Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực hiện chính sách xã hội tại phòng lao động tbxh huyện xuân lộc, tỉnh đồng na...

Tài liệu Thực hiện chính sách xã hội tại phòng lao động tbxh huyện xuân lộc, tỉnh đồng nai

.DOC
16
545
55

Mô tả:

Chính sách xã hội
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH ĐỒNG NAI LỚP TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HÀNH CHÍNH KHÓA 93 NĂM 2015 ---    ---  Chủ đề: Thực hiện chính sách xã hội tại phòng Lao động Thương binh và Xã hội huyện Xuân Lộc, giai đoạn 2013-2015 Khoa hướng dẫn: Khoa dân vận Học viên thực hiện: Lý Hoàng Bích Chi Tổ: 5 Đơn vị: VP. HĐND và UBND huyện Xuân Lộc Tháng 7 năm 2015 š › MỤC LỤC I. PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................1 1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài.................................................................1 2. Mục đích nghiên cứu.............................................................................................1 3. Phạm vi nghiên cứu...............................................................................................1 II. NỘI DUNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH Xà HỘI TẠI PHÒNG LAO ĐỘNG THƯƠNG BINH VÀ Xà HỘI HUYỆN XUÂN LỘC GIAI ĐOẠN 20132015...........................................................................................................................2 1. Cơ sở lý luận về chính sách xã hội........................................................................2 2. Thực tiễn việc thực hiện chính sách xã hội tại phòng Lao động Thương binh và Xã hội, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai…………….…………………………..…4 a. Đặc điểm tình hình Xuân Lộc………………………………...………….………….....4 b. Kết quả của việc thực hiện chính sách xã hội tại phòng Lao động Thương binh và Xã hội huyện giai đoạn 2013 - 2015 ……………………………………….……...…4 * Ưu điểm..................................................................................................................8 * Hạn chế...................................................................................................................8 c. Một số giải pháp, kiến nghị góp phần làm tốt việc thực hiện chính sách xã hội tại phòng Lao động Thương binh và Xã hội huyện trong thời gian tới..........................8 * Giải pháp................................................................................................................9 * Kiến nghị..............................................................................................................10 III. KẾT LUẬN......................................................................................................10 MỤC LỤC..............................................................................................................12 TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................13 I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài Như chúng ta đã biết, công cuộc đổi mới đất nước thực chất là một quá trình nhận thức đúng đắn hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Hồ chí Minh đã đưa ra quan điểm về bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa, là thực hiện mong muốn “Đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Thực hiện lời di huấn của người: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng. Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”. Do vậy, chính sách xã hội giữ vai trò rất quan trọng không thể thiếu trong hệ thống chính sách của Đảng và nhà nước ta. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội khẳng định: “Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng các chính sách xã hội vì mục tiêu làm cho “Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh”, bản thân là một Đảng viên, một công dân đang sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa, được hưởng thụ những chính sách của Đảng và Nhà nước. Tôi rất vinh dự và tự hào vì Đảng ta đã đề ra các chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với điều kiện xã hội qua các thời kỳ. Đặc biệt trong giai đoạn cách mạng hiện nay, đòi hỏi Đảng phải đề ra các chính sách xã hội đúng và phù hợp với thực tế. Bởi vì, thực tiễn cho thấy quá trình triển khai thực hiện một số chính sách xã hội như chính sách người có công, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm …còn gặp nhiều khó khăn và bất cập đòi hỏi Đảng và Nhà nước cũng như mỗi cán bộ đảng viên cần quan tâm nhiều hơn nữa đến chính sách xã hội. Việc thực hiện các chính sách xã hội của phòng Lao động Thương binh và Xã hội huyện Xuân Lộc trong những năm gần đây, tuy có nhiều tiến bộ và kết quả đáng kể song vẫn gặp không ít khó khăn, một số chính sách xã hội trở thành vấn đề bức xúc của địa phương cần phải có những giải pháp thiết thực để giải quyết có hiệu quả cho nhân dân. Vì vậy, việc nghiên cứu lý giải một cách có hệ thống, đánh giá chung thực trạng việc thực hiện chính sách xã hội, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt chính sách xã hội trên địa bàn huyện vừa có ý nghĩa lý luận và là vấn đề cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ lý do đó, tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Thực hiện chính sách xã hội tại phòng Lao động Thương binh và Xã hội huyện Xuân Lộc, giai đoạn 2013 - 2015” với mong muốn ứng dụng những kiến thức đã học góp phần vào việc thực hiện chích sách xã hội trên địa bàn huyện ngày một hoàn thiện hơn. 2. Mục đích nghiên cứu Nhằm nắm được thực trạng việc thực hiện chính sách xã hội tại phòng Lao động Thương binh và Xã hội trên địa bàn huyện Xuân Lộc giai đoạn hiện nay với những thuận lợi, khó khăn, thành tựu, hạn chế để đưa ra được các giải pháp, kiến nghị thiết thực góp phần thực hiện tốt hơn các chính sách xã hội trong thời gian tới. 3. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài là việc thực hiện chính sách xã hội tại phòng Lao động Thương binh và Xã hội huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai trong khoảng thời gian từ năm 2013 đến năm 2015. II. NỘI DUNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH Xà HỘI TẠI PHÒNG LAO ĐỘNG THƯƠNG BINH VÀ Xà HỘI HUYỆN XUÂN LỘC GIAI ĐOẠN 2013 2015 1. Cơ sở lý luận về chính sách xã hội Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chính sách xã hội là cả cuộc đời “chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước được độc lập, tự do, nhân dân ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”, được nâng cao mức sống, điều kiện sống, chất lượng sống là cái ăn ở, cái đi lại, là cuộc sống đời thường của đại đa số người dân trong xã hội. Mong muốn này đã trở thành một mối quan tâm trăn trở, một nỗi niềm day dứt trong tâm trí của Hồ Chí Minh. Để rồi từ đó trở thành những hành động cụ thể, những việc làm thiết thực và sâu xa hơn nữa là trở thành những chủ trương, chính sách, những đường lối sáng suốt, đúng đắn có sức mạnh và tác dụng thần kỳ đưa sự nghiệp cách mạng cùng toàn thể đất nước vượt qua những thử thách cam go vững bước tiến vào kỷ nguyên tươi sáng. Chúng ta có thể thấy những việc Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cụ thể như là: đề xướng các hoạt động cứu trợ xã hội với tính cách là một phong trào phúc lợi khi kêu gọi nhân dân cả nước quyên góp giúp đỡ người nghèo; đồng thời, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với đời sống nhân dân là “…phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân dân. Phải lãnh đạo tổ chức, giáo dục nhân dân tăng gia sản xuất và tiết kiệm. Dân đủ ăn, đủ mặc thì những chính sách của chính phủ đưa xuống sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay mấy cũng không thực hiện được”. Nhận thức được tầm quan trọng của Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) trong khi đề ra đường lối đổi mới toàn diện để phát triển đất nước đã đặt đúng vị trí, tầm quan trọng của chính sách xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng. Đại hội đã coi chính sách xã hội là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước, một bộ phận cấu thành chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, là động lực to lớn phát huy tính năng động, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Đại hội khẳng định: “Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của đời sống con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc…cần thể hiện đầy đủ, thực tế trong quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội”. Từ nhận thức: “Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế”, Đại hội VI của Đảng ta đã nhấn mạnh: cần có chính sách xã hội cơ bản, lâu dài và xác định những nhiệm vụ, mục tiêu phù hợp với yêu cầu, khả năng trong chặng đường đầu tiên. Đó là một bước tiến mới trong nhận thức về chính sách xã hội của Đảng. Tuy nhiên việc hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội phải dựa trên các quan điểm sau: Thứ nhất, chính sách xã hội phản ánh quan điểm lãnh đạo của Đảng. Theo quy định của Điều lệ Đảng và Hiến pháp năm 2013, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Do vậy, việc hoạch định và thực hiện hệ thống chính sách xã hội phải đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo. Trải qua các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc bổ sung, phát triển, đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), Đảng đã đề ra quan điểm chỉ đạo việc hoạch định hệ thống chính sách xã hội, đó là: tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển; việc thực hiện thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế làm chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cức xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân cư; phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”…; các vấn đề chính sách xã hội được giải quyết theo tinh thần xã hội. Thứ hai, chính sách xã hội phải do Nhà nước quản lý, tuân theo pháp luật. Việt Nam đang đẩy mạnh công cuộc xây dựng và thực hiện Nhà nước pháp quyền, do vậy việc ban hành và thực hiện hệ thống chính sách xã hội nhằm giải quyết các vấn đề xã hội phải tuân thủ và dựa trên cơ sở các quy định của hệ thống pháp luật. Hệ thống chính sách phải đặt dưới sự quản lý của Nhà nước. Thứ ba, chính sách xã hội phải đảm bảo do nhân dân làm chủ, thể hiện chính sách xã hội của dân, do dân, vì dân. Nhà nước mà Đảng và nhân dân ta xây dựng và hướng đến là nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Do vậy, việc hoạch định và thực hiện chính sách xã hội của đất nước trước hết phải đảm bảo nguyên tắc: của dân, do dân và vì dân. Ngoài ra còn có một số quan điểm về hoạch định và thực hiện chính sách xã hội trong giai đoạn hiện nay như: quan điểm giai cấp, quan điểm phát triển, quan điểm hệ thống và quan điểm khoa học. Trên cơ sở đó, giúp cho Đảng, Nhà nước đề ra và thực hiện chính sách xã hội có hiệu quả, thiết thực, phù hợp với từng thời kỳ, từng giai đoạn, từng vùng miền… Song để đảm bảo thực hiện tốt các chính sách xã hội trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta xác định: Thứ nhất là, không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người có công và bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Thứ hai là, chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hội phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và khả năng huy động, cân đối nguồn lực của đất nước trong từng thời kỳ; ưu tiên người có công, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số. Thứ ba là, hệ thống an sinh xã hội phải đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ; bảo đảm bền vững, công bằng. Thứ tư là, nhà nước bảo đảm thực hiện chính sách ưu đãi người có công và giữ vai tro chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội; đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp và người dân tham gia. Đồng thời tạo điều kiện để người dân nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh. Thứ năm là, tăng cường hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách xã hội. 2. Thực tiễn việc thực hiện chính sách xã hội tại phòng Lao động Thương binh và Xã hội, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai a. Đặc điểm tình hình huyện Xuân Lộc Xuân Lộc là huyện trung du miền núi, nằm ở hướng Đông Bắc tỉnh Đồng Nai được thành lập từ 01/7/1991, giáp ranh với các tỉnh Bình Thuận, chiều dài ranh giới hành chính tiếp giáp là 70 km. Phía Đông giáp huyện Hàm Tân, Đông Bắc giáp huyện Tánh Linh và huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận, phía Nam giáp huyện Cẩm Mỹ, phía Tây giáp thị xã Long Khánh, phía Bắc giáp huyện Định Quán. Trước đây, Xuân Lộc có 21 xã, thị trấn. Năm 2003, thực hiện Nghị định 97/CP của Chính phủ huyện Xuân Lộc bàn giao sang huyện Cẩm Mỹ 06 xã . Hiện nay, huyện Xuân Lộc là huyện miền núi được thành lập năm 1991 trên cơ sở chia tách huyện Xuân Lộc (cũ), có 15 đơn vị hành chính gồm 14 xã và 01 thị trấn với 91 khu, ấp được chia thành 1.238 tổ nhân dân; Diện tích tự nhiên 72.719,48 ha; Dân số là 234.187 người; Mật độ 322 người/km 2. Toàn huyện có 24 dân tộc sinh sống với 20.113 khẩu, chiếm tỉ lệ 8,58% dân số. Có 14 xã và 01 thị trấn được Trung ương công nhận là xã miền núi. b. Kết quả của việc thực hiện chính sách xã hội tại phòng Lao động Thương binh và Xã hội huyện giai đoạn 2013 - 2015 Trong thời gian qua, phòng Lao động Thương binh và Xã hội huyện đã tham mưu cho UBND huyện và phối hợp với các cấp ủy Đảng, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể huyện, UBND các xã, thị trấn, cán bộ và các tầng lớp nhân dân trên địa bàn huyện đã chung tay thực hiện các chính sách xã hội đạt được nhiều kết quả: Thứ nhất, chính sách lao động việc làm, riêng trong năm 2014 huyện đã giải quyết việc làm cho 7.250 lượt lao động, đạt 103,6% kế hoạch. Trong đó, đưa vào làm việc ở các công ty, xí nghiệp 4.211 lao động, giải quyết việc làm tại chỗ từ nguồn vốn vay, kể cả giảm nghèo 1.980 lao động, tạo việc làm từ chương trình dạy nghề cho lao động nông thôn là 1.059 lao động. Phòng Lao động Thương binh và Xã hội huyện đã tham mưu cho UBND huyện triển khai tổ chức hưởng ứng Tuần lễ quốc gia về an toàn, vệ sinh lao động, phòng chống cháy nổ. Kết quả đã tổ chức 01 lớp tập huấn, huấn luyện An toàn vệ sinh lao động với số lượng 85 người; treo 10 băng rôn, khẩu hiệu, áp phích tại văn phòng điện lực, các tổ trực điện khu vực và tại một số doanh nghiệp trên địa bàn huyện; phát 450 tờ rơi; phối hợp với Đài truyền thanh huyện và các xã tập trung tuyên truyền trong Tuần lễ quốc gia; tham mưu hội đồng thi đua khen thưởng huyện chọn 03 đơn vị doanh nghiệp thực hiện tốt công tác An toàn vệ sinh lao động, phòng chống cháy nổ đề nghị cấp trên khen thưởng. Bên canh đó tham mưu cho UBND huyện thành lập đoàn kiểm tra tình hình thực hiện pháp luật lao động tại các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động tại địa phương, qua đó nhằm hướng dẫn cho chủ doanh nghiệp thực hiện tốt pháp luật lao động như xây dựng bảng lương, xây dựng nội quy lao động, chế độ lao động nữ…Đồng thời, rà soát tình hình hoạt động của tất cả các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn huyện về nhu cầu tuyển dụng lao động để phối hợp hướng dẫn với các xã, thị trấn tuyển dụng, giải quyết việc làm cho nhân dân địa phương và đảm bảo tiêu chí giải quyết việc làm trong năm. Ngoài ra, phòng còn phối hợp với Liên đoàn lao động huyện và các ngành liên quan, theo dõi, giám sát tình hình quản lý công nhân của Khu công nghiệp trên địa bàn huyện (cụ thể là công ty TNHH giày Dona standard), nhằm phối hợp tuyên truyền, giải thích chính sách của nhà nước cho công nhân để hạn chế, ngăn chặn kịp thời tình trạng công nhân lợi dụng tình hình biển Đông gây rối trật tự công cộng trên địa bàn huyện. Đến cuối năm 2014, cơ cấu lao động trong nền kinh tế theo các lĩnh vực: nông nghiệp 37,7%, công nghiệp 27,3%, dịch vụ 35%, giảm tỷ lệ lao động thất nghiệp còn 1,11%. Trong thời gian tới, phòng tiếp tục tập trung tham mưu UBND huyện đẩy mạnh công tác đào tạo tay nghề, kết hợp chặt chẽ với đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong khu vực nông thôn tại các xã và dịch chuyển lao động ra khỏi khu vực nông thôn để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn định gắn liền cải thiện an sinh xã hội. Thứ hai, chính sách đào tạo nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn, tổ chức ký hợp đồng với Trung tâm dạy nghề huyện mở lớp dạy nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện; kết quả đến cuối năm 2014 đã dạy nghề cho 1.224 người, đạt 102% kế hoạch đề ra năm 2013, kinh phí thực hiện 2.500 triệu đồng. Ngành nghề đào tạo tập trung vào các nhóm nghề như: lĩnh vực nông nghiệp chiếm tỷ lệ 60% gồm các nghề: kỹ thuật trồng tiêu, cao su, cây có múi; kỹ thuật chăn nuôi bò, dê; dạy nghề phi nông nghiệp chiếm tỷ lệ 40%, gồm các nghề như: Kỹ thuật may công nghiệp, kỹ thuật sửa xe máy, sửa máy nổ, sửa chữa điện dân dụng…, các ngành nghề mà người dân trên địa bàn huyện có nhu cầu. Sau khi được đào tạo nghề, người lao động tìm được việc làm mới, áp dụng kiến thức đã học vào sản xuất chăn nuôi tăng thu nhập đạt tỷ lệ trên 85%, mức thu nhập của người lao động tương đối ổn định từ 1,7 - 3.5 triệu đồng/người/tháng. Đến cuối năm 2014, tỷ lệ qua đào tạo đạt 65,6%, trong đó tỷ lệ qua đào tạo nghề đạt 49,07%. Thứ ba, công tác chăm lo chính sách cho người có công, hiện nay người có công trên địa bàn huyện đang quản lý là 2.962 hồ sơ; trong năm 2014, kinh phí trợ cấp cho gia đình chính sách, người có công số tiền 21.614,648 triệu đồng. Trong đó: chi trả trợ cấp hàng tháng cho 1.032 lượt hộ chính sách người có công, số tiền 17.568,8 triệu đồng; trợ cấp mai táng phí cho 38 người, số tiền 672 triệu đồng; trợ cấp 01 lần cho 10 người hưởng chế độ thanh niên xung phong, số tiền 25 triệu đồng; trợ cấp ưu đãi giáo dục năm học 2013 - 2014 cho 168 học sinh, sinh viên con người có công cách mạng theo quy định, số tiền 788 triệu đồng… Trong năm qua, huyện đã cấp được 1.900 thẻ Bảo hiểm y tế, kinh phí 979,141 triệu đồng; đưa 95 người có công cách mạng đi điều dưỡng tại thành phố Vũng Tàu, kinh phí 34,2 triệu đồng; hỗ trợ điều dưỡng tại gia đình 315 người, kinh phí 350 triệu đồng…Bên cạnh đó, vận động quỹ Đền ơn đáp nghĩa năm 2014 đạt 230 triệu đồng, đạt 75,7% kế hoạch; nguồn quỹ này tập trung thực hiện Đề án số 02/ĐA-UBND về nâng cao mức sống gia đình chính sách trên địa bàn huyện (trong đó: đã xây mới 11 căn nhà, sửa chữa 56 căn nhà, kinh phí 2.074 triệu đồng; tặng 20 sổ tiết kiệm, kinh phí 250 triệu đồng; hỗ trợ công trình phụ cho 13 hộ gia đình chính sách còn khó khăn, kinh phí 52 triệu đồng; duy trì phụng dưỡng 78 gia đình chính sách khó khăn với mức từ 500.000 - 600.000 đồng/người/tháng). Thứ tư, chính sách giảm nghèo, trong năm 2014, tổng huy động nguồn lực phục vụ chương trình giảm nghèo số tiền 44.500 triệu đồng, đạt 105,65% kế hoạch đề ra năm 2013. Trong đó, triển khai một số chính sách, dự án giảm nghèo như: giải ngân cho 942 hộ nghèo, hộ cận nghèo vay với số tiền 12.239 triệu đồng, đạt 273,8% kế hoạch về số hộ và đạt 218,5% kế hoạch về số tiền so với cùng kỳ năm 2013. Dự án khuyến nông cho người nghèo đã triển khai được 60 hộ nghèo tại 04 xã nông thôn mới, kinh phí 380 triệu đồng. Trong đó: mô hình nuôi gà thả vườn 20 hộ tham gia, kinh phí 98,72 triệu đồng; mô hình trồng lúa 20 hộ tham gia, kinh phí 79,56 triệu đồng; mô hình trồng bắp 35 hộ tham gia, kinh phí 179,725 triệu đồng; tổ chức được 06 lớp khuyến nông, cầm tay chỉ việc cho 160 hộ nghèo, kinh phí 8,5 triệu đồng. Song song đó là dạy cách chăn nuôi dê cho 25 hộ gia đình tham gia dự án nhân rộng mô hình nuôi dê ở xã Xuân Tâm, kinh phí 45 triệu đồng. Cấp 7.281 thẻ bảo hiểm y tế cho hộ nghèo, kinh phí mua thẻ cả năm số tiền 4.521,5 triệu đồng; hỗ trợ chi phí học tập năm học 2013 - 2014 cho 2.465 học sinh nghèo, mồ côi, tàn tật, kinh phí 1.345,45 triệu đồng; hỗ trợ tiền điện cho 663 hộ nghèo, kinh phí 238,68 triệu đồng; xây dựng 60 căn nhà tình thương, kinh phí 1.800 triệu đồng; cấp 18 ti vi cho hộ nghèo, kinh phí 36 triệu đồng do Ngân hàng Bưu điện liên Việt Bank chi nhánh Đồng Nai tài trợ; Chương trình xây dựng “Ngân hàng bò” huyện vận động được 99 triệu đồng, hỗ trợ được 05 con bò giống cho hộ nghèo, hộ khó khăn. Trợ cấp tiền tết Nguyên đán cho 663 hộ nghèo năm 2014, kinh phí 364,65 triệu đồng. Ngoài ra, nguồn vận động của huyện cấp thêm 5.313 phần quà, tổng trị giá 1.859,55 triệu đồng, cấp cho hộ nghèo, hộ khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số và hộ vừa mới thoát nghèo trong năm 2013 có điều kiện đón Tết. Hưởng ứng ngày dân vận của Đảng, dân vận chính quyền, toàn huyện đã huy động được 2.654 triệu đồng để làm công tác dân vận. Kết quả giúp người dân xây dựng 16 căn nhà, sửa chữa 03 căn nhà tình thương cho họ nghèo khó khăn về nhà ở; trao tặng 102 xuất học bổng cho học sinh nghèo hiếu học; 817 phần quà cho hộ nghèo; phát thuốc và khám bệnh miễn phí cho 800 người nghèo, người khó khăn, gia đình chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số. Ngoài ra, phòng còn tổ chức kiểm tra, giám sát, đánh giá chương trình giảm nghèo của huyện ở các xã, thị trấn. Đồng thời, phối hợp với Đài truyền thanh huyện, các ngành liên quan tổ chức hoạt động truyền thông chương trình giảm nghèo ở các xã xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện. Đến cuối năm 2014, toàn huyện ước giảm 216 hộ nghèo A, đưa tỷ lệ hộ nghèo từ 1,35% xuống còn dưới 1% (là hộ nghèo B). Thứ năm, chính sách bảo trợ xã hội, hiện nay toàn huyện đang quản lý 5.945 người hưởng trợ cấp xã hội theo Nghị định 67/2007/NĐ-CP của Chính phủ về thực hiện các chính sách bảo trợ xã hội. Tổng kinh phí chi trợ cấp xã hội năm 2014 là 29.487,33 triệu đồng. Trong đó, bao gồm chi trả trợ cấp hàng tháng, giải quyết trợ cấp đột xuất, thăm tặng quà tết Nguyên đán, tặng quà cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn…., trợ cấp mai táng phí cho 320 trường hợp, kinh phí 960 triệu đồng. Phối hợp với Ban quản lý dự án các nước ngoài và tổ chức Handicap tài trợ dự án xin việc làm cho người khuyết tật, kinh phí 295,39 triệu đồng; trong đó, hỗ trợ vốn cho 21 trường hợp người khuyết tật, kinh phí 155,39 triệu đồng, cho vay giải quyết việc làm 10 trường hợp, kinh phí 140 triệu đồng. Bên cạnh đó, tổ chức tặng 60 xe lăn, xe lắc và 05 gậy chỉ đường cho người khuyết tật trên địa bàn huyện với tổng kinh phí 155 triệu đồng. Thứ sáu, chính sách bảo vệ và chăm sóc trẻ em, tham mưu ban hành Kế hoạch tổ chức thực hiện tốt Kế hoạch số 144/KH-TU ngày 13/8/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đồng Nai về thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TƯ ngày 05/11/2012 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới”, Kế hoạch thực hiện trợ giúp trẻ em khuyết tật huyện Xuân Lộc giai đoạn 2014 - 2015. Phối hợp với Sở Lao động Thương binh và Xã hội tổ chức tập huấn, khảo sát, kiểm định Ngôi nhà an toàn phòng, chống tai nạn thương tích trẻ em cho Ban chỉ đạo, cộng tác viên thực hiện Ngôi nhà an toàn, phòng chống tai nạn thương tích trẻ em tại các xã Xuân Hưng, Xuân Tâm, Xuân Bắc; đồng thời cũng đã phối hợp với Chi cục Bảo trợ xã hội - Bảo vệ chính sách trẻ em tư vấn cộng đồng cho 4.845 người bao gồm giáo viên, học sinh. Cấp phát khoảng 3.000 tờ rơi về phòng, chống tai nạn thương tích, phòng chống bạo lực xâm hại trẻ em, tổ chức tuyên truyền phòng chống đuối nước, trẻ em bị xâm hại, bạo lực, tai nạn thương tích trẻ em… Tổng kinh phí thực hiện chính sách chăm sóc trẻ em trong năm 2014 là 1.168,1 triệu đồng. Trong đó, phối hợp với tổ chức Hol, Sở Lao động Thương binh và Xã hội, Công ty sữa Vinamilk thăm tặng quà cho học sinh trường Mầm non tư thục Vinh Sơn, trường Mầm non Bình Hòa - Xuân Phú với tổng kinh phí là 130,5 triệu đồng, tặng 2.800 hộp sữa cho trẻ mồ côi tại Cơ sở bảo trợ cô nhi xã Xuân Tâm, kinh phí 12 triệu đồng; thăm tặng 1.300 phần quà cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn dịp tết Nguyên đán và ngày quốc tế thiếu nhi, tết Trung thu kinh phí trên 265 triệu đồng… Trong năm cũng đã vận động ủng hộ Quỹ bảo trợ trẻ em số tiền 150 triệu đồng (vận động đóng góp trên tinh thần tự nguyện là chủ yếu). Thứ bảy, chính sách phòng chống tệ nạn xã hội, công tác cai nghiện phục hồi, tổng số người nghiện ma túy huyện đang quản lý trên địa bàn huyện là 196 người, trong đó: số người nghiện ma túy cuối năm 2013 chuyển qua năm 2014 tiếp tục quản lý là 78 người. Đối với công tác cai nghiện ma túy và cộng đồng, phòng đã tham mưu UBND huyện ban hành Kế hoạch cai nghiện ma túy giai đoạn 2014 2015 trên địa bàn huyện và ban hành quy chế phối hợp tổ chức cai nghiện ma túy, hiện nay có 01 người trên địa bàn huyện tự nguyện vào điều trị cai nghiện bằng thuốc Methadone. Hầu hết các xã, thị trấn trên địa bàn huyện thực hiện tốt công tác phòng chống tệ nạn ma túy, mại dâm và được UBND huyện công nhận. Hướng dẫn các xã, thị trấn lập danh sách, phân loại người nghiện ma túy để áp dụng các hình thức giáo dục, xử lý theo luật định. Thực hiện tốt Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính phủ về áp dụng quản lý đưa người nghiện ma túy vào cai nghiện bắt buộc tại cơ sở chữa bệnh. * Ưu điểm Việc thực hiện các chính sách xã hội trên địa bàn huyện được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, thường xuyên của Huyện ủy, UBND huyện và các ngành chuyên môn thuộc Sở Lao động Thương binh và Xã hội, sự phối hợp tích cực của các ngành, đoàn thể các cấp từ huyện đến xã tạo điều kiện hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị. Đồng thời, phòng đã chủ động xây dựng kế hoạch, phân kỳ tổ chức phân công thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ trong việc: huy động nguồn lực thực hiện nhiệm vụ của ngành, nhất là trong việc thực hiện chính sách người có công, giải quyết việc làm, đào tạo nghề, chương trình giảm nghèo…năm sau đều đạt và vượt kế hoạch hơn so với năm trước. Lãnh đạo cơ quan thường xuyên giáo dục đội ngũ cán bộ làm công tác chính sách xã hội của phòng và tại các xã, thị trấn. Tạo điều kiện cho cán bộ được đào tạo về chuyên môn, tập huấn nâng cao trình độ, tận tâm với công việc được giao qua đó đã đưa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện chính sách xã hội xuống các xã, thị trấn, từng hộ dân nhằm nâng cao nhận thức về ý nghĩa của thực hiện chính sách xã hội, đã đạt được sự đồng thuận, tham gia to lớn của nhân dân. Những điển hình, mô hình cách làm phát huy hiệu quả các chính sách xã hội đã được biểu dương, nêu gương nhân các ngày lễ, kỷ niệm của dân tộc, qua đó góp phần nhân rộng trong cộng đồng dân cư, tạo động lực lớn, thu hút đông đảo nhân dân trên địa bàn huyện tham gia. * Hạn chế Trên lĩnh vực lao động, giải quyết việc làm và dạy nghề lao động nông thôn còn hạn chế như vận động mở lớp chưa nhiều, việc giám sát sau đào tạo chưa chặt chẽ… Công tác giảm nghèo ở cơ sở hoạt động chưa tích cực, nhất là việc hướng dẫn, giám sát, quản lý vốn vay của Ngân hàng Chính sách xã hội ủy thác cho các đoàn thể dẫn đến việc thu hồi vốn vay chậm trễ. Đối với lĩnh vực bảo trợ xã hội, một số xã chưa cập nhật hệ thống văn bản quy định của nhà nước dẫn đến còn hạn chế trong công tác xét duyệt hồ sơ, chưa thực hiện theo đúng quy trình luật định. Tình hình tệ nạn ma túy, mại dâm trên địa bàn huyện ngày càng hoạt động tinh vi, phức tạp, lén lút dưới nhiều hình thức khác nhau, gây khó khăn trong việc theo dõi, giải quyết triệt để vấn đề. Bên cạnh đó, còn một bộ phận người dân vẫn trông chờ, ỷ lại sự hỗ trợ của nhà nước nên cũng chưa tích cực tham gia các hoạt động, phong trào ở địa phương. c. Một số giải pháp, kiến nghị góp phần làm tốt việc thực hiện chính sách xã hội tại phòng Lao động Thương binh và Xã hội trong thời gian tới * Giải pháp Thứ nhất, đối với chính sách đào tạo nghề, phải thường xuyên nắm chắc lực lượng lao động trên địa bàn huyện để xây dựng kế hoạch giải quyết việc làm, thông qua chương trình dự án 120, chương trình giảm nghèo bền vững, các chương trình lồng ghép khác để giải quyết việc làm tại chỗ cho người dân. Chú trọng công tác tuyển dụng lao động cho khu công nghiệp và các doanh nghiệp trên địa bàn huyện, tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp, dịch vụ phù hợp với định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện. Tăng cường công tác kiểm tra An toàn vệ sinh lao động phòng chống cháy nổ, tình hình sử dụng lao động tại các cơ sở sản xuất, các cơ sở dạy nghề trên địa bàn nhằm kịp thời uốn nắn, xử lý những sai phạm theo các quy định của Bộ Luật lao động, thực hiện tốt chức năng Quản lý nhà nước về lao động và dạy nghề trên địa bàn huyện có hiệu quả, không để xảy ra tình trạng đình công, lãng công. Tuyên truyền, tư vấn chiêu sinh học viên đào tạo nghề nông thôn theo các ngành phi nông nghiệp để tìm việc làm, nâng mức thu nhập; định hướng cho lực lượng lao động có nhu cầu học nghề; tăng cường công tác khuyến nông, khuyến công cho lực lượng lao động nông nghiệp, nông thôn… đảm bảo sau đào tạo phải có được việc làm trên 85%. Thứ hai, đối với chính sách người có công, tiếp tục vận động các cơ quan, đơn vị khối hành chính nhà nước, UBND các xã, thị trấn, các đơn vị sản xuất kinh doanh phấn đấu vận động Quỹ đền ơn đáp nghĩa đạt chỉ tiêu huyện giao hàng năm. Tiếp tục triển khai thực hiện các hoạt động theo đề án 02 của UBND huyện Xuân Lộc về các biện pháp nâng cao mức sống gia đình chính sách người có công trong giai đoạn 2012 - 2015. Thứ ba, đối với chính sách giảm nghèo, cần triển khai thực hiện tốt Chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2015 - 2020; tập trung công tác thu nợ hộ nghèo, tái cho vay theo kế hoạch, nhân rộng các mô hình giảm nghèo tiêu biểu và tập trung công tác giải quyết việc làm cho hộ nghèo nhằm nâng cao thu nhập và ổn định cuộc sống. Thứ tư, đối với chính sách bảo trợ xã hội, tổ chức rà soát các đối tượng già cô đơn, trẻ mồ côi không nơi nương tựa và người tàn tật mất khả năng lao động, người cao tuổi để làm cơ sở giải quyết trợ cấp hàng tháng. Đồng thời, giải quyết kịp thời các chế độ trợ cấp khó khăn đột xuất cho các đối tượng hoàn cảnh đặc biệt như: thiên tai, hỏa hoạn, ốm đau, tai nạn… mà gia đình thuộc diện nghèo không tự khắc phục được. Thứ năm, chính sách phòng chống tệ nạn xã hội, tiếp tục duy trì, giữ vững xã, thị trấn làm tốt công tác phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm. Phối hợp với các ngành chức năng thường xuyên tổ chức kiểm tra địa bàn, tiến hành truy quét, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm để ngăn ngừa tái phạm. Gắn công tác tuyên truyền giáo dục kết hợp với biện pháp đưa đối tượng vào cơ sở chữa bệnh, cai nghiện, trị bệnh và dạy nghề, hướng dẫn lao động sản xuất…Tổ chức triển khai thực hiện chương trình cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng và quản lý tốt đối tượng ma túy sau cai nghiện, trong đó phối hợp với ngành y tế, công an huyện thực hiện có hiệu quả việc cai nghiện bằng thuốc Methadone. * Kiến nghị Cần thực hiện tốt hơn nữa công tác tuyên truyền các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện chính sách xã hội trong thời gian tới, xem đây là nhiệm vụ trọng tâm và hàng đầu. Đảng, Nhà nước cần đề ra và sửa đổi các chính sách xã hội cho phù hợp, kịp thời với những thay đổi của đất nước, phù hợp với thực tế chung của địa phương và hướng dẫn các cấp địa phương thực hiện chính sách một cách cụ thể, có hiệu quả. Trong thực hiện chuyên môn nghiệp vụ, phải tạo điều kiện trang bị cơ sở vật chất, phương tiện thiết bị làm việc cho cán bộ công chức làm công tác chính sách xã hội. Đồng thời, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác chính sách ở huyện và cơ sở. Cần xem xét lại mức hỗ trợ cho các đối tượng chính sách người có công, thương binh liệt sĩ, nạn nhân bị ảnh hưởng bởi chất độc da cam/đioxin…nhằm đảm bảo mức sống tối thiểu cần thiết của họ… Đẩy mạnh hơn nữa các biện pháp tuyên truyền phòng, chống các tệ nạn xã hội với nhiều hình thức, phổ biến sâu rộng trong quần chúng nhân dân về tác hại nhiều mặt của tệ nạn ma tuý, mại dâm…nhân rộng các mô hình giáo dục phòng chống nghiện ma tuý trong học sinh. III. KẾT LUẬN Như vậy, chúng ta thấy chính sách xã hội giữ vai trò rất quan trọng không thể thiếu trong hệ thống chính sách của Đảng và nhà nước ta, chính sách xã hội không chỉ nhằm mục đích phục hồi, bù đắp, hỗ trợ, đảm bảo các điều kiện sống tối thiểu của con người mà còn nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nguồn lực con người, phát triển xã hội bền vững, góp phần giảm bớt tình trạng bất bình đẳng xã hội, thực hiện công bằng xã hội, phát triển con người toàn diện. Đảng ta xác định: Mục tiêu của chính sách xã hội phải thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế để nhằm phát huy sức mạnh của yếu tố con người và vì con người. Kết hợp hài hoà giữa kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân. Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Cùng với đó, phải thường xuyên đổi mới chính sách xã hội, có các chính sách thích hợp tạo công bằng về cơ hội và bình đẳng trước pháp luật cho mọi công dân, mọi doanh nghiệp, khuyến khích tôn vinh người làm giàu chính đáng đi đôi với chống làm giàu phi pháp, tham nhũng, cải cách hệ thống tiền lương. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm qua, phòng Lao động Thương binh và Xã hội huyện đã thực hiện tốt các chính sách xã hội, song vẫn còn những tồn tại, hạn chế nêu trên và đã đưa ra giải pháp, định hướng khắc phục trong thời gian tới. Tuy nhiên, để tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chính sách xã hội và an sinh xã hội trong thời gian tới đạt hiệu quả cao hơn, Huyện ủy, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, UBND các xã, thị trấn cùng toàn thể cán bộ và nhân dân trên địa bàn huyện Xuân Lộc cần phát huy vai trò, nêu cao ý thức trách nhiệm cũng như phát huy sức mạnh đại đoàn kết, đồng thuận của toàn dân trong triển khai thực hiện các chính sách xã hội ngày một tốt hơn, hoàn thiện hơn. Liên hệ bản thân: Qua thời gian được Huyện ủy, UBND huyện cử đi đào tạo Trung cấp lý luận chính trị tại Trường Chính trị tỉnh Đồng Nai. Bản thân nhận thấy đã tiếp thu được những kiến thức rất quan trọng và bổ ích trong thực hiện chuyên môn nghiệp vụ, trong đó việc thực hiện các chính sách xã hội là vấn đề rất quan trọng, nó đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân trên địa bàn, cũng như mong muốn của Hồ Chí Minh là “…Đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Hướng phấn đấu trong thời gian tới là thường xuyên tuyên truyền cho gia đình, bạn bè, người thân, hàng xóm nơi cư trú về các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm tạo dựng niềm tin, động lực, sự đồng thuận của mọi người để cùng Đảng và Nhà nước chung tay thực hiện tốt hơn nữa các chính sách xã hội trong thời gian tới./. DANH MỤC VIẾT TẮT CP: Chính phủ TƯ: Trung ương TU: Tỉnh ủy VP: Văn phòng HĐND: Hội đồng nhân dân UBND: Ủy ban nhân dân TNHH: Trách nhiệm hữu hạn ĐA: Đề án KH: Kế hoạch NĐ: Nghị định NQ: Nghị quyết TTg: Thủ tướng TTLT: Thông tư liên tịch BLĐTBXH: Bộ Lao động Thương binh và Xã hội BYT: Bộ Y tế BGDĐT: Bộ Giáo dục và Đào tạo BQP: Bộ Quốc phòng TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013; 2. Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28 tháng 10 năm 2008 của Chính phủ ban hành Chương trình hành đô nô g của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hô ôi nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; 3. Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”; 4. Quyết định số 2577/QĐ-UBND ngày 29/9/2010 của UBND tỉnh Đồng Nai về việc Phê duyệt đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” tỉnh Đồng Nai; 5. Thông tư liên tịch số 16/2006/TTLT-BLĐTBXH-BGDĐT-BTC ngày 20 tháng 11 năm 2006 của Liên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội - Bộ Giáo dục và Đào tạo - Bộ Tài chính hướng dẫn về chế độ ưu đãi trong giáo dục và đào tạo đối với người có công với cách mạng và con của họ; 6. Thông tư liên tịch số 28/2013/TTLT-BLĐTBXH-BQP ngày 22 tháng 10 năm 2013 của Liên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội - Bộ Quốc phòng hướng dẫn xác nhận liệt sĩ, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh trong chieens tranh không còn giấy tờ; 7. Thông tư liên tịch số 41/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH ngày 18 tháng 11 năm 2013 của liên Bộ Y tế - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn khám giám định bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học đối với người hoạt động kháng chiến và con đẻ của họ; 8. Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính phủ về áp dụng quản lý đưa người nghiện ma túy vào cai nghiện bắt buộc tại cơ sở chữa bệnh…
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng