Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực hiện dân chủ ở nông thôn tỉnh vĩnh phúc hiện nay...

Tài liệu Thực hiện dân chủ ở nông thôn tỉnh vĩnh phúc hiện nay

.PDF
113
141
138

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN ___O0O___ VŨ QUỲNH LÊ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở NÔNG THÔN TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học Mã số : 60 22 85 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS MẪN VĂN MAI Hà Nội – 2010 MỤC LỤC Trang Mở đầu Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở NÔNG THÔN TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY………….…………………………... 1 1.1 Thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay và vai trò của nó……………… 1 1.1.1 Quan niệm về thực hiện dân chủ………………………………………………….. 1 1.1.2 Quan niệm về thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay…………………... 13 1.1.3 Vai trò của thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay……………………... 19 1.2 Thực trạng thực hiện dân chủ ở nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay và những vấn đề đặt ra……………………………………………………………………………... 25 1.2.1 Đặc điểm nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc……………………………………………… 25 1.2.2 Thực trạng thực hiện dân chủ ở nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc…………...................... 29 1.2.3 Một số vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện dân chủ ở nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay…………………………………………………………………..,,,,,,…………... 53 Kết luận chương 1……………………………………………………………………….. 56 Chương 2 NHỮNG YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN TỐT DÂN CHỦ Ở NÔNG THÔN TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY………………………....................... 57 2.1 Những yêu cầu đặt ra đối với việc thực hiện dân chủ ở nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay……………………………………………………………………..................... 2.1.1 Thực hiện dân chủ ở nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc phải nhằm góp phần xây dựng nông thôn mới văn minh giàu đẹp, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, 57 hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn................................................................................... 57 2.1. 2 Thực hiện dân chủ ở nông thôn Vĩnh Phúc hiện nay phải tiến hành toàn diện, đồng bộ, tổng hợp các nội dung, phương thức, sử dụng nhiều biện pháp……………….. 59 2.1.3 Phát huy trách nhiệm của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, của cả hệ thống chính trị, trong đó trọng tâm là vai trò của các tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở..………………....…………………………………………………………… 59 2.1.4 Tăng cường công tác kiểm tra giám sát việc thực hiện dân chủ ở nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay………………………………... 60 2.2 Một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt dân chủ ở nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay…………………..…………………..……………………….................... 61 2.2.1 Nâng cao trình độ nhận thức, năng lực thực hành dân chủ cho cán bộ đảng viên và 61 nhân dân ở nông thôn…………………..…………………..…………………………….. 2.2.2 Xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn thật sự trong sạch vững 66 mạnh và có mối quan hệ mật thiết với nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân 2.2.3 Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở nông 77 thôn (18/2/1998) và Pháp lệnh dân chủ ở nông thôn (20/4/2007)……………………….. 2.2.4 Đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, của 79 nhân dân nông thôn trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc………………………………………… 2.2.5 Coi trọng công tác tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện dân chủ ở nông thôn 82 tỉnh Vĩnh Phúc……………………………………………………………………............ Kết luận chương 2……………………………………………………………………….. 85 KÕt luËn………………………………………………………………............................. 86 Phụ lục………………………………………………………………............................... 89 Danh môc tµi liÖu tham kh¶o………………………………………….......................... 96 BẢNG CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt Chủ nghĩa xã hội CNXH Chủ nghĩa tư bản CNTB Xã hội chủ nghĩa XHCN Hội đồng nhân dân HĐND Mặt trận Tổ quốc MTTQ Quy chế dân chủ QCDC Ủy ban nhân dân UBND Hệ thống chính trị HTCT Công nghiệp hóa CNH Hiện đại hóa HĐH Thank you for evaluating AnyBizSoft PDF Merger! To remove this page, please register your program! Go to Purchase Now>> AnyBizSoft PDF Merger  Merge multiple PDF files into one  Select page range of PDF to merge  Select specific page(s) to merge  Extract page(s) from different PDF files and merge into one MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Dân chủ vốn là nhu cầu khách quan, là khát vọng giải phóng, hướng tới tự do và làm chủ của con người, là một giá trị cao đẹp của nhân loại từ bao đời nay. Lịch sử phát triển của dân chủ là lịch sử đấu tranh cho quyền sống, quyền mưu cầu tự do và hạnh phúc của con người, từng bước xây dựng một nền dân chủ theo lý tưởng giải phóng xã hội, giải phóng con người, đưa con người từ nô lệ lên làm chủ, từ thụ động đến sáng tạo. Dân chủ hoá đang là vấn đề có tính chất “toàn cầu” trong thế giới đương đại. Ở Việt Nam hiện nay, dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Quá trình đổi mới đất nước cho đến nay xét đến cùng cũng là hướng tới để thực hiện nền dân chủ mới nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, hướng tới xây dựng và hoàn thiện xã hội mới ở Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thực tiễn đổi mới đất nước những năm qua đã chỉ rõ, dân chủ hoá các lĩnh vực của đời sống xã hội để từng bước xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã trở thành một động lực to lớn, quyết định trực tiếp đến sự thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và dân chủ hoá xã hội là hai nội dung của một quá trình thống nhất. Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phản ánh mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, trong đó kinh tế là cơ sở, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Do vậy, việc đảm bảo quyền làm dân chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống là đảm bảo để phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đất nước. Nhân dân ta xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, chưa trải qua chế độ dân chủ tư sản, với đa số dân cư sinh sống ở nông thôn. Việc giải quyết những vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn là một nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới đất nước trong giai đoạn hiện nay. Những vấn đề trên đã được đề cập trong các Văn kiện Đại hội VI, VII, VIII, IX, X dưới những góc độ khác nhau. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ 5 - Ban chấp hành TW Đảng khoá VII đã xác định nội dung, phương hướng tiếp tục đổi mới kinh tế - xã hội nông thôn, trong đó thực hành dân chủ, đổi mới hệ thống chính trị được xem là điều kiện quan trọng đảm bảo thắng lợi cho công cuộc đổi mới và phát triển nông thôn nước ta hiện nay. Phát huy tinh thần ấy, Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII đã xác định những chủ trương, giải pháp lớn nhằm đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hợp tác hoá và dân chủ hoá ở nông thôn. Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành TW khoá Đảng khoá IX tập trung chỉ đạo việc xây dựng và củng cố hệ thống chính trị cơ sở, đặc biệt là hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn (xã) nhằm đảm bảo phát huy tốt hơn nữa quyền làm chủ của nhân, củng cố mối quan hệ chặt chẽ, máu thịt giữa Đảng - chính quyền và nhân dân trực tiếp từ cơ sở. Với những quan điểm chỉ đạo đó, những năm qua việc thực hành dân chủ ở nông thôn đã có những chuyển biến tích cực. Quyền lực chính trị của cộng đồng dân cư nông thôn đang từng bước được bảo đảm, xã hội nông thôn thực sự đang chuyển mình theo hướng dân chủ và tiến bộ. Nhờ vậy, sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới đạt được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực hiện dân chủ ở thôn nước ta cũng còn một số yếu kém, khuyết điểm cần khắc phục. Biểu hiện là trong thực tế, nhiều lúc, nhiều nơi, dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm nghiêm trọng; trình độ ý thức, năng lực thực hành dân chủ của nhân dân ta cũng như cán bộ các cấp còn nhiều yếu kém; hệ thống luật pháp, thiết chế, thể chế dân chủ chưa hoàn thiện với nhiều mức độ khác nhau. Tỉnh Vĩnh Phúc, một tỉnh mới được tái thành lập từ năm 1997, tính đến năm 2010 tỉnh có tới 137 xã, phường, thị trấn, đa số dân cư sống ở nông thôn, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía bắc thành phố Hà Nội, đang diễn ra những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội trong quá trình CNH, HĐH, việc thực hiện dân chủ cũng không nằm ngoài thực trạng đó. Thực hiện dân chủ cơ sở ở nông thôn Việt Nam nói chung và tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng đặc biệt là dân chủ ở cấp xã đang là một vấn đề bức xúc trong quá trình phát triển của đất nước hiện nay. Vì thế, việc nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn tìm ra những giải pháp phù hợp nhằm phát huy ưu điểm, ra sức khắc phục những thiếu sót trong quá trình xây dựng và thực thi dân chủ trong cuộc sống là một việc làm cấp bách và thường xuyên. Với ý nghĩa đó và phù hợp với phạm vi của luận văn thạc sĩ, tác giả lựa chọn đề tài “Thực hiện dân chủ ở nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay” để nghiên cứu. 2 - Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài. Cho đến nay, dân chủ vẫn là một vấn đề nằm ở trung tâm cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận trên thế giới. Dân chủ vẫn là vấn đề luôn có tính thời sự bức xúc trong cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động ở các quốc gia, dân tộc, hướng tới phát triển và tiến bộ xã hội. Ở Việt Nam, dân chủ và dân chủ hoá đã trở thành một trong những nội dung cơ bản được đề cập trong các văn kiện của Đảng và nhà nước, đặc biệt thể hiện rõ trong từng thời kỳ đổi mới. Những thành tựu nghiên cứu lý luận về dân chủ được thể hiện ở những công trình của nhiều tác giả và tập thể tác giả. Các công trình này đã tập trung vào việc khẳng định những giá trị nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Qua đó: * Chỉ rõ sự khác nhau về bản chất của dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, đánh giá một cách khách quan những thành quả, những tiến bộ mà chủ nghĩa tư bản đã tạo dựng được trong tiến trình xây dựng chế độ chính trị tư sản cũng như chỉ ra những hạn chế do bản chất giai cấp tư sản của nền dân chủ ở các nước tư bản phát triển quy định. Có thể nói tới một số công trình tiêu biểu trong hướng nghiên cứu này. + “ Cơ chế thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong hệ thống chính trị nước ta” (Đề tài cấp nhà nước KX.05.05 do PGSTS Hoàng Chí Bảo chủ trì đề tài) ; + “Dân chủ hoá trong thờ kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam”, Luận án phó tiến sĩ khoa học Triết học, 1991, tác giả Hồ Tấn Sáng; “Vận dụng tư tưởng và phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh trong quá trình thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Triết học, 2003, tác giả Phạm Văn Bính… + “Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa” nhà xuất bản Sự thật, H, 1991, Thái Ninh - Hoàng Chí Bảo; “Dân chủ – di sản văn hoá Hồ Chí Minh”, Nxb Sự thật, Hà nội 1997, tác giả Nguyễn Khắc Mai; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân” Nxb CTQG, H, 1998, tác giả Nguyễn Đình Lộc; “Chính trị của chủ nghĩa tư bản - hiện tại và tương lai” Nxb CTQG, HN, 2002, tác giả Nguyễn Đăng Thành; “Góp phần nhận thức thế giới đương đại” Nxb CTQG, H, 2003, tác giả GS. Nguyễn Đức Bình - GS, TS Lê Hữu Nghĩa - GS, TS Trần Hữu Tiến (đồng chủ biên);… + “Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp thực hiện quyền lực ở nước ta”. Tạp chí cộng sản số 4/1990 - Đào Trí Úc; “Từ học thuyết chuyên chính vô sản của chủ nghĩa Mác - Lênin đến đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay”, Tạp chí triết học, số2, 1993, tác giả Phạm Ngọc Quang. * Nêu rõ những thành tựu và những hạn chế, thậm chí là những sai lầm trong nhận thức và khuyết tật trong xây dựng và thực hiện nền dân chủ XHCN ở các nước XHCN nói chung và ở Việt Nam nói riêng trong thực tế. Hướng nghiên cứu này được thể hiện ở các công trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây: + “Dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay”, Luận án phó tiến sĩ khoa học triết học, Lê Thanh Thập; “Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn ngoại thành Hà Nội (cấp xã) trong giai đoạn hiện nay”, Luận án Tiến sĩ, 1993, tác giả Lưu Minh Trị, “Tâm lý xã hội trong quá trình thực hiện quy chế dân chủ cơ sở”, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004, “ Dân chủ cơ sở và vấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Chính trị học, 2007, tác giả Nguyễn Thị Tâm;… + “Dân chủ và tập trung dân chủ - Lý luận và thực tiễn”, Nxb Khoa học xã hội, H, 2001, tác giả Nguyễn Tiến Phồn; … + “Dân chủ trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam”, Tập chí Thông tin lý luận số 7/1989, tác giả Hoàng Chí Bảo; “Dân chủ hoá nông thôn vi sự phát triển bền vững”, Tạp chí Khoa học và Tổ quốc, số 9, 2005, Thạc sĩ Nguyễn Minh Tuấn,… * Bổ sung những nhận thức mới và đề xuất những cách làm mới để xây dựng và thực hiện dân chủ phù hợp với đặc điểm lịch sử, truyền thống của dân tộc, đặc điểm của thời kỳ quá độ cũng như đặc thù của từng cấp độ, vùng miền, nhóm dân cư…ở nước ta. Điều này được thể hiện ở các công trình sau đây: + Trong chương trình nghiên cứu cấp Nhà nước giai đoạn 1991-1995 mang mã số KX.05 về “ Hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta” có đề tài: “Đặc điểm nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị”, mã số KX.05.06; (do PGS, Vũ Hữu Ngoạn chủ nhiệm đề tài) + “ Nâng cao trình độ văn hoá dân chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”, Luận án Phó tiến sĩ khoa học triết học, 1994, tác giả Mẫn Văn Mai; “Lệ làng truyền thống với việc hình thành ý thức pháp luật cho nông dân Việt Nam thời kỳ đổi mới”, Luận án Tiến sĩ triết học, 2002, tác giả Nguyễn Văn Long; “Vấn đề dân chủ trên lĩnh vực chính trị ở nông thôn Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay” (Qua khảo sát vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long), Luận án Tiến sĩ triết học, 1999, Đào Bá Phương… + “Thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb CTQG, HN, 2000, tác giả Dương Xuân Ngọc chủ biên; “Dân chủ và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”, Nxb CTQG, HN, 2003, TS Lương Gia Ban chủ biên, “Dân chủ ở xã từ góc nhìn pháp lý”, Nxb Công an nhân dân, 2004, tác giả Thạc sĩ Nguyễn Minh Tuấn … + ”Dân chủ một đề tài thời đại”, Tạp chí Thông tin lý luận, số 9, 1998, tác giả Đỗ Tư; “Để thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, số 2, 1999, tác giả Trần Quang Nhiếp; “Dân chủ cơ sở là điểm mấu chốt để thực hiện quyền dân chủ”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 1, 1999, tác giả Lê Minh Châu;… * Đặc biệt ba công trình nghiên cứu trong những năm gần đây đã công bố dưới dạng chuyên khảo: “Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay”; “Thực hiện Quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay”; “Thế chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay” do Nxb CTQG, HN lần lượt xuất bản năm 2001. 2003. 2005 được tập thể các nhà khoa học của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thực hiện (TS Nguyễn Văn Sáu và GS Hồ Văn Thông đồng chủ biên) là những công trình khoa học đi sâu nghiên cứu về đời sống cộng đồng làng, xã Việt Nam truyền thống và hiện tại, vấn đề xây dựng chính quyền cấp xã, đưa ra những căn cứ lý luận và thực tế cho việc xây dựng và tững bước hoàn thiện thể chế dân chủ ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay. Các công trình nghiên cứu trên từ những hướng tiếp cận và phạm vi nghiên cứu khác nhau đã cố gắng làm rõ bản chất, nội dung, tính chất cơ chế thực hiện dân chủ XHCN cũng như vai trò của việc mở rộng quyền làm chủ của nhân dân đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, những công trình đó chưa đi sâu về thực hiện dân chủ ở nông thôn, đối với nông dân, đặc biệt là ở cấp xã. Một số công trình đã nghiên cứu vấn đề dân chủ ở cơ sở trên địa bàn nông thôn, nhưng nông thôn Vĩnh Phúc - tỉnh đồng bằng, miền chuyển tiếp, cầu nối giữa các tỉnh miền núi Việt Bắc với thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ; chiếm giữ vị thế quan trọng và là một trong tám vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc của đất nước - lại là địa bàn chưa được mấy quan tâm. Những công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về dân chủ ở cơ sở nông thôn vẫn chưa nhiều, thành tựu nghiên cứu còn khá khiêm tốn. Việc đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm thực hiện dân chủ ở nông thôn đáp ứng nhu cầu dân chủ của nông dân thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế đang hết sức cấp thiết.Với đề tài này, tác giả mong muốn góp một phần nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu nhằm thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta nói chung và nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng hiện nay có hiệu quả và chất lượng tốt hơn. 3 - Đối tượng phạm vi nghiến cứu của để tài - Đối tượng nghiên cứu Ở Việt Nam, nông thôn gắn liền với nông nghiệp và nông dân, đó là cả một địa bàn rộng lớn. Mặc dù nghiên cứu vấn dân chủ ở nông thôn nhưng tác giả sẽ tập trung chủ yếu vào nghiên cứu vấn đề thực hiện dân chủ ở loại hình cơ sở xã trên địa bàn nông thôn Việt Nam nói chung, nông thôn Vĩnh Phúc nói riêng. - Phạm vi nghiên cứu của đề tài Tác giả giới hạn một số xã thuộc tỉnh Vĩnh Phúc làm điểm nghiên cứu, khảo sát đề tài Thực hiện dân chủ ở nông thôn tỉnh vĩnh Phúc. Sở dĩ tác giả lựa chọn vấn đề dân chủ ở xã mà không phải phường - thị trấn vì xã là nơi tập trung chủ yếu của cư dân nông thôn, chiếm khoảng 80% dân số, 70 % lao động xã hội và khoảng 85% trong tổng số các đơn vị hành chính cấp cơ sở ở Vĩnh Phúc: có đặc điểm chung là nơi vẫn còn chịu nhiều ảnh hưởng của phong tục tập quán lạc hậu của xã hội cũ, cũng như tâm lý, thói quen của thời cơ chế tập trung bao cấp; đồng thời cũng là nơi lưu giữ được nhiều truyền thống tốt đẹp có thể kế thừa trong quá trình mở rộng dân chủ hiện nay. Cùng với những số liệu, những kết quả nghiên cứu kế thừa từ những công trình khoa học mà các tác giả khác đã công bố, tác giả luận văn tiến hành khảo sát trực tiếp việc thực hiện dân chủ ở các xã thuộc tỉnh Vĩnh Phúc từ khi Quy chế dân chủ cở sở của TW Đảng ban hành năm 1998 đến nay. 4 - Môc ®Ých vµ nhiÖm vô nghiªn cøu 4.1. Môc ®Ých Trên cơ sở luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta và cụ thể ở nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc, luận văn đã đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm thực hiện dân chủ tốt hơn ở nông thôn tØnh Vĩnh Phúc hiện nay. 4.2. NhiÖm vô §Ó ®¹t ®-îc môc tiªu trªn, ®Ò tµi tËp trung gi¶i quyÕt c¸c nhiÖm vô sau: Mét lµ, ph©n tích lý luận về thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay. Hai lµ, Phân tích thực trạng thực hiện dân chủ ở nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc qua 10 năm triển khai thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Ba lµ, xác định một số yªu cÇu và giải pháp cơ bản nhằm thực hiện dân chủ tốt hơn ở nông thôn tØnhVĩnh Phúc hiện nay. 5 - Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận văn được triển khai dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, nông dân, nông thôn; dựa trên quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và phát huy dân chủ XHCN, xây dựng HTCT, giải quyết các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong thời kỳ đổi mới CNH, HĐH đất nước. - Cơ sở thực tiễn: Xuất phát từ điều kiện kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội…ở nông thôn Vĩnh Phúc đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ cùng với đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đặt ra những yêu cầu mới về thực thi và mở rộng dân chủ ở nông thôn. Đồng thời, từ thực tiễn thực hiện dân chủ ở nông thôn Vĩnh Phúc những năm qua, tác giả đi sâu luận chứng những vấn đề có liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ của luận văn. - Phương pháp nghiên cứu: Tác giả sử dụng tổng hợp những nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó chú trọng sử dụng phương pháp logíc và lịch sử; phân tích và tổng hợp, kết hợp với phương pháp so sánh và điều tra xã hội học để nghiên cứu và trình bày kết quả nghiên cứu. 6 - Ý nghĩa của luận văn - Ý nghĩa lý luận: Góp phần phát triển hướng nghiên cứu mới về lý luận và tổng kết thực tiễn về dân chủ ở nước ta từ góc độ cơ sở và hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn. - Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, nghiên cứu về dân chủ cơ sở, quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn trong các trường Đại học, Cao đẳng và các trường Chính trị trong cả nước, và những ai quan tâm tới đề tài nghiên cứu này. Luận văn góp phần nhỏ bé vào việc đưa ra những luận cứ khoa học cung cấp cho HTCT cơ sở trong việc nâng cao chất lượng thực hiện dân chủ và đấu tranh chống những tiêu cực, hạn chế đang cản trở việc thực thi và mở rộng dân chủ cho nông dân ở vùng nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng và nông thôn cả nước nói chung. 7 - Kết cấu của luận văn Luận văn gồm phần mở đầu, 2 chương, 4 tiết, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. 1 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở NÔNG THÔN TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY 1.1 Thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay và vai trò của nó 1.1.1 Quan niệm về thực hiện dân chủ Dân chủ là vấn đề thu hút được sự quan tâm, chủ ý của nhiều học giả, nhiều chính khách ở các quốc gia trên thế giới. Thuật ngữ dân chủ xuất hiện từ thời Hy Lạp cổ đại, Hêrôđốt(484-425 TCN) là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ này khi xem xét các thể chế chính trị trong lịch sử. Theo ông, dân chủ là một thể chế mà quyền lực do nhân dân nắm giữ thông qua con đường phổ thông đầu phiếu. Trong ngôn ngữ của người Hy Lạp, Demokratos là dân chủ, trong đó Demos là nhân dân, kratos là quyền lực. Như vậy, theo nghĩa khởi thuỷ, dân chủ là nghĩa quyền lực thuộc về nhân dân. Cùng với sự phát triển của xã hội, khái niệm dân chủ ngày càng được mở rộng với nhiều nội dung khác nhau. Trong ngôn ngữ hiện đại, dân chủ được hiểu là một hình thức tổ chức quyền lực nhà nước của một giai cấp, một chế độ xã hội; là nguyên tắc tổ chức, quản lý xã hội; là tính chất của các mối quan hệ giữa các cộng đồng người; là một giá trị xã hội, một lý tưởng giải phóng con người hướng tới tự do và thực hiện quyền làm chủ xã hội, làm chủ nhà nước và làm chủ bản thân mình, dân chủ là nhu cầu khách quan của con người, là sản phẩm của nền văn minh, là điều kiện, tiêu chuẩn của sự phát triển và tiến bộ xã hội… Dân chủ là hiện tượng lịch sử xã hội gắn liền với sự tồn tại và phát triển của đời sống con người. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, với điều kiện cụ thể chi phối, quan niệm về dân chủ của con người cũng biến đổi theo. Từ thực tiến lịch sử ra đời và phát triển của dân chủ, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin với phương pháp tư duy biện chứng và lập trường duy vật đã nghiên cứu, khái quát vấn đề dân chủ một cách sâu sắc và toàn diện. C.Mác là người đầu tiên nêu lên quan niệm dân chủ với tầm khái quát về bản chất nhất của khái niệm này. Theo C.Mác, nền dân chủ là sản phẩm tự quyết của nhân 2 dân, phản ánh sự tồn tại của con người với tất cả ý chí, tài năng và lợi ích của. Với tư cách là quyền lực của nhân dân, dân chủ là sự phản ánh những giá trị nhân văn, là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân chống lại áp bức, bóc lột, bất công. Chỉ có trong chế độ dân chủ thực sự con người mới vĩnh viễn được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công và thực sự được làm chủ, nhà nước không còn đối lập với nhân dân, mà nó sẽ tồn tại dưới hình thức đặc thù của nhân dân - nhà nước nhân dân. Ông viết: “Dưới chế độ quân chủ, tổng thể, tức nhân dân bị đặt vào trong một phương thức tồn tại của họ, tức là chế độ chính trị của họ. Còn trong chế độ dân chủ thì bản thân chế độ nhà nước thể hiện ra là một trong những tính quy định cụ thể là sự tự quy định của nhân dân, trong chế độ quân chủ chúng ta có nhân dân của chế độ nhà nước, trong chế độ dân chủ chúng ta có chế độ nhà nước của nhân dân” [19, tr.349]. Tư tưởng về dân chủ của C.Mác và Ph.Ăngghen đó vượt lên so với tất cả các quan niệm về dân chủ đã từng tồn tại trước đó khi nêu lên con đường, biện pháp để thiết lập những thiết chế bảo đảm và thực hiện quyền dân chủ cho nhân dân. Mác và Ăngghen trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã nêu rõ: “bước thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị giành lấy dân chủ” [20, tr.626]; bước thứ hai là: “tiêu diệt luôn cả những điều kiện tồn tại của đối kháng giai cấp, nó tiêu diệt các giai cấp nói chung và cũng do đấy, tiêu diệt cả sự thống trị của nó với tư cách là một giai cấp” [20, tr.628]. Có thể thấy, tư tưởng cốt lõi trong học thuyết của C.Mác, xét đến cùng, chính là giải phóng con người, giải phóng toàn xã hội, mà xây dựng dân chủ và thực hiện dân chủ chính là cơ sở, nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực để thực hiện giải phóng con người. C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhận định rõ con đường và xu hướng vận động phát triển tất yếu của chế độ dân chủ XHCN gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là bước tiến cơ bản về dân chủ, vì mục tiêu của cuộc cách đó là giành lấy dân chủ cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa gắn liền với kết quả thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Mỗi thắng lợi của giai cấp công nhân đều gắn liền với kết quả tổ chức thực hiện thắng lợi quyền dân chủ của nhân dân. Trong tiến trình đó, trước hết, giai cấp công nhân phải cùng với nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, 3 dùng bạo lực cách mạng đập tan bộ máy nhà nước tư sản, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, thiết lập nhà nước vô sản, đưa nhân dân lao động từ địa vị bị thống trị lên địa vị làm chủ, từ đó làm cơ sở để từng bước thực hiện quyền dân chủ cho nhân dân. Xây dựng CNXH là tiến tới một xã hội tự do, công bằng, bình đẳng, một xã hội mà “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người”. Muốn đạt được điều đó thì nhân dân phải làm chủ và kiểm soát quyền lực nhà nước. Không chỉ trong lý luận, mà trong mọi hoạt động thực tiễn của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã kiên quyết đấu tranh ủng hộ các lực lượng dân chủ, cho bình đẳng xã hội và quyền làm chủ của nhân dân lao động trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, về cơ bản những hoạt động của C.Mác và Ph.Ăngghen diễn ra trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh chế độ XHCN chưa thực hiện, nên vấn đề thực hiện dân chủ mới là những tư tưởng cơ bản, mang tính chất đặt nền móng, định hướng. Đến giai đoạn V.I.Lênin, với thực tiễn cách mạng thế giới và đặc biệt là thực tiễn cách mạng nước Nga, giúp cho Lênin có cơ sở đầy đủ để nhận thức và giải quyết vấn đề dân chủ cũng như thực hiện dân chủ trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, trong điều kiện giai cấp vô sản đã nắm được chính quyền, thiết lập được nhà nước chuyên chính vô sản của mình. Khi đánh giá về chế độ dân chủ tư sản, Lênin cho rằng “…là một chế độ thuần túy nhất và hoàn hảo nhất trong các chế độ mang tính chất tư sản…”[15, tr.377] “song trước sau nó vẫn là - và dưới chế độ tư bản nó không thể không là - một chế độ dân chủ chật hẹp, bị cắt xén, giả hiệu, giả dối, một thiên đường cho bọn giàu có” [18, tr.305]. Sở dĩ có điều đó, vì “trong chế độ dân chủ tư sản, bọn tư bản dùng trăm phương ngàn kế …để gạt quần chúng ra, không cho họ tham gia quản lý nhà nước…không cho quần chúng lao động tham gia nghị viện tư sản - nghị viện tư sản…một công cụ áp bức của giai cấp tư sản đối với vô sản” [18, tr.311]. Do vậy, những người cộng sản không được ảo tưởng, quá hy vọng vào những cải cách trong chế độ tư bản chủ nghĩa, cũng không được coi “…chế độ cộng hòa dân chủ là chế độ dân chủ thuần túy, là nhà nước nhân dân tự do”. Ph.Ăngghen đã khẳng định, còn nhà nước là không có tự do, khi có tự do thì không còn nhà nước. 4 Với những luận điểm sắc bén trên, V.I.Lênin đã phê phán quan điểm mơ hồ của những người “tự do” về bản chất giai cấp của dân chủ, V.I.Lênin chỉ ra cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động không bao giờ được quên bản chất giai cấp của dân chủ, phải luôn đặt câu hỏi: quyền dân chủ đó của ai, cho giai cấp nào và cho cái gì?. Những người “tự do” thuần túy thường chỉ nói đến dân chủ nói chung, còn những người cách mạng bao giờ cũng đòi hỏi quyền thực hiện dân chủ cho giai cấp cụ thể. Bản chất giai cấp của dân chủ là không thể phủ nhận. Dân chủ là nguyên tắc số ít phục tùng số đông, thiểu số phục tùng đa số. Điều đó có nghĩa là một bộ phận dân cư này dùng quyền lực của mình buộc bộ phận khác phục tùng theo ý chí của họ. Do vậy, giai cấp nào nắm được chính quyền nhà nước họ sẽ tổ chức bộ máy nhà nước, xây dựng thiết chế xã hội nhằm thực hiện và bảo vệ quyền lợi của giai cấp đó. Nhà nước dân chủ tư sản là cơ quan quyền lực của giai cấp tư sản nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp này. Những người cộng sản không được hy vọng thông qua dân chủ tư sản để giành chính quyền về tay giai cấp công nhân, nhân dân lao động. Lênin đã chỉ ra “Muốn đánh đổ chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc thì không thể dùng những cải cách dân chủ, dù là cải cách dân chủ “lý tưởng” đi nữa”. [16, tr.92], mà phải dùng bạo lực cách mạng để đạp tan bộ máy nhà nước của giai cấp tư sản, thiết lập chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Chuyên chính vô sản là một hình thức nhà nước và chế độ dân chủ vô sản cũng là một hình thức chính quyền. Chuyên chính và dân chủ là hai mặt không thể tách rời của chuyên chính vô sản, hai mặt đó có quan hệ chặt chẽ tác động lẫn nhau. Dưới CNXH chuyên chính càng thực hiện triệt để bao nhiêu thì dân chủ ngày càng được mở rộng bấy nhiêu. Ngược lại, quyền lực thực tế của nhân dân lao động càng được tôn trọng và thực hiện, sẽ tạo điều kiện cho chuyên chính thực hiện tốt hơn; và một khi dân chủ đã trở thành thói quen, tập quán thì chuyên chính và nhà nước cũng trở nên không cần thiết. V.I.Lênin còn nhấn mạnh “thủ tiêu nhà nước cũng là thủ tiêu chế độ dân chủ, và nhà nước tiêu vong cũng là chế độ dân chủ tiêu vong” [17, tr.101] V.I.Lênin cũng chỉ ra rằng, trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản chúng ta phải tận dụng những quyền tự do dân chủ do chế độ đó tạo ra để tuyên truyền giác ngộ quần chúng nhân dân, giáo dục ý thức xã hội chủ nghĩa cho giai cấp công nhân, nhân dân 5 lao động nhằm tiến tới thiết lập chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, chế độ dân chủ cho quảng đại quần chúng nhân dân lao động. Chỉ thông qua chuyên chính vô sản mới có chế độ dân chủ thực sự cho nhân dân lao động, V.I.Lênin viết: “Các Xôviết công nhân và nông dân là một kiểu mới về nhà nước, một kiểu mới cao nhất về dân chủ, đó là hình thức cao nhất của chuyên chính vô sản…lần đầu tiên, ở đây chế độ dân chủ phục vụ quần chúng, phục vụ những người lao động, nó không còn là dân chủ cho bọn nhà giàu” [16, tr.92]. Sau khi bị tước chính quyền, giai cấp tư sản không bao giờ chấp nhận để cho giai cấp công nhân xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, mà luôn tìm trăm phương ngàn kế để lật đổ chính quyền của giai cấp công nhân. Do vậy, những người cộng sản phải thường xuyên nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù. Giai cấp công nhân phải quan tâm tới việc xây dựng nhà nước ngày càng vững mạnh “nhà nước vô sản, một bộ máy để giai cấp vô sản trấn áp giai cấp tư sản, trấn áp như vậy là cần thiết, vì giai cấp tư sản luôn chống lại một cách điên cuồng, khi nó bị tước đoạt” [18, tr.122-123]. Lênin cũng không quên nhắc nhở những người cộng sản: chuyên chính vô sản không chỉ là bạo lực, không phải chủ yếu là bạo lực mà là tổ chức xây dựng xã hội mới. Từ quan điểm của V.I.Lênin chúng ta thấy rằng, muốn thực hiện một nền dân chủ thực sự cho những người lao động, một mặt phải tăng cường chuyên chính vô sản để bảo vệ lợi ích của nhân dân, mặt khác phải làm thế nào để thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia vào việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Vì nếu không tổ chức cho toàn dân quản lý một cách dân chủ những tư liệu sản xuất đã tước đoạt được của giai cấp tư sản thì không thể thực hiện được những biện pháp cách mạng. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền làm chủ của quần chúng nhân dân lao động trở thành hiện thực, Lênin cũng chỉ ra sự cần thiết của việc thiết lập mối liên hệ mật thiết giữa toàn bộ bộ máy chính quyền nhà nước và quản lý nhà nước với quần chúng nhân dân lao động. Chính mối liên hệ mật thiết gần gũi của chính quyền nhà nước với nhân dân: đã tạo ra những hình thức đặc biệt của sự bãi miễn và của thứ kiểm tra từ dưới lên. 6 Một vấn đề quan trọng và cấp thiết trong việc quần chúng nhân dân lao động xây dựng chế độ dân chủ, đó là xây dựng chế độ dân chủ từ cơ sở; coi xây dựng dân chủ từ cơ sở là bảo đảm cho một nền dân chủ tự do chân chính; và điều kiện quan trọng hơn cả là phải thực hiện chế độ dân chủ từ cơ sở, trong thực tiễn. V.I.Lênin chỉ rõ: không phải chỉ tuyên truyền về dân chủ, tuyên bố và ra sắc lệnh về dân chủ là đủ, không phải chỉ giao trách nhiệm thực hiện dân chủ cho những người đại diện nhân dân trong những cơ quan đại biểu là đủ. Cần phải xây dựng ngay một thiết chế chặt chẽ, một kỷ luật lao động nghiêm minh, một chế độ dân chủ bắt đầu từ cơ sở, dựa vào sáng kiến của bản thân quần chúng, làm cho nó trở nên thấm nhuần và thực hiện rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Qua phân tích những luận điểm cơ bản, khái quát của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ, mặc dù chưa đề cập về cơ chế, thiết chế thực hiện dân chủ, song tư tưởng về thực hiện dân chủ XHCN đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin nêu ra, bổ sung và phát triển cùng với sự phát triển của thực tiễn lịch sử. Những tư tưởng quý báu ấy thực sự là một di sản lý luận, là kim chỉ nam cho các Đảng Cộng sản kế thừa, tiếp thu và vận dụng vào xây dựng và phát huy dân chủ XHCN trong những điều kiện cụ thể. Kế thừa những di sản về dân chủ trong lịch sử nhân loại, những tư tưởng dân chủ tiến bộ phương Tây, trực tiếp là tư tưởng dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin được phản ánh trên nhiều phương diện khác nhau, Hồ Chí Minh đã trung thành và phát triển hết sức sáng tạo tư tưởng về dân chủ và thực hiện dân chủ phù hợp với đặc thù dân tộc Việt Nam. Suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh luôn hy sinh, phấn đấu cho dân, cho nước để thực hiện cho được mong ước cuối cùng là Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Người còn khẳng định sự cần thiết phải thực hiện dân chủ cho quần chúng nhân dân lao động, vì Người có cách nhìn mới về những người lao động với một tấm lòng kính trọng: Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Nhân dân lao động trong bất cứ thời đại nào cũng là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội, là những người chế tạo ra công cụ lao động, sử dụng công đó tác động vào tự nhiên, buộc tự nhiên phục vụ cho con người. 7 Sau thắng lợi vĩ đại Cách mạng Tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh cùng với các đồng chí của mình đã nỗ lực không ngừng để thực hiện những quyền dân chủ cơ bản của người công dân Việt Nam trên thực tế. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời chính là kết quả của việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Dưới chính quyền dân chủ của nhân dân Việt Nam, người dân đã có quyền tham gia vào mọi công việc của đất nước, từ việc to đến việc nhỏ, từ trung ương tới địa phương: “Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ trung ương tới xã do dân tổ chức nên” [21, tr.133]. Người luôn đặt nhân dân vào vị trí chủ thể của nhà nước, của nền dân chủ XHCN, địa vị cao nhất trong nền dân chủ ấy là nhân dân. Người viết: “Dân chủ là dân là chủ, và dân làm chủ” [28, tr.249]. Theo quan niệm này, nhân dân là người tổ chức ra nhà nước XHCN, đồng thời có nghĩa vụ, trách nhiệm bảo vệ, củng cố, xây dựng bộ máy nhà nước ấy. Ngược lại, nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền lợi, lợi ích của nhân dân, nhân dân và nhà nước XHCN là mối quan hệ thống nhất biện chứng không thể tách rời. Quyền tự do, dân chủ của nhân dân lao động nước ta còn được thực hiện thông qua các đoàn thể quần chúng. Hồ Chí Minh viết: “Nước ta là một nước dân chủ. Mọi công việc đều vì lợi ích của nhân dân mà làm. Khắp nơi có đoàn thể nhân dân, như Hội đồng nhân dân, Mặt trận, Công đoàn, Hội nông dân cứu quốc, phụ nữ cứu quốc…Những đoàn thể ấy là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền của dân, liên lạc mật thiết nhân dân với Chính phủ” [23, tr.66]. Khi nói về vai trò của thực hiện dân chủ, Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân chủ là quý báu nhất của nhân dân” [25, tr.279], “Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” [21, tr.56]. “Dân chỉ biết giá trị của tự do , của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Khi nói dân là chủ là nói đến lợi ích của dân, song lợi ích phải gắn liền với quyền hạn. Dân chủ còn phải thể hiện là dân làm chủ. Khi nói dân làm chủ, Hồ Chí Minh xác định quyền làm chủ của dân phải là: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước do nhân dân làm chủ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân, tức là: Tuân theo pháp luật Nhà nước. Tuân theo kỷ luật lao động. Giữ gìn trật tự 8 chung. Đóng góp (nộp thuế) đúng kỳ, đúng số để xây dựng lợi ích chung. Hăng hái tham gia công việc chung, bảo vệ tài sản công cộng. Bảo vệ Tổ quốc” [24, tr.452]. Người còn chỉ rõ trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, thực hiện dân chủ là điều kiện để tiến đến CNXH. Bởi vì, chỉ có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên, mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Vì vậy, Người yêu cầu Đảng và Nhà nước ta phải: “Lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến đến CNXH” [23, tr.174]. Đồng thời Người còn đặt ra nhiệm vụ cho tổ chức Đảng, đảng viên và các tổ chức chính trị xã hội phải: “Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền làm chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình dám nói dám làm” [28, tr.223]. Không ai khác, chính nhân dân là chủ thể, là mục tiêu của dân chủ, nhân dân là người làm chủ, thực thi dân chủ và phải tích cực chủ động xây dựng và mở rộng dân chủ. Người dạy: “Đã là người chủ thì phải biết tự mình lo toan, gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ. Mỗi người phải ra sức góp công góp của để xây dựng nước nhà. Chớ nên ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau” [27, tr.310]. Những việc làm, những hành động cụ thể mà người dân làm chủ phải thể hiện thông qua công việc của chính mình. Nông dân đã có ruộng, đã làm chủ nông thôn. Là người chủ, bà con nông dân phải ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Người công nhân đã là chủ xí nghiệp, chủ nước nhà phải tự nguyện, tự giác giữ kỷ luật lao động. Giờ làm việc thì đi chậm, chưa hết giờ đã nghỉ không phải là thái độ của người làm chủ xí nghiệp, làm chủ Nhà nước. “Đã là người chủ nhà nước thì phải chăm lo việc nước như chăm lo việc nhà. Người công nhân phải yêu quý máy móc như yêu quý con mình, người nông dân phải yêu quý trâu bò của hợp tác xã như bạn thân của mình” [27, tr.310]. Vậy là, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, quyền làm chủ của nhân dân luôn gắn với nghĩa vụ công dân, dân chủ luôn đi đôi với trật tự, kỷ cương: “nhân dân có quyền lợi làm chủ thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân…” [24, tr.452]. Tất cả mọi người dù ở cương vị nào, làm công việc gì cũng “phải làm tròn nghĩa vụ của người chủ: cần kiệm xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội” [27, tr.484]. Khi nói về nội dung của thực hiện dân chủ XHCN, Người cho rằng, trong nền dân chủ nhân dân thì nội dung thực hiện dân chủ phải được bảo đảm trên mọi lĩnh vực
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan