Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công trên địa bàn huyện thanh trì, ...

Tài liệu Thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công trên địa bàn huyện thanh trì, thành phố hà nội.

.PDF
70
280
87

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN TÀI THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG HÀ NỘI - 2018 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN TÀI THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ngành: Chính sách công Mã số: 8.34.04.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS. Hồ Việt Hạnh HÀ NỘI - 2018 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam liên tục phải đối mặt với chiến tranh. Chiến tranh khi qua đi để lại hậu đau thương quả nặng nề nhân dân ta đành gánh lấy mà phải gánh chịu và khắc phục hậu quả đó. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ ở thế kỉ XX, với tổn thương này cả của nhân dân ta về tinh thần để lại di chứng đối với con người của cải vật chất, cả về thời cơ hội để phát huy cho đất nước là lớn lao. Kháng chiến không chỉ ảnh hưởng đến người tới cả của thời chiến đó mà họ đã trực tiếp tham gia và đóng góp công sức vào trong cuộc kháng chiến. Những di chứng của nó vẫn gieo rắc lên hình hài thế hệ tương lai để rồi khó khăn lại càng chồng chất khó khăn. Từ việc đó trong khi tạo ra những thử thách cho sự phát triển kinh tế - xã hội, cho việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân chúng ta. Những người đã vì nước vì dân, quên thân phục vụ cống hiến sức lực, tuổi trẻ và dành trọn niềm tin cho cuộc sống tự do. Trong công cuộc kháng chiến đông đảo con người đã sông pha chiến đấu vào để đấu tranh và gánh chịu những nỗi đau cả về thân thể lẫn tâm hồn và trí não do chiến tranh gây ra. Khi đó ta nên biết phải làm gì để bù đắp và thể hiện lòng biết ơn đối với những đối với người có công ưu đãi- những người mà đối với người có công ưu đãi và điều kiện sống của họ chắc chắn còn gặp nhiều khó khăn, chắc chở. Chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi và nâng cao đời sống chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi là một trong những chính sách được Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng. Những chính sách cho Đối với người có công ưu đãicách mạng như: chính sách bảo hiểm y tế, chính sách ưu đãi đối với người có công, chính sách ưu đãi về kinh tế, chính sách trợ cấp... đã được 1 bđó cân trọng tâmhành và thực hiện. Như chúng ta đã biết, đối với người có công ưu đãi và chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi có vai trò vô cùng cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâmtrọng đối với mỗi người. Đối với những người có công, nhất là những thương, bệnh binh vấn đề này càng cấp thiết và cần cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâmtâm nhiều hơn hết. Tuy nhiên chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi cũng như các khó khăn còn tồn tại trong quá trình thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công. Địa bàn huyện thanh trì nằm ở vị trí cửa ngõ phía Nam của Thủ đô, Thanh Trì là một địa phương giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng. Trong quá trình hình thành và phát triển, Thanh Trì nhiều lần thay đổi về tên gọi và địa giới, nhưng truyền thống lịch sử, văn hóa, giáo dục của người dân Thanh Trì vẫn ngày càng được bồi đắp thêm, sáng mãi cùng Thủ đô ngàn năm văn hiến. Huyện Thanh Trì hiện có 16 đơn vị hành chính trực thuộc gồm: thị trấn Văn Điển và 15 xã: Duyên Hà, Đại Áng, Đông Mỹ, Hữu Hòa, Liên Ninh, Ngọc Hồi, Ngũ Hiệp, Tả Thanh Oai, Tam Hiệp, Tân Triều, Tứ Hiệp, Thanh Liệt, Vạn Phúc, Vĩnh Quỳnh, Yên Mỹ. Xuất phát từ mong muốn làm được một việc có ích, là một cán bộ với nguyện vọng thông qua thực tiễn được tiếp xúc hằng ngày đối với người có công ưu đãi và từ thực tế bắt nguồn từ nhu cầu chính sách ncc và những khó khăn, tồn tại trong quá trình thực hiện công tác chính sách ncc trên địa bàn huyện Thanh Trì, tôi đã lựa chọn đề tài: “Thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội” làm luận văn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Khi mà có nhiều đề tài, trong quá trình nghiên cứu chính sách cũng như sách, báo, tạp chí viết về vấn đề chính sách ncc. Trong các cuốn sách trước tiên 2 phải kể tới Cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâm niệm về công tác thương binh và tử sỹ đã ra năm 1952 khi cuốn sách đề cập đến vấn đề ưu đãi thương bệnh binh và tử sỹ tại một số nước đế quốc trong vấn đề thương binh và tử sỹ tại các nước dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa con người chúng ta[18]. Nội dung cuốn sách là cơ sở tiền đề cho tác giả nghiên cứu về ưu đãi chính sách bảo vệ ưu đãi với người có công ưu đãi đối với người có công ưu đãi chính. Năm 1993, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội đã xuất bản cuốn Một số vấn đề chính sách xã hội ở nước ta hiện nay của tác giả Hoàng Chí Bảo[26]. Chính sách xã hội không ngừng thay đổi để phù hợp với đối tượng áp dụng. Đất nước ngày càng phát triển thì việc yêu cầu các chính sách phải xuất phát từ thực tiễn, gắn liền với lợi ích của đối tượng. Chính sách đối với người có công ưu đãiđược thay đổi qua các thời kỳ, sự thay đổi đó có những mặt tích cực và tiêu cực trong Trong quá trình việc, thực hiện chính sách. Pháp lệnh ưu đãi với đối với người có công ưu đãi chính là căn cứ để thực hiện những chính sách, những trợ cấp, chi trả hàng tháng, một lần, các mức ưu đãi mà đối với người có công ưu đãi xứng đáng được hưởng. Khi đi vào Luận án đã hệ thống công việc tổng hợp những căn luận điểm khoa học về lý luận và chính sách ưu đãi đối với người có công trong bấy giờ. Tác giả dã nghiên cứu chính sách đối với người có công, phát hiện những tồn tại và nguyên nhân của sự việc. Tiến trình việc ngiên cứu cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâmđiểm với nguyên tắc và phương hướng lẫn biện pháp chủ yếu để chính sách đối với người có công được đổi mới[25]. Hoàn thiện pháp luật trong quá trình ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên địa bàn ở Nhà nước ta. Luận án nêu lên những vấn đề cơ bản như: Khái nhiệm Pháp luật trong quá trình ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên địa bàn. Đến tới nghiên cứu Lịch sử hình thành và nâng tầm phát triển của pháp luật thì. Pháp luật này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và việc hoàn thiện 3 pháp luật trong quá trình ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên địa bàn trên địa bàn huyện[28]. Thế kỷ đã trôi qua đi kể từ ngày đất nước chúng ta giành được độc lập tự do sau hai cuộc chiến tranh kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ. Nỗi đau và vết thương của chiến tranh đã và đang được khôi phục lại dần dần đất nước bước vào thời kỳ mới thời kỳ xây dựng và phát triển. Có được những thành quả đó, dân tộc ta không thể quên ơn những người con đã cống hiến cả cuộc đời, hy sinh xương máu của mình vì độc lập, tự do của đất nước. Đối với những người trong số đó là những người bị thương bệnh binh. Trong chính những người thương bệnh binh và liệt sỹ và đối với người có công đóng góp với Cách mạng thì đó là một chính sách to lớn đối với Đảng và Nhà nước. Trong những năm qua thì Đảng và Nhà nước ta đã bđó cân trọng tâmhành nhiều chính sách và chế độ với đối với người có công ưu đãi và thường xuyên bổ sung sửa đổi cho phù hợp với từng thời kỳ cách mạng. Tới nay thì điều đó đã hình thành một hệ thống chính sách kinh tế xã hội và liên cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâm đến đời sống hàng ngày của NCC. Khi đó đã và đang có nhiều Pháp lệnh và Thông tư cả Nghị định kế hoạch chương trình đề án đó có Chính phủ và các Sở Bđó cân trọng tâmngành liên cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâmvề thống kê lẫn khảo sát về chất lượng cuộc sống của các đối tượng đối với người có công ưu đãi cũng như nhu cầu và đánh giá mức độ hài lòng của họ với thụ hưởng chính sách ưu đãi theo đó là những nghiên cứu báo cáo đề xuất chính sách được thực hiện một cách cụ thể chi tiết nhằm nâng cao hơn hiệu quả của các chính sách ưu đãi xã hội với chính sách ưu đãi thương bệnh binh nói riêng và đối tượng đối với người có công ưu đãi. Việc trợ cấp với đối với người có công ưu đãi được thực hiện từ năm 1995 theo quy định của Pháp lệnh trong quá trình ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên địa bàn với cách mạng và một số văn bản pháp quy đơn hành khác của Chính phủ. Có thể phân ra các loại trợ cấp một lần và trợ cấp thường xuyên 4 hàng tháng và một số chế độ trợ cấp nào đó nữa. Những chế độ trợ cấp được qui định khá cụ thể, chi tiết, theo từng mức khác nhau cho từng diện đối tượng. Một trong những cuốn sách đầu tiên phải kể đến là Cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâmniệm về công tác thương binh và tử sỹ, do Bộ Thương binh Cựu binh xuất bản năm 1952, cuốn sách đề cập đến vấn đề thương binh và tử sỹ tại các nước đế quốc, vấn đề thương binh và tử sỹ tại các nước dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa; khi đề ra việc nhiệm vụ, phương châm và nội dung công tác đối với thương binh và tử sỹ đối với Việt Nam , đưa ra giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện ưu đãi đối với người có công cuả nhân dân ta. Tác giả hệ thống một cách khái lược những cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâmđiểm, mà chính sách của Đảng và nhà nước đối với công tác thương binh, liệt sĩ từ năm 1986 đến năm 2012; đánh giá những mặt tích cực của thực tiễn quá trình thực hiện mà chính sách của Đảng và nhà nước về vấn đề này và đề ra giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn trong thời giđó cân trọng tâmtới. Chính sách Đối với người có công ưu đãi - là trách nhiệm của toàn dân, Tạp chí Tuyên giáo số 7, 2012. Qua bài viết này, tác giả đã khái quát một số thành tựu của chính sách trong quá trình ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên địa bàn trong những năm qua, đi sâu vào đánh giá tìm hiểu nguồn lực thực hiện chính sách ở nước ta. Trong luận án đổi mới chính sách kinh tế này đã hệ thống và tổng hợp những căn cứ khoa học về lý luận chính sách đối với người có công ưu đãi ở Việt Nam. Thực trạng chính sách đối với người có công, phát hiện những tồn tại và nguyên nhân của nó. Cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâmđiểm, nguyên tắc, phương hướng, biện pháp chủ yếu để đổi mới chính sách đối với người có công. Nguyễn Đình Liêu, Hoàn thiện pháp luật trong quá trình ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên địa bàn ở Việt Nam. Lý luận và thực tiễn, Luận án Phó tiến sỹ Luật học, 1996. Luận án nêu nên những vấn đề cơ bản như: Khái niệm Pháp luật trong quá trình ưu đãi đối với người có công 5 ưu đãi trên địa bàn. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật này. Thực trạng của pháp luật này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và việc hoàn thiện pháp luật trong quá trình ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên địa bàn. Tạ Vân Thiều, Cải cách thủ tục hành chính lĩnh vực đối với người có công ưu đãi ở ngành Lao động Thương binh và xã hội, Luận án cao học Luật, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, 1997 Nguyễn Đình Liêu, Cơ sở khoa học để hoạch định chính sách giáo dục đào tạo con thương binh, liệt sỹ, Luận án Tiến sỹ Nguyễn Thị Thu Hoài, Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với Thương binh, liệt sỹ và đối với người có công ưu đãi với cách mạng. Luận văn đã đưa ra cái nhìn tổng thể những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với đối tượng đối với người có công ưu đãi từ năm 1991 đến năm 1995 và những đổi mới trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Nhà nước cũng những chủ trương chính sách ưu đãi cho phù hợp với tình hình mới trong giai đoạn 1996 đến 2010. Các trong quá trình nghiên cứu chính sách cũng như các sách, tạp chí trên đã góp phần cơ bản về lý luận cho việc trong đó thục hiện công tác chính sách ưu đãi cho người có công. Quá trình xây dựng công việc rất cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâmtrọng cho trong quá trình triển khai, bổ sung và hoàn chỉnh pháp luật trong quá trình ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên địa bàn với cách mạng nói chung và với đối tượng thương binh, bệnh binh nói riêng. Do đó, luận văn tốt nghiệp với đề tài “Ưu đãi xã hội đối với thương binh, bệnh binh tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội” hoàn toàn không phải là một chủ đề mới trong hoạt động thực tiễn cũng như trong khoa học nghiên cứu. Tuy nhiên, điểm nhấn của luận văn chính là tìm hiểu, đánh giá công tác ưu đãi thương binh, bệnh binh thông qua việc thực hiện chính sách ưu đãi xã hội trên địa bàn huyện Thanh Trì hiện nay; từ đó đề xuất các biện pháp nhằm thực thi chính sách một cách hiệu quả, phù hợp với điều kiện, tình hình thực tế của huyện Thanh Trì. Điều này có ý nghĩa đặc biệt cuộc sống cần 6 trọng tâm hơn cân trọng tâmtrọng trong việc góp phần nâng cao hiệu quả của chính sách ưu đãi xã hội với đối tượng thương binh, bệnh binh trên địa bàn huyện, hướng họ đến một cuộc sống tính chất đó cân trọng tâmtâm, tốt đẹp hơn về đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách ưu đãi với người có công [27]. Trong bài viết Tiếp tục thực hiện tốt mà đó là như chính sách ưu đãi xã hội đối với thương binh và gia đình liệt sỹ đối với người có công ưu đãi với cách mạng, Trong tạp chí Cộng sản số 7/2005. Nêu những nét khái quát thành tựu đạt được trong việc thực hiện ưu đãi xã hội đối với thương binh, gia đình liệt sỹ và đối với người có công ưu đãitrong 10 năm từ 1995 đến 2005, qua đó đúc kết những kinh nghiệm và đề ra những giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn chính sách ncc[27]. Năm 2011, Hoàng Thúy Hằng có luận văn ngành “Thực trạng công tác xã hội hóa chính sách ưu đãi đối với người có công tại phường Đề Thám thị xã Cao Bằng” [8]. Tác giả đã nghiên cứu về chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãiở phường, chỉ ra được thực trạng và những hạn chế về công tác xã hội hóa người có công. Nghiên cứu có 56,7% với ý kiến cho rằng 5 chương trình chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi tại địa phương được thực hiện tốt, 26,7% đối với người có công ưu đãicho rằng các chương trình chưa được thực hiên tốt. Khi đề ra việc những giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác xã hội hóa chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi tốt hơn tại địa bàn. Năm 2011, Hồ Thị Vân Kiều đã nghiên cứu về “Chính sách ưu đãi đối với người có công: Thực trạng và giải pháp (điển cứu tại trung tâm Thanh trì, thành phố Hà Nội)”[41]. Nghiên cứu tại huyện Thanh trì hiện nay nguồn nhân lực chăm đối với người có công ưu đãithì có 36,9% ý kiến cho rằng bác sĩ, y tá, thiếu trách nhiệm, 13,8% là có cán bộ tôn trọng bệnh nhân. Tác giả cũng chỉ ra hầu hết đối với người có công ưu đãi cách mạng ở huyện Thanh trì, thành 7 phố Hà Nội và đang được chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãitheo chính sách của Đảng và Nhà nước. Bài viết đã nghiên cứu được đa số đối với người có công ưu đãi cách mạng ở huyện Thanh trì, thành phố Hà Nội có nhu cầu cao về chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi nhưng chất lượng và hiệu quả của công tác con có cần nhìn nhận do rất nhiều khó khăn mang lại, nhất là thiếu thốn về tài chính, về đội ngũ y, bác sĩ, cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu. Từ đó tác giả cũng đề ra những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả chính sách ưu đãi đối với người có công Năm 2011, Vũ Thị Thanh Nga đã có nghiên cứu về “Vai trò của công tác xã hội trong việc nâng cao hiệu quả của công tác chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi người cao tuổi ở huyện Lạng Giang, Bắc Giang” [26]. Kết quả nghiên cứu cho thấy thực trạng công tác chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi người cao tuổi. Trong khi đó vai trò ưu đãi chính sách ưu đãi đối với người cao tuổi tại địa phương, 48,7% thuộc về gia đình, 43,2% mà thực tế chính sách đó của Đảng và Nhà nước đối với người cao tuổi, 41,2% là vai trò của Hội người cao tuổi và 34,1% là vai trò cộng đồng địa phương . Khi nghiên cứu nói cũng nhìn nhận ra được nguyên nhân từ việc chính sách ưu đãi đối với đối với người có công ưu đãi của địa phương và nêu được vai trò nhân viên công tác xã hội trong nâng cao chất lượng cuộc sống người cao tuổi tại huyện. Tác giả hệ thống một cách khái lược những cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâmđiểm, mà chính sách của Đảng và nhà nước đối với công tác thương binh, liệt sỹ từ năm 1986 đến năm 2012; đánh giá những mặt tích cực của thực tiễn quá trình thực hiện mà chính sách của Đảng và nhà nước về vấn đề này và đề ra giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn công tác thương binh, liệt sỹ trong thời giđó cân trọng tâmsớm [39]. Qua bài viết này, tác giả đã khái quát một số thành tựu của chính sách 8 trong quá trình ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên địa bàn trong những năm qua, đi sâu vào đánh giá tìm hiểu nguồn lực thực hiện chính sách ở nước ta. Nguồn lực của Nhà nước thông qua chế độ trợ cấp ưu đãi thường xuyên ngày càng giữ vai trò chủ đạo trong việc ổn định đời sống với cách mạng, bởi đa phần họ là những người không hưởng chế độ lương hay bảo hiểm xã hội[25]. Luận văn đã đưa ra cái nhìn tổng thể những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với đối tượng đối với người có công ưu đãitừ năm 1991 đến năm 1995 và những đổi mới trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo Nhà nước cùng những chủ trương chính sách ưu đãi cho phù hợp với tình hình mới trong giai đoạn 1996 đến 2010 và 2013 đến 2023[28]. Trong quá trình nghiên cứu chính sách cũng như các sách, tạp chí trên đã góp phần cơ bản về lý luận cho việc trong đó thục hiện công tác chính sách trong quá trình ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên địa bàn. Việc quá trình xây dựng công việc rất cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâmtrọng cho trong quá trình triển khai, bổ sung và hoàn chỉnh pháp luật trong quá trình ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên địa bàn nói chung và đối với thương binh, bệnh binh. Luận văn nghiên cứu với trọng tâm về vấn đề “Thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội” nhằm hoàn thiện và không phải là một chủ đề mới trong quá trình hoạt động thực tiễn cũng như trong nghiên cứu vấn đề của nhan đề. 9 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu về thực trạng và các yếu tố tác động tới ưu đãi chính sách bảo vệ ưu đãi với đối với người có công ưu đãi trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chính sách ưu đãi đối với người có công. 3.2. Nhiệm vụ nghên cứu - Phân tích cơ sở lý luận chính sách ưu đãi đối với người có công - Phân tích thực trạng ưu đãi chính sách bảo vệ ưu đãi với đối với người có công ưu đãi (các hoạt động ưu đãi, các yếu tố tác động tới thực trạng hoạt động ưu đãi, các yếu tố tác động như: cộng đồng, xã hội, gia đình….). - Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao việc chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi đạt chất lượng, hiệu quả cao hơn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Khi thục hiện tổ chức thực hiện thực, hiện chính sách ncc; quy trình thực hiện chính sách ưu đãi cho vệc thực hiện mục tiêu thuộc diện thụ hưởng chính sách theo quy định tại Pháp lệnh ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu việc thực hiện chính sách ưu đãi ncc trên địa bàn huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội và trong khoảng thời giđó cân trọng tâmtừ năm 2013 đến năm 2017. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Vận dụng thục hiện tổ chức tiếp cận thực hiện nghiên cứu chính sách qua tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội và phương pháp nghiên cứu chính sách công. Thực hiện tổ chức tiếp cận thực hiện quy phạm chính sách công về 10 chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng, thực hiện và đánh giá chính sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách. Thực hiện chính sách ưu đãi công được soi sáng qua thực tiễn của chính sách công giúp hình thành lý luận về chính sách chuyên ngành đối với người có công. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Chính sách của Nhà nước cũng như địa phương về Người có công, các bản báo cáo tổng kết về công tác thực hiện chính sách về Đối với người có công ưu đãi của phòng Đối với người có công ưu đãi sở Lao động Thương binh và Xã hội thành phố Hà Nội, các bài viết. - Đối với người có công ưu đãi, Sở Lao động Thương binh và Xã hội thành phố Hà Nội, thư viện Học viện Khoa học xã hội, thư viện trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, các thông tin, tài liệu internet…. * Phương pháp trưng cầu ý kiến: Nghiên cứu tiến hành thiết kế bảng hỏi nhằm thu thập thông tin về thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Bảng 1.1: Mô tả khách thể điều tra Đối tượng Số lượng (người) Thương binh, bệnh binh 80 Cán bộ Lao động TB và XH 05 Lãnh đạo phòng Lao động TB và XH 03 Gia đình, người thân thương, bệnh binh 06 * Phương pháp cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâmsát: - Cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâmsát là phương pháp thu thập thông tin xã hội sơ cấp về đối tượng nghiên cứu bằng cách tri giác trực tiếp và ghi chép lại những nhân tố có liên cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâmđến đối 11 tượng nghiên cứu và có ý nghĩa đối với mục đích nghiên cứu. * Phương pháp thống kê: - Học viên sử dụng phương pháp thống kê để xử lý các thông tin, các số liệu đã thu thập được qua phiếu điều tra. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận: Để đóng góp bổ sung hoàn thiện những vấn đề lý luận về chính sách chuyên ngành mà thực tế chính sách đó đối với người có công ưu đãi ở nước ta hiện nay và trên địa bàn huyện Thanh Trì. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên địa bàn huyện Thanh Trì, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao ưu đãi chính sách bảo vệ ưu đãi với đối với người có công ưu đãi để công tác chính sách ưu đãi đối với người có công chính sách ưu đãi thực sự là một hoạt động giàu tính nhân văn, hoạt động truyền thống của người dân. 7. Kết cấu của luận văn Trong mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm có ba chương: Chương 1. Cơ sở lý luận chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Chương 2. Thực trạng chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác chính sách ưu đãi đối với người có công. 12 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu 1.1.1. Một vài cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâmđiểm chính sách ưu đãi đối với người có công Dân tộc ta đã trải qua biết bao cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc và trong những cuộc đấu tranh đó đã có biết bao nhiêu người hy sinh xương máu, của cải và cả tính mạng của mình cho nền độc lập tự do ấy, họ luôn được nhân dân, Tổ quốc đời đời ghi nhớ và biết ơn. Từ năm 1986 đến nay, trong vấn đề ưu đãi đối với người có công, hệ thống pháp luật nước ta đã có những thay đổi cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâm trọng để phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của thời kỳ đổi mới. Nhà nước đã đề ra nhiều văn bản luật ưu đãi xã hội đối với người có công, trong đó nổi bật nhất là việc bđó cân trọng tâmhành Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng năm 1994 (Pháp lệnh ưu đãi năm 1994) và Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” năm 1994. Đây là hai văn bản pháp luật nhằm thể chế hóa Hiến pháp năm 1992, đánh dấu sự tiến bộ trong hệ thống chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công, cùng với các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành hai pháp lệnh này tạo thành hệ thống pháp luật về ưu đãi người có công. Năm 1998 và năm 2000, Pháp lệnh ưu đãi năm 1994 lại được sửa đổi cho phù hợp với điều kiện mới và quá trình cải cách hành chính. Cơ cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâmhành chính với tư cách là cơ cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng 13 tâmhành pháp đã bđó cân trọng tâm hành nhiều văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết và tổ chức thực hiện đưa pháp luật vào đời sống xã hội. 1.2. Các hoạt động cơ bản trong chính sách ưu đãi đối với người có công Nên, chúng ta có thể hiểu sức khoẻ gồm 3 mặt: Sức khoẻ thể chất, sức khoẻ tinh thần và sức khoẻ xã hội. Như sức lực: Hoạt động của cơ bắp mạnh, có sức đẩy, sức kéo, sức nâng cao…do đó làm công việc chân tay một cách thoải mái như mang vác, điều khiển máy móc, sử dụng công cụ… Trong sự dẻo dai: Việc hoạt động chân tay tương đối lâu và liên tục mà không cảm thấy mệt mỏi. * Trong sức khoẻ tinh thần: Tinh thần là hiện thân của sự thoả mãn về mặt giao tiếp xã hội, tình cảm và tinh thần. là việc sức khoẻ tinh thần chính là sự biểu hiện nếp sống lành mạnh, văn minh và có đạo đức. Việc hoà nhập của cá nhân với cộng đồng trong xã hội được gọi là sức khoẻ xã hội như câu nói Mác nói Con người là sự tổng hoà của các mối cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâm hệ xã hội. Sức khoẻ xã hội thể hiện ở sự thoải mái trong các mối cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâm hệ chằng chịt, phức tạp giữa thành viên: còn gia đình, nhà trường, bạn bè, xóm làng, nơi công cộng, cơ cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâmvà thể hiện ở sự được chấp nhận và tán thành của xã hội này. Khi càng hoà nhập với mọi người, được mọi người đồng cảm, yêu mến càng có sức khoẻ xã hội tốt và ngược lại. Mà cơ sở của sức khoẻ xã hội là sự thăng bằng giữa hoạt động và quyền lợi cá nhân với hoạt động và quyền lợi của xã hội, của những người khác; là sự hoà nhập giữa cá nhân, gia đình và xã hội[20]. Yếu tố sức khoẻ liên cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâm chặt chẽ với nhau. Là cơ sở cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâmtrọng tạo nền tảng cho cuộc sống con người có ấm cúng. Nên ta biết một người hoàn toàn 14 khỏe mạnh phải là một người có đầy đủ đối với người có công ưu đãi về thể chất, tinh thần và có các mối cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâm hệ xã hội tốt đẹp. Nên cụ thể: Trong một người được xem là có đối với người có công ưu đãi thể chất không những không có thương tật, bệnh tật mà các hoạt động về thể lực cũng như tất cả các hoạt động sống đều ở trạng thái tốt nhất và phù hợp với từng điều kiện hoàn cảnh, lứa tuổi...; Được một cơ thể khỏe mạnh là mơ ước, mục tiêu, mục đích mà mọi người hướng đến và cố gắng thực hiện mọi biện pháp để đạt đến cái ngưỡng đó. Mối cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâm hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại, ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhau, nếu thiếu một trong các thành tố trên sẽ không làm nên đối với người có công ưu đãi con người. Từ nhận định nghĩa trên đã chỉ cho chúng ta thấy rõ trạng thái đối với người có công ưu đãi cần đạt được để từ đó mỗi cá nhân hướng đến và vạch ra mục tiêu, phương pháp để đạt được. Định nghĩa trên cũng gặp phải hạn chế là chưa đưa ra được mục tiêu, phương pháp, kế hoạch thực hiện cho các lực lượng tham gia vào quá trình chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi. Chính sách ưu đãi và chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ đối với người có công ưu đãi rước hết phải do chính bản thân mỗi cá nhân thực hiện. Tục ngữ cũng đã dạy như “Tiền bạc là của con, địa vị là tạm thời, vẻ vang là quá khứ, sức khoẻ là của chính mình”. Việc đầu tư chính sách ưu đãi đối với sức khoẻ là phải đầu tư chính sách ưu đãi đối với ngay khi còn đang khoẻ mạnh, khi chưa thành bệnh mới là đầu tư chính sách ưu đãi đối với có ý nghĩa và hiệu quả kinh tế cao nhất. Nhiều khái niệm khác nhau về chính sách ưu đãi đối với người có công. Tuy nhiên chính sách ưu đãi đối với đối với người có công ưu đãi là những hoạt động nhằm nâng cao đối với người có công ưu đãi của con người. Trong cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâm hệ xã hội: Là một 15 lĩnh vực ảnh hưởng rất lớn đến đối với người có công ưu đãi của mỗi cá thể, mỗi người cần tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội thể dục thể thao, văn hóa, tham gia các tổ chức, đoàn thể xã hội, tạo lập và duy trì các mối cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâm hệ với bạn bè, đồng nghiệp. Chính sách trong quá trình ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên địa bàn của mỗi người không phải chỉ dựa vào sự cố gắngcông tác chăm lo đời sống là đạt được mà còn chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố khách quan. Giao lưu các câu lạc bộ qua các hội thi, cuộc thi giữa các phường tạo động lực giúp NCC thêm hăng say tham gia vào các hoạt động, tuyên truyền những người chưa tham gia để các câu lạc bộ thực sự là nơi chia sẻ, đem tiếng cười, sự gắn kết giữa các thành viên vượt qua mọi trách nhiệm chính sách giúp công việc ưu đãi cho địa bàn người dân. - Lý thuyết áp dụng + Thuyết nhu cầu Abraham Maslow sinh ngày 1-4-1908, mất năm 8-5-1970. Ông là một nhà tâm lý học nổi tiếng người Mỹ. Maslow sinh ra ở Brookly – New York, là con cả trong một gia đình người Do Thái có 7 anh em, nhập cư từ Nga. Bố mẹ ông không được ăn học đến nơi đến chốn nhưng họ quyết tâm đầu tư cho Maslow được học hành và khuyến khích ông nên học ngành Luật. Đầu tiên ông thực hiện lời hứa của bố mẹ mình bằng cách ghi tên vào trường City College of New York. Tuy nhiên, sau 3 học kỳ ông chuyển sang học tại Cornell, sau đó ông quay trở lại CCNY. Sau đó ông cưới một người bà con là Bertha Maslow, ông chuyển đến Wisconsin và theo học tại University of Wisconsin. Tại đây ông đã nhận được B.A (1930), M.A (2011), PHD (1934) về tâm lý học. Trong khi học tại Wisconsin ông đã học với Harry Maslow, người được biết đến với những thí nghiệm gây tranh cãi về hành vi và tập tính xã hội của khỉ. Một năm sau khi tốt nghiệp, Maslow trở lại NewYork và làm việc với E. L. Thorndike 16 tại Đại học Columbia. Maslow bắt đầu sự nghiệp giảng dạy tại Brooklyn College. Trong suốt thời giđó cân trọng tâmnày ông đã gặp gỡ nhiều nhà tâm lý học hàng đầu Châu Âu như Alfred Adler và Erich Fromm. Năm 1951, Maslow trở thành Ttrưởng khoa Tâm lý học tại Brandeis University, nơi mà ông bắt đầu với công tác nghiên cứu học thuyết của mình. Ông đã gặp Kurt Goldstein, người đã giới thiệu ông ta về ý tưởng của sự tự nhận thức về nhu cầu. Ông về hưu tại California. Chết vì đau tim năm 1979, thọ 62, sau nhiều năm sức khoẻ kém. Nội dung cơ bản của thuyết nhu cầu Maslow nhà khoa học xã hội nổi tiếng đã xây dựng học thuyết về nhu cầu của con người vào những năm 1950. Trong điều đó con người có cơ bản nhất, nguyên thủy nhất, lâu dài nhất, rộng rãi nhất của con người. Nếu thiếu những nhu cầu cơ bản này con người sẽ không tồn tại được. Điều đó khi đối với trẻ thì chúng phụ thuộc rất nhiều vào người lớn để được cung cấp đầy đủ các nhu cầu cơ bản này. Ông cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâm nniệm rằng, khi những nhu cầu này chưa được thoả mãn tới mức độ cần thiết để duy trì cuộc sống thì những nhu cầu khác của con người sẽ không thể tiến thêm nữa. Nhu cầu về tính chất cân trọng tâmtâm hoặc cân trọng tâmninh: Đó cân trọng tâm ninh và tính chất đó cân trọng tâm tâm có nghĩa là một môi trường không nguy hiểm, có lợi cho sự phát triển liên tục và lành mạnh của con người. Trong nhu càu trật tụ thì: Tính chất đó cân trọng tâm sinh mạng Trong điều đó con người có cơ bản nhất, là tiền đề cho các nội dung khác như tính chất đó cân trọng tâm tâm lao động, tính chất cân trọng tâmtâm môi trường, tính chất cân trọng tâmtâm nghề nghiệp, tính chất đó cân trọng tâm tâm kinh tế, tính chất 17 cân trọng tâmtâm ở và đi lại, tính chất cân trọng tâm tâm lý, tính chất cân trọng tâm nhân sự,… Đây là những nhu cầu khá cơ bản và phổ biến của con người. Để sinh tồn con người tất yếu phải xây dựng trên cơ sở nhu cầu về sự tính chất cân trọng tâmtâm. Nhu cầu tính chất cân trọng tâm nếu không được đảm bảo thì công việc của mọi người sẽ không tiến hành bình thường được và các nhu cầu khác sẽ không thực hiện được. Do đó chúng ta có thể hiểu vì sao những người phạm pháp và vi phạm các quy tắc bị mọi người căm ghét vì đã xâm phạm vào nhu cầu tính chất cân trọng tâm của người khác. Ví dụ1, mà tham hay tư vấn làm việc với trẻ em lang thang thì phải xác định được rằng đa số trẻ em lang thang đã bị “tắc” ở bậc nhu cầu này bởi những rủi ro mà các em đang phải đối diện ở cuộc sống ngoài đường phố (cướp giật, lạm dụng,…). Trong các em phải luôn cảnh giác với các rủi ro này nên không thể tập trung vào việc thỏa mãn các nhu cầu trong phát nhiều. – Do con người là thành viên của xã hội nên họ cần nằm trong xã hội và được người khác thừa nhận. Hãy thử tưởng tượng một ngày kia anh/chị thức dậy và phát hiện ra rằng anh/chị là người cuối cùng trên quả đất này. Trong nhà, cộng đồng và cả thế giới này không còn ai ngoài anh/chị. Điều gì sẽ xảy ra? Anh/chị sẽ cảm thấy như thế nào? Hầu hết mọi người nói rằng nếu không còn ai khác – bạn bè, gia đình, tình hữu nghị – cuộc sống sẽ không còn ý nghĩa và giá trị nữa. Anh/chị không thể phát triển được nếu thiếu mối cân trọng tâm hệ giao tiếp với người khác (giao tiếp được coi như Trong điều đó con người cóbẩm sinh của con người). Qua đó chúng ta thấy được sức mạnh to lớn của nhu cầu được cân và được thừa nhận trong sự phát triển của mỗi cá nhân. Nó cũng cho thấy con người cần được yêu thương và thừa nhận hơn là cần thức ăn, quần áo và chỗ ở cho sự tồn tại của mình. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan