cấp xã) trong giai đoạn hiện nay”, Luận án tiến sĩ, 1993; Nguyễn Văn Long: “Lệ làng truyền thống với việc hình thành ý thức pháp luật cho nông dân Việt Nam thời kỳ đổi mới”, Luận án tiến sĩ, 2002… Luận văn: Trần Quốc Huy: Hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật, Hà Nội, 2005; Lê Xuân Huy: Ý thức pháp luật với quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay (Qua thực tế một số tỉnh phía Bắc), Luận văn thạc sĩ Triết học, 2005 3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của luận văn Đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật về dân chủ cơ sở và tình hình thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. 6 4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục tiêu nghiên cứu của luận văn Luận văn không chỉ dừng lại ở mục đích nghiên cứu các quy định của pháp luật về dân chủ cơ sở mà trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở; từ việc đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Trong đó luận văn nêu bật lên vấn đề thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền; bảo vệ quyền con người; và đấu tranh phòng chống tham nhũng đồng thời luận văn đề xuất những quan điểm, giải pháp nhằm đẩy mạnh việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn - Phân tích những vấn đề lý luận về dân chủ ở cơ sở và thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở cơ sở; - Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, những mặt đã đạt được, những tồn tại hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế. - Đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm đẩy mạnh việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới. 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu - Luận văn được tiến hành trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng về nhà nước và pháp luật, về thực hiện dân chủ ở cơ sở. - Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, trong đó sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như: phân tích tổng hợp, thống kê và so sánh, phương pháp lịch sử và lôgic… 6. Đóng góp của luận văn - Góp phần bổ sung những vấn đề lý luận về dân chủ ở cơ sở và thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở. 7 - Làm rõ thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Bình với những thành công, hạn chế. - Nêu quan điểm và một số giải pháp có tính khả thi để nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương. CHƯƠNG 1: Cơ sở lý luận của việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở. CHƯƠNG 2. Thực trạng thự hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. CHƯƠNG 3. Phương hướng và giải pháp thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Bình 8 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ 1.1. NHẬN THỨC VỀ DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ CƠ SỞ TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN, BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY Hiện nay, chúng ta đã và đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Ngay trong Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định là: Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Cương lĩnh cũng xác định rõ bản chất và các nguyên tắc cơ bản về tổ chức, hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta phấn đấu xây dựng: - Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. - Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. - Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. - Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương. 9 Để làm được điều đó, một trong những nội dung quan trọng là phải xây dựng một chế độ dân chủ thực sự và rộng rãi trong đó việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở là một yếu tố quan trọng. Không những thế, cả thế giới nói chung và chúng ta nói riêng đang trong thời kỳ bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Vi phạm dân chủ tức là vi phạm về quyền con người. Chính vì vậy, xây dựng dân chủ góp phần bảo vệ quyền con người một cách có hiệu quả hay ngược lại, muốn bảo vệ quyền con người được tốt thì phải phát huy được nền dân chủ mà đặc biệt là dân chủ từ cơ sở. Về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, đây là vấn đề nhức nhối, gây bức xúc trong nhân dân và gắn trực tiếp với việc thực hiện Nghị quyết TW 4 "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay". Từ nhiều năm nay, Đảng và Nhà nước luôn chú trọng đến công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; đã tiến hành nhiều biện pháp liên tục, nhưng đến nay công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí vẫn chưa đạt được kết quả như mong muốn. Vì vậy cần nhìn thẳng vào sự thật, phân tích, đánh giá một cách khách quan, toàn diện, sâu sắc tình hình tham nhũng, lãng phí và kết quả của công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; nhận dạng cho đúng những biểu hiện nổi bật của tham nhũng, lãng phí trong một số lĩnh vực chủ yếu như đất đai, tài nguyên, đầu tư xây dựng cơ bản, thu chi ngân sách, mua sắm tài sản công, quản lý, sử dụng vốn và tài sản Nhà nước, nhất là tại các doanh nghiệp nhà nước, hoạt động tín dụng, ngân hàng, công tác tổ chức, cán bộ... mà muốn làm tốt những điều này thì phải thực hiện tốt vấn đề dân chủ. Dân chủ là đấu tranh để công khai, minh bạch, để hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng tham nhũng đang diễn ra một cách nhức nhối trong nước ta hiện nay. 10 1.1.1. Khái niệm pháp luật về dân chủ ở cơ sở 1.1.1.1. Khái niệm dân chủ, khái niệm về dân chủ cơ sở a) Khái niệm dân chủ: Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về phạm trù “Dân chủ” xét theo đối tượng, phương pháp và mục đích khác nhau của nhiều bộ môn khoa học. Ở đây tác giả dựa vào những quan điểm về dân chủ trong lịch sử tư tưởng, cũng theo một số học giả khác, tác giả đồng ý theo quan điểm triết học pháp quyền để đưa ra quan điểm về dân chủ qua hai cách tiếp cận: Một là: Dân chủ là một hiện tượng lịch sử – xã hội, xuất hiện và phát triển với tư cách là sản phẩm trực tiếp của đời sống chính trị, của sự vận động chính trị trong cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết vấn đề quyền lực chính trị thuộc về giai cấp nào trong xã hội. Như vậy, có thể coi lịch sử hình thành dân chủ như một đặc trưng của quan hệ quyền lực nhà nước. Và hơn thế nữa, nó còn được coi là hình thức chính trị của sự biểu đạt một kiểu quan hệ xã hội thường gắn với lịch sử xuất hiện các giai cấp. Nhà nước như là một thiết chế chính trị để thực hiện dân chủ. Tuy nhiên, không phải bất cứ chế độ nhà nước nào trong lịch sử xã hội cũng là chế độ dân chủ. Xét về mặt quản lý xã hội, nội dung căn bản giải quyết vấn đề dân chủ là giải quyết vấn đề nhà nước. Đó là lĩnh vực các quan hệ tổ chức, cơ cấu và trật tự pháp lý của quyền lực dân chủ trong hoạt động của nhà nước. Còn xét từ góc độ lợi ích trong xã hội hình thành nhà nước thì không thể có dân chủ thuần tuý, dân chủ tuyệt đối và dân chủ chung cho tất cả mọi người không phân biệt giai cấp. Tính chất giai cấp của dân chủ đã và sẽ còn tồn tại chừng nào xã hội còn tồn tại giai cấp và nhà nước. Điều này chứng tỏ rằng, mọi nghiên cứu về dân chủ, nếu không căn cứ trên cơ sở kinh tế – xã hội và việc giải quyết giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị của một giai cấp nhất định thì không thể chỉ ra bản chất của dân chủ. 11 Hai là: Dân chủ là một hiện tượng lịch sử xã hội, một sản phẩm của sự vận động chính trị bị chế ước bởi trình độ và trạng thái hiện thực của kinh tếxã hội; mà dân chủ còn là thành tựu của sự phát triển văn hoá nhân loại, với tính cách là thước đo về trình độ giải phóng con người, xã hội mà loài người đã đạt được trong mỗi thời đại lịch sử. Trong mối quan hệ này dân chủ là một động lực, một tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội. Nói một cách tổng quát, dân chủ là yếu tố hợp thành nội dung của tiến bộ xã hội. Quan niệm về tiến bộ xã hội sẽ trở nên hạn hẹp nếu xác định những kết quả chung mà tiến bộ xã hội đạt được tách rời khỏi mối liên hệ với dân chủ trong những điều kiện lịch sử nhất định của quá trình phát triển xã hội. Dân chủ trở thành thước đo của tiến bộ xã hội. Lôgic khách quan của sự vận động lịch sử dẫn tới sự trùng hợp, sự phù hợp ngày càng cao hơn, đầy đủ hơn giữa dân chủ với tiến bộ xã hội bởi mục tiêu giải phóng con người và xã hội của nền dân chủ XHCN và tiến bộ xã hội trong CNXH hướng tới con người, xem “con người là thước đo của tất cả”. Tuy nhiên, không phải bất cứ chế độ nhà nước nào cũng đồng thời là một chế độ dân chủ, nhưng bất cứ một chế độ dân chủ nào cũng phải được biểu hiện ra bởi hình thức nhà nước tương ứng, phù hợp với nó. Ở đây có hai điều cần phải nhấn mạnh, khi nghiên cứu chế độ nhà nước là một chế độ dân chủ Thứ nhất: Nhà nước, một sản phẩm tất yếu của xã hội phân chia thành giai cấp và có đối kháng giai cấp bao giờ cũng mang bản chất giai cấp và cũng là công cụ quyền lực để duy trì bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Điều đó, cũng sẽ đúng ngay cả trong điều kiện giai cấp công nhân, nhờ thắng lợi chính trị trong cuộc đấu tranh giai cấp sử dụng chính quyền của mình để xây dựng xã hội mới theo các mục tiêu của CNXH thì nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn là nhà nước mang tính chất giai cấp. 12 Thứ hai: Xét về lôgich, chủ nghĩa xã hội và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự thay thế hợp quy luật đối với nền dân chủ tư sản. Do đó, ở trên một trình độ cao hơn so với chủ nghĩa tư bản và nền dân chủ tư sản cũng là một tất yếu của lịch sử. Điều đó cũng sẽ đúng, khi xét về mặt thực tiễn lịch sử trong thời gian qua và hiện nay, thì chủ nghĩa xã hội và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lại chưa ở trình độ cao, chưa trở thành một hiện thực phổ biến trực tiếp, nó còn đang trong quá trình hình thành, phát triển. Thuật ngữ “dân chủ” ra đời từ thời Hy Lạp cổ đại, khoảng thế kỷ thứ VII-VI trước công nguyên. Theo tiếng Hy Lạp cổ, dân chủ là do hai từ hợp thành, “demos” là nhân dân và “kuatos” là quyền lực hay chính quyền. “Demoskratia” – dân chủ - có nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân. Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: “Dân chủ là hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào các tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế xã hội nhất định”1. Như vậy, dân chủ được coi là tiêu chí đánh giá cách thức, trình độ tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Song vấn đề dân chủ luôn là vấn đề phức tạp, có nội dung rộng lớn, luôn luôn mới, gắn với những tiến bộ về lịch sử và văn hóa của loài người. Để nghiên cứu, hiểu rõ bản chất, tính chất và nội dung của dân chủ phải xem xét nó dưới các góc độ, khía cạnh khác nhau. Bản thân thuật ngữ dân chủ được tiếp cận dưới nhiều góc độ: Triết học, chính trị; dân chủ là một hình thái nhà nước; dân chủ là một hiện thực chính trị; dân chủ là một hiện thực kinh tế, một hiện thực xã hội và dân chủ là một trạng thái của hệ thống quan hệ quốc tế. Nếu xét theo trình độ phát triển của 1 Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 1, NXB Sự thật, Hà Nội, 1995 13 lịch sử nhân loại thì có các nền dân chủ: dân chủ chủ nô, dân chủ phong kiến, dân chủ tư sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa. Về mặt phạm vi, dân chủ rất toàn diện, bao quát các lĩnh vực đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa tư tưởng; từ các mối quan hệ giữa con người với con người đến quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, giữa công dân với Nhà nước, giữa các tổ chức và thể chế hiện hành, giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế. Hiện nay, với quá trình hội nhập và toàn cầu hóa, dân chủ còn được hiểu như là phương thức, cách thức tổ chức, là thước đo số cá thể (cá nhân, tổ chức) tham gia vào quá trình xã hội hóa công nghệ, tài chính, thông tin, văn hóa. Song, dù tiếp cận dưới góc độ nào thì thực chất nội dung, tính chất và khuynh hướng phát triển của dân chủ là hoàn toàn phụ thuộc vào chỗ quyền lực chính trị thuộc về ai, phục vụ ai trong mối quan hệ, trong cộng đồng và xã hội đó. Bởi một lẽ rằng một nhà nước, một chế độ chính trị luôn luôn thể hiện ý chí và bảo vệ quyền và lợi ích của giai cấp thống trị, là giai cấp cầm quyền của nhà nước đó. Sự phát triển của dân chủ phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội, năng lực nhận thức của công dân và chính quyền, truyền thống lịch sử, văn hóa, pháp lý,…Dân chủ là mục tiêu, động lực phát triển của quốc gia, dân tộc. Dân chủ là khát vọng được làm chủ, là quyền tự nhiên của con người trong đó có quyền sử dụng tất cả sức mạnh để thực hiện vai trò của người chủ và quyền làm chủ đó có lúc, có nơi đã được những người cầm quyền trong lịch sử nhận thức và thể chế thành pháp luật thực định cùng các thiết chế chính trị - xã hội khác. Song, chỉ đến khi nền dân chủ vô sản – dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời, thì đó mới là chế độ dân chủ thực sự, dân chủ của đa số nhân dân với sự đảm bảo thực hiện của pháp luật, của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Ở nước ta hiện nay, dân chủ trở thành mục tiêu và động lực của công 14 cuộc đổi mới. Vấn đề dân chủ ngày càng có tầm quan trọng to lớn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Những thành tựu của quá trình dân chủ hóa đang góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, toàn Đảng, toàn dân ta cũng đang nỗ lực vượt qua những khó khăn, thách thức trong quá trình dân chủ hóa, văn minh hóa một xã hội đang phấn đấu vươn tới hiện đại hóa. Nhận thức về vấn đề dân chủ đã khó khăn và phức tạp, nhưng thực hiện dân chủ trong đời sống còn khó khăn và phức tạp hơn nhiều. Những vấn đề về mục tiêu, nguyên tắc, động lực, nội dung, hình thức, phương pháp và bước đi của dân chủ luôn là những vấn đề khó khăn và mới mẻ, đòi hỏi phải giải quyết một cách đồng bộ, cần sự hợp lực rộng lớn để làm chuyển biến, thay đổi từ tư duy, nếp nghĩ, thói quen, lối sống đến những hành động thực thi. - Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa Dân chủ theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin là một hiện tượng lịch sử gắn liền với xã hội có giai cấp và được biến đổi dưới nhiều hình thức khác nhau trong điều kiện tương ứng của các hình thái kinh tế - xã hội. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, “dân chủ” có một chất lượng mới do được phát triển đầy đủ trên cơ sở một nền kinh tế phát triển cao, nhờ đó con người được giải phóng và phát triển toàn diện. Trong đó, “sự phát triển của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người”2 Theo chủ nghĩa Mác – Lênin dân chủ trước hết là một hình thức Nhà nước. V. I Lênin viết: “Chế độ dân chủ, đó là một Nhà nước thừa nhận việc thiểu số phục tùng đa số, nghĩa là sự tổ chức đảm bảo cho một giai cấp thi hành bạo lực một cách có hệ thống chống lại giai cấp khác”3. Vì vậy, dân chủ luôn mang tính giai cấp, nó tồn tại và biến đổi cùng với sự biến đổi của cuộc 2 3 Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr 51 Lênin toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, Matsxcova, 1978, tr 101 15 đấu tranh giai cấp và sự thay đổi của phương thức sản xuất chủ yếu của xã hội. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hiện tượng hợp quy luật, là bước phát triển cao hơn về chất so với các kiểu dân chủ khác và bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là giải phóng con người, để con người có thể thực hiện được những quyền tự nhiên của mình, tự làm chủ vận mệnh và quyết định những vấn đề xã hội. Theo C.Mác, dân chủ xã hội chủ nghĩa thực chất là chế độ “do nhân dân tự quy định Nhà nước”, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước. Nhân dân tự tổ chức quyền lực nhà nước qua bầu cử, tham gia quản lý và quyết định những vấn đề quan trọng, kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Lênin đã khái quát quyền dân chủ trong lĩnh vực chính trị của dân thành ba nội dung lớn: quyền bầu cử, quyền tham gia quản lý các công việc của Nhà nước và quyền bãi miễn. Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, dân chủ xã hội chủ nghĩa có những đặc điểm cơ bản sau: + Dân chủ cho nhân dân lao động + Dân chủ thực sự + Dân chủ toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa…thực chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự tham gia một cách thực sự bình đẳng và ngày càng rộng rãi của những người lao động vào quản lý công việc Nhà nước và xã hội. Thống nhất được quyền và nghĩa vụ của công dân trong mối quan hệ với Nhà nước. Vì vậy, nó trở thành mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội. - Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ: Tiếp thu và kế thừa các quan điểm về “dân chủ” của nhân loại, Hồ Chí Minh lý giải khái niệm “dân chủ” một cách đơn giản, hết sức cô đọng và dễ hiểu, dễ thực hiện và kiểm soát. Người nói: “Chế độ ta là chế độ dân 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan