BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………
BỘ NỘI VỤ
……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LƯU VŨ MINH QUÂN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TẠO VIỆC LÀM
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI - NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………
BỘ NỘI VỤ
……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LƯU VŨ MINH QUÂN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TẠO VIỆC LÀM
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số: 60 34 04 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HOÀNG MAI
HÀ NỘI - NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Lưu Vũ Minh Quân
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
DNNN
: Doanh nghiệp nhà nước
DVVL
: Dịch vụ việc làm
HĐND
: Hội đồng nhân dân
HTX
: Hợp tác xã
ILO
: Tổ chức lao động Quốc tế
LHPN
: Liên hiệp phụ nữ
LLLĐ
: Lực lượng lao động
PTNT
: Phát triển nông thôn
TNCS
: Thanh niên Cộng sản
TNHH
: Trách nhiệm hữu hạn
TTLĐ
: Thị trường lao động
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
UBND
: Ủy ban nhân dân
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Đơn vị hành chính, mật độ dân số, dân số nông thôn ................... 49
Bảng 2.2: Lao động làm việc trong các ngành tạo việc làm mới .................. 50
Bảng 2.3: Biểu đồ thể hiện số người lao động nông thôn được hỗ trợ đào tạo
từ nguồn ngân sách Nhà nước qua các năm …………………….......…….....54
Bảng 2.4: Biểu đồ thể hiện tỷ lệ lao động được đào tạo nghề tỉnh Thái Nguyên
năm 1998 và 2008…………………………………………………...........….60
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................. ........................................................... 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TẠO VIỆC
LÀM.......................................................................................................................................9
1.1. Tổng quan về việc làm ...........................................................................9
1.2. Thực hiện chính sách tạo việc làm .......................................................18
1.3. Kinh nghiệm thực hiện chính sách tạo việc làm ở một số địa phương ..39
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ThỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TẠO VIỆC LÀM CỦA
TỈNH THÁI NGUYÊN
............................................................................................ 45
2.1.Khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế- xã hội tỉnh Thái Nguyên ........45
2.2. Thực trạng dân số, lao động và việc làm của tỉnh Thái Nguyên............49
2.3. Thực trạng thực hiện chính sách tạo việc làm của tỉnh Thái Nguyên ....50
2.4. Những tồn tại và nguyên nhân..............................................................64
CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH TẠO VIỆC LÀM CỦA TỈNH THÁI NGUYÊN............................................... 69
3.1. Mục tiêu, phương hướng thực hiện chính sách tạo việc làm của tỉnh Thái
nguyên
...................................................................................................69
3.2. Các giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách tạo việc làm của tỉnh Thái
Nguyên đến năm 2020 ................................................................................70
3.3. Một số kiến nghị ..................................................................................92
KẾT LUẬN
.............................................................................................................. 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 95
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm và tạo việc làm là một trong những chính sách quan trọng đối
với mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao
động lớn như Việt Nam. Tạo việc làm cho người lao động trong sự phát triển
của thị trường lao động là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn
lao động, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, tận dụng được lợi thế
nguồn nhân lực trẻ và năng động để phát triển theo kịp các nước trên thế giới.
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương,
đường lối, chính sách thiết thực, hiệu quả nhằm phát huy tối đa nguồn nhân
lực, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển đổi cơ cấu lao động, đáp
ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo nhiều việc làm
cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, góp phần nâng cao đời sống của
người dân, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chiến lược phát
triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020 nêu rõ: “Thực hiện tốt các chính sách
về lao động, việc làm, tiền lương, thu nhập nhằm khuyến khích và phát huy
cao nhất năng lực của người lao động. Đẩy mạnh dạy nghề và tạo việc làm.
Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài...”. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X nêu
rõ: “Phát triển thị trường lao động trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết
cung – cầu lao động, phát huy tính tích cực của người lao động trong học
nghề, tự tạo và tìm việc làm”. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã
đề ra mục tiêu: "Giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động… Tỷ lệ hộ nghèo
giảm bình quân 2%/ năm, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 55%... Phát triển đa
dạng các ngành, nghề để tạo nhiều việc làm và thu nhập”.
Hệ thống pháp luật kinh tế tiếp tục được hoàn thiện (Luật Đầu tư, Luật
Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, Luật Thương mại,...) đã góp phần giải phóng
1
sức sản xuất, tạo điều kiện cho thị trường lao động phát triển. Bộ luật Lao
động sửa đổi, bổ sung, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Giáo dục nghề nghiệp,
Luật Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, các Nghị định,
Thông tư hướng dẫn liên quan tới lao động, thị trường lao động và việc làm
đã hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường lao động phát triển, tăng cường cơ
hội việc làm và hoàn thiện quan hệ lao động. Các chính sách tín dụng ưu đãi
cho sản xuất, kinh doanh được ban hành. Có gần 20 chính sách, cơ chế tín
dụng cho vay thông qua các chương trình, tổ chức, hội đoàn thể. Với hệ thống
chính sách việc làm như vậy đã tạo ra nhiều việc làm cho xã hội, cơ hội có
việc làm của người lao động tăng lên, giải tỏa sức ép về việc làm cho người
lao động trong bối cảnh lực lượng lao động tham gia tìm kiếm việc làm ngày
càng tăng.
Với vị trí địa lý thuận lợi, những năm gần đây, các khu công nghiệp ở
Thái Nguyên phát triển rất mạnh mẽ, thu hút một lực lượng lao động lớn,
không chỉ của Thái Nguyên mà còn từ các địa phương khác về làm việc. Tuy
nhiên, ở khía cạnh quản lý nhà nước đối với thị trường lao động, việc làm và
vai trò điều tiết của nhà nước đối với quan hệ cung cầu lao động tại Thái
Nguyên còn hạn chế như cơ cấu lao động chưa phù hợp với sự chuyển đổi cơ
cấu kinh tế theo yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Các văn bản của Nhà nước hướng dẫn thực hiện pháp luật về lao động, việc
làm và thị trường lao động chưa được thực hiện đầy đủ và chính điều này đã
gây áp lực cho vấn đề giải quyết và tạo việc làm trên cả nước nói chung và
Thái Nguyên nói riêng. Hệ thống chính sách tạo việc làm còn nhiều bất cập và
chưa đồng bộ. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở Thái Nguyên vẫn còn hạn
chế, chất lượng lao động còn thấp, tỷ lệ thất nghiệp còn cao, cung- cầu về lao
động mất cân đối, dẫn đến bức xúc ngày càng lớn về việc làm ở Thái Nguyên
hiện nay.
2
Nhằm đánh giá đúng thực trạng thực hiện chính sách tạo việc làm, tác
giả đã chọn đề tài: "Thực hiện chính sách tạo việc làm trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên"làm luận văn để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện
việc thực hiện chính sách tạo việc làm của tỉnh Thái Nguyên
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong những năm gần đây, có một số tác giả đã đề cập đến các khía
cạnh mà đề tài nghiên cứu quan tâm. Trong số đó có:
- TS. Nguyễn Hữu Dũng, TS. Trần Hữu Trung (chủ biên):"Về Chính
sách giải quyết việc làm ở Việt Nam" NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997.
Các tác giả đã trình bày tổng quát về phương pháp luận và phương pháp tiếp
cận chính sách việc làm; làm rõ thực trạng vấn đề việc làm ở Việt Nam hiện
nay. Từ đó khuyến nghị định hướng một số chính sách cụ thể về việc làm
trong công cuộc CNH, HĐH.
- Đề tài KX 04. Luận cứ khoa học cho việc xây dựng chính sách giải
quyết việc làm ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần do TS. Nguyễn Hữu Dũng làm chủ nhiệm đã nghiên cứu các nội dung
sau: Xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoạch định chính sách giải quyết
việc làm của Việt Nam trong điều kiện chuyển đổi cấu trúc nền kinh tế và đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế; Đề xuất mô hình tổng quát và hệ thống biện pháp
nhằm đảm bảo thực hiện chính sách quốc gia xúc tiến việc làm.
- TS. Nguyễn Bá Ngọc, KS. Trần Văn Hoan (chủ biên), "Toàn cầu hoá: cơ hội
và thách thức đối với lao động Việt Nam", NXB Lao động - xã hội, Hà Nội 2002. Các
tác giả đã trình bày tổng quan tác động của toàn cầu hoá đến lao động và các vấn đề xã
hội của Việt Nam, những xu hướng vận động của nguồn nhân lực, lao động và việc
làm Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hoá kinh tế, phân tích những cơ hội và thách
thức đối với lao động Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế. Từ đó, đề ra các
giải pháp đối với lao động Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế.
3
- TS. Nguyễn Thị Lan Hương: "Thị trường lao động Việt Nam: Định
hướng và phát triển", NXB Lao động - xã hội, Hà Nội, 2002. Tác giả đi từ
việc phân tích các luận cứ cơ bản định hướng phát triển thị trường lao động
Việt Nam, sự hình thành và phát triển của thị trường lao động Việt Nam. Từ
đó đề xuất các giải pháp định hướng phát triển thị trường lao động Việt Nam
giai đoạn 2001- 2010.
- Cuốn “Nguồn nhân lực nông thôn ngoại thành trong quá trình đô thị
hóa trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Nguyễn Tiệp đã nêu những
vấn đề về những đặc trưng cơ bản của nguồn lực nông thôn trong quá trình đô
thị hóa tác động chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn. Dòng lao động di
chuyển từ nông thôn ra thành thị bao gồm có lao động nhập cư và sinh sống
làm việc tại các tỉnh và lao động nông thôn đến tỉnh làm việc mang tính thời
vụ. Các chính sách hỗ trợ hoặc phát triển hệ thống tín dụng ưu đãi cho đào tạo
nhân lực nông nghiệp nông thôn từ nhà nước còn hạn chế.
- Các bài viết "Lao động việc làm thời kỳ 1991- 2000 và phương hướng
giai đoạn 2001- 2010" của TS. Lê Duy Đồng, Tạp chí Lao động và xã hội, số
III- 2001; "WTO và vấn đề tạo việc làm cho người lao động" của TS. Đinh
Trọng Thịnh, Tạp chí Kinh tế và phát triển, 6/2005. Trong đó các tác giả đi
sâu vào các vấn đề như: Kết quả giải quyết việc làm, những mặt yếu kém và
bất cập, phương hướng giải quyết việc làm, đặc biệt là trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế...
- Chính sách việc làm ở Việt Nam: thực trạng và định hướng hoàn thiện
của PGS.TS Trần Việt Tiến, tạp chí Kinh tế và Phát triển. Trong đó tác giả đi
sâu vào các vấn đề như thực trạng chính sách việc làm ở nước ta; Đánh giá
chính sách việc làm ở nước ta và Định hướng hoàn thiện chính sách việc làm
ở nước ta tới năm 2020.
4
- Chính sách việc làm: thực trạng và giải pháp. Ths. Nguyễn Thúy Hà,
Viện nghiên cứu lập pháp đề cập tới vai trò, thực trạng, phương hướng giải
quyết vấn đề việc làm và hệ thống chính sách việc làm, đánh giá chính sách
việc làm, giải pháp hoàn thiện chính sách việc làm.
- Thông tin chuyên đề của Viện nghiên cứu lập pháp, trung tâm thông
tin khoa học "Pháp luật việc làm và một số đề xuất, kiến nghị xây dựng luật",
- Bùi Thị Thúy (2005) "Việc làm và chính sách tạo việc làm ở Hải
Dương hiện nay"; luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh. Nghiên cứu những vấn đề lý luận về lao động việc làm, quan niệm
về việc làm và những nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm, luận văn phân tích
thực trạng tạo việc làm ở Hải Dương, chỉ ra xu hướng tạo việc làm ở Hải
Dương hiện nay.
- Lưu Văn Hùng (2011), Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp
ở Đà Nẵng, Luận Văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh. Nghiên cứu những vấn đề lý luận về việc làm và giải quyết việc làm
cho lao động nông nghiệp.
- Nguyễn Thị Lan Hương (2002), "Thị trường lao động Việt Nam: Định
hướng và phát triển", Nhà xuất bản Lao động - xã hội, Hà Nội. Tác giả đi từ
việc phân tích các luận cứ cơ bản định hướng phát triển thị trường lao động
Việt Nam, sự hình thành và phát triển của thị trường lao động Việt Nam. Từ
đó đề xuất các giải pháp định hướng phát triển thị trường lao động Việt Nam
giai đoạn 2001- 2010.
- Bài viết của TS. Đỗ Phú Hải (2014), "Chính sách lao động - việc làm:
Thực trạng và giải pháp", Học viện khoa học xã hội thuộc Viện Hàn lâm
khoa học xã hội Việt Nam. Bài viết tập trung trình bầy những kết quả nghiên
cứu về vấn đề lao động việc làm và các trở ngại chính sách, trên cơ sở mục
tiêu của Đảng tại Đại hội XI đã xác định đưa ra những giải pháp và công cụ
5
chính sách nhằm cơ cấu lại và sử dụng hợp lý nguồn lực lao động xã hội để
phát triển nền kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu vấn đề
chính sách tạo việc làm ở tỉnh Thái Nguyên. Xuất phát từ lý do trên học viên
chọn đề tài này làm luận văn thạc sĩ của mình, đề tài luận văn thực hiện có sự
kế thừa, phát triển những thành quả của những tài liệu liên quan trước đó để
đánh giá, phân tích, từ đó đề xuất ra các giải pháp phù hợp với tình hình thực
tế và chủ chương phát triển kinh tế - xã của tỉnh Thái Nguyên trong những
năm tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng về thực hiện
chính sách tạo việc làm và những nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách tạo
việc làm từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên. Qua đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện
thực hiện chính sách tạo việc làm từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách tạo việc làm.
- Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách tạo việc làm ở tỉnh Thái Nguyên.
- Đề xuất những giải pháp hoàn thiện việc thực hiện chính sách tạo việc
làm từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Việc thực hiện các nội dung chính sách tạo việc làm của tỉnh Thái Nguyên.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách tạo việc làm từ năm 2012
đến năm 2015 từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên
6
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Về phương pháp luận: Luận văn sử dụng phương pháp luận nghiên
cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương
pháp trừu tượng hoá khoa học để phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về Thực
hiện chính sách tạo việc làm ở tỉnh Thái Nguyên
- Về phương pháp nghiên cứu cụ thể: Sử dụng phương pháp logic kết
hợp với phương pháp lịch sử. Thực hiện phương pháp này là quá trình xem
xét, nghiên cứu các sự kiện lịch sử dưới dạng tổng quát, từ đó vạch ra bản
chất, khuynh hướng vận động của lịch sử. Bên cạnh đó luận văn sử dụng
phương pháp điều tra, khảo sát thực tế. Trong luận văn phương pháp này
được sử dụng để thu thập, nắm bắt thông tin thực tế và lấy số liệu trực
tiếp từ các đơn vị quản lý tại địa phương, kết hợp số liệu thứ cấp hiện có
liên quan đến đề tài nghiên cứu để phân tích, đánh giá thực trạng và đưa
ra dự báo. Ngoài ra luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh
và phương pháp phỏng vấn sâu (thông qua phỏng vấn chuyên gia và cán
bộ chuyên quản).
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài cung cấp những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện chính
sách tạo việc làm ở Thái Nguyên để phục vụ công tác giảng dạy và nghiên
cứu khoa học.
Kết quả góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các cơ
quan, ban ngành của tỉnh tham khảo trong quá trình thực hiện chính sách tạo
việc làm của tỉnh Thái Nguyên.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Về mặt thực tiễn, từ phân tích thực trạng thực hiện chính sách việc làm
ở tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2011 - 2015, luận văn chỉ ra những kết quả đạt
7
được, những mặt hạn chế chủ yếu và nguyên nhân của những hạn chế đó, đề
xuất các phương hướng giải pháp nhằm thực hiện tốt chính sách tạo việc làm
ở tỉnh Thái Nguyên. Đây là những đánh giá và đề xuất có căn cứ lý luận và
thực tiễn xác đáng và có tính khả thi. Vì vậy, luận văn có thể dùng làm tài liệu
tham khảo tốt cho tỉnh Thái Nguyên nói chung và Sở Lao động – Thương
binh và xã hội tỉnh Thái Nguyên nói riêng và các tỉnh có điều kiện tương tự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương.
Chương 1: Cơ sở khoa học về thực hiện chính sách tạo việc làm
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách tạo việc làm của
tỉnh Thái Nguyên
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện thực hiện chính
sách tạo việc làm của tỉnh Thái Nguyên.
8
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TẠO VIỆC LÀM
1.1. Tổng quan về việc làm
1.1.1. Lao động
Lao động là một yếu tố tất yếu không thể thiếu được của con người, nó
là hoạt động cần thiết và gắn chặt với lợi ích của con người. Bản thân cá nhân
mỗi con người trong nền sản xuất xã hội đều chiếm những vị trí nhất định.
Mỗi vị trí mà người lao động chiếm giữ trong hệ thống sản xuất và xã hội với
tư cách là một sự kết hợp của các yếu tố khác trong quá trình sản xuất được
gọi là chỗ làm hay việc làm. Các Mác khẳng định:
Lao động trước hết là quá trình diễn ra sự tác động giữa con người với
con người và giữa con người với tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng sự
hoạt động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự
trao đổi chất giữa họ và tự nhiên. Trong khi tác động vào tự nhiên ở bên ngoài
thông qua sự vận động đó và làm thay đổi tự nhiên, con người cũng đồng thời
làm thay đổi bản tính của chính nó [22, tr. 230].
Với ý nghĩa đó, lao động là quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi người trong
mỗi quốc gia. Để thực hiện quyền và nghĩa vụ đó, người lao động cần có việc
làm hợp pháp, do đó việc làm là điều kiện để quá trình lao động được diễn ra
và cũng là cơ sở để người lao động có thu nhập, đảm bảo ổn định đời sống
của bản thân con người và của toàn xã hội.
Như vậy, việc làm là một phạm trù tồn tại khách quan trong nền sản
xuất xã hội, phụ thuộc vào các điều kiện hiện có của nền sản xuất. Người lao
động được coi là có việc làm khi chiếm giữ một vị trí nhất định trong hệ
thống sản xuất của xã hội. Nhờ có việc làm mà người lao động mới thực hiện
được quá trình lao động tạo ra sản phẩm cho xã hội, cho bản thân.
9
1.1.2. Các quan niệm về việc làm
Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội
và nhân khẩu, là một trong những vấn đề chủ yếu nhất của toàn bộ đời sống
xã hội. Khái niệm việc làm và khái niệm lao động không giống nhau, nhưng
có liên quan chặt chẽ với nhau. Việc làm thể hiện mối quan hệ của con người
với những chỗ làm việc cụ thể, là những giới hạn xã hội cần thiết trong đó lao
động diễn ra, đồng thời nó là điều kiện cần thiết để thoả mãn nhu cầu xã hội
về lao động, là nội dung chính của hoạt động con người. Về góc độ kinh tế,
việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa
yếu tố con người và yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất.
Đối với mỗi cá nhân, gia đình và mỗi chính phủ trong từng quốc gia,
việc làm là vấn đề quan trọng được quan tâm hàng đầu. Quan niệm về việc
làm không cố định mà nó được xét trên nền tảng của một chế độ chính trị, gắn
với trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội của mỗi quốc gia, mỗi
thời đại. Khi trình độ phát triển mọi mặt, đặc biệt là định hướng chính trị của
một quốc gia thay đổi, quan niệm việc làm cũng biến đổi.
Theo Giăng - Mu - Li, Phó cố vấn kinh tế của Văn phòng lao động
quốc tế lại cho rằng: Việc làm có thể được định nghĩa như một tình trạng
trong đó có sự trả công bằng tiền hoặc hiện vật, do có một sự tham gia tích
cực có tính chất cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất.
Quan niệm này phát triển hơn, khái quát hơn hai quan niệm trên. Tuy
nhiên, nếu chỉ có những hoạt động được trả công bằng tiền hoặc hiện vật mới
được coi là việc làm thì chưa thoả đáng. Những người nằm trong lực lượng
lao động nhưng làm công việc nội trợ, bản thân họ không nhận được tiền
công, tiền lương bằng tiền hay hiện vật từ xã hội, từ người sử dụng lao động
mà chỉ nhận được sự phân phối lại trực tiếp thu nhập từ các thành viên trong
gia đình. Họ không trực tiếp mà gián tiếp tạo ra thu nhập trực tiếp, họ nhận
10
được thu nhập gián tiếp thông qua điều tiết thu nhập từ các thành viên trong
gia đình có việc làm hưởng tiền lương trong xã hội. Vậy, họ là những người
có việc làm, đảm nhận một chức năng trong guồng máy chỉ đạo xã hội - nghề
nội trợ.
Trong thực tiễn của đời sống kinh tế - xã hội, có việc làm được coi là
hợp pháp, chính đáng song cũng có việc làm tạo ra thu nhập nhưng lại được
coi là bất chính. Sự phân biệt này dựa trên cơ sở luật pháp và ý thức hệ của
mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ, giai đoạn của trình độ phát triển. Quan niệm
về việc làm hợp pháp phải là việc làm mang lại thu nhập chính đáng cho con
người - nghề hợp pháp - tương ứng với pháp luật của mỗi nước cho phép.
Để làm sáng tỏ hơn các quan niệm về việc làm khi nghiên cứu về thực
hiện chính sách việc làm, chúng ta cần nghiên cứu thêm trong mối tương quan
với khái niệm thất nghiệp.
Theo ông Tite Habiyakare, chuyên gia về thống kê lao động, Tổ chức
Lao động Quốc tế khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, khái niệm quốc tế về
thất nghiệp hiện đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới ngày nay xuất phát
từ Nghị quyết của Hội nghị Thống kê Lao động Quốc tế (ICLS) lần thứ 13
năm 1982. Khái niệm này được sử dụng phần lớn các nước trên thế giới, cả ở
các nền kinh tế phát triển và đang phát triển.Theo tiêu chuẩn quốc tế, “người
thất nghiệp” bao gồm những người ở độ tuổi nhất định mà trong thời gian
khảo sát (thường là trong tuần trước đó hoặc 7 ngày trước đó (còn gọi là
“Tuần lễ tham khảo”thường dùng trong các phiếu khảo sát và biểu thống kê)
đáp ứng tất cả 3 điều kiện: “không có việc làm” (không làm việc dù chỉ là 1
giờ, không làm việc làm công ăn lương lương hoặc việc tự làm), “sẵn sàng
làm việc” và “đang tìm việc”.
Như vậy, “thất nghiệp” là một thái cực trên một dải lực lượng lao động
bao gồm cả những người “thiếu việc làm” và “có việc làm”.
11
Tuy nhiên các tiêu chuẩn quốc tế này đã thay đổi bởi Hội nghị của
ILCS lần thứ 19 tháng 10 năm 2013 với một cách thức thống kê mới. Hệ
thống mới nhằm cải thiện việc đo lường các loại hình việc làm khác nhau, ví
dụ như những công việc tự sản xuất (own use production work), công việc
được trả lương, thực tập không có lương, và việc làm tự nguyện (volunteer
work). Nó đồng thời thu hẹp khái niệm về việc làm để thể hiện tốt hơn những
gì được coi là “việc làm theo định hướng thị trường” (market-oriented job).
Theo định nghĩa mới, những người có việc làm là những người trên 15 tuổi
mà trong một khoảng thời gian ngắn nhất định (thường là 1 tuần hoặc 7 ngày),
có tham gia vào một hoạt động sản xuất ra hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ để
được trả lương hoặc kiếm lợi nhuận. Nói theo cách khác, đó là những người
làm việc ở một công việc được trả lương hoặc một việc tự kinh doanh để kiếm
lợi nhuận trong khoảng thời gian ít nhất là 1 giờ trong giai đoạn khảo sát.
Điều này sẽ dẫn đến sự thay đổi đáng kể về tỷ lệ có việc làm đối với
nhiều quốc gia đang phát triển như Việt Nam, nơi phần lớn người lao động (
trên 50 %) làm việc trong ngành nông nghiệp tự cung tự cấp với rất ít hoặc
không có sự kết nối với nền kinh tế thị trường. Khi định nghĩa mới được
áp dụng, các cuộc điều tra về thị trường lao động sẽ đo lường được tốt
hơn bộ phận thất nghiệp ở nền kinh tế thị trường (thay vì bị lẫn lộn với
ngành nông nghiệp tự cung tự cấp) và giúp chỉ ra được tình trạng không
sử dụng được đầy đủ tiềm năng của lực lượng lao động (labour
underutilization) trong nền kinh tế.
Việt Nam là một nước ủng hộ mạnh mẽ sự thay đổi về thống kê việc
làm tại Hội nghị ICLS lần thứ 19.
Tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 năm 1983, Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO) đã đưa ra quan niệm về người có việc làm như sau: "Người có việc làm
là những người làm một việc gì đó, có được trả tiền công, lợi nhuận hoặc
12
được thanh toán bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt động
mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình, không nhận
được tiền công hay hiện vật" [ 5, tr.47].
Như vậy, người có việc làm bao gồm những người lao động ở tất cả các
khu vực (công và tư) có thu nhập đem lại nguồn sống cho bản thân, gia đình
và xã hội. Đây là một khái niệm mềm dẻo phù hợp với nền kinh tế thị trường,
phù hợp với nền kinh tế nhiều thành phần. Do đó, khái niệm này đã được áp
dụng ở nhiều nước trên thế giới.
Chúng ta đã có khái niệm thống nhất về việc làm được khẳng định
trong Bộ luật Lao động của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: "Mọi
hoạt động lao động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa
nhận là việc làm" [7, tr.163].
Từ quan niệm trên ta thấy: Khái niệm việc làm bao hàm các nội dung sau:
- Là hoạt động lao động của con người.
- Hoạt động lao động nhằm mục đích tạo ra thu nhập.
- Hoạt động lao động đó không bị pháp luật cấm.
Như vậy, khái niệm việc làm được mở rộng về nội hàm và tạo ra khả
năng to lớn giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho nhiều
người. Việc chuẩn và lượng hoá khái niệm việc làm tạo ra cơ sở thống nhất
trong lĩnh vực điều tra, nghiên cứu và hoạch định các chính sách về việc làm.
Ở Việt Nam hiện nay, theo Bộ luật Lao động quy định độ tuổi lao động
là những người đủ 15 tuổi đến 60 tuổi (với nam) và đủ 15 tuổi đến 55 tuổi
(với nữ).
- Nguồn lao động: Gồm những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và
những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, nhưng:
- Đang thất nghiệp
- Đang đi học
13
- Đang làm nội trợ trong gia đình mình.
- Không có nhu cầu làm việc.
- Những người thuộc tình trạng khác (bao gồm cả những người nghỉ
hưu trước tuổi theo quy định của Bộ luật Lao động)
- Lực lượng lao động:
Theo quan niệm của ILO: Lực lượng lao động là một bộ phận dân số
trong độ tuổi quy định, thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp.
- Sức lao động: Theo C.Mác: "...Sức lao động hay năng lực lao động là
toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong
một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản
xuất ra một giá trị sử dụng nào đó" [22, tr.25].
- Người có việc làm: là người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong
các ngành kinh tế quốc dân, với thời gian làm việc không ít hơn mức chuẩn
quy định cho người có việc làm trong tuần lễ tham khảo.
Mức chuẩn ở Việt Nam: Làm việc ít nhất 16 giờ trong một tuần.
- Người thiếu việc làm:
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thì người thiếu việc làm là người
trong tuần lễ tham khảo có số giờ làm việc dưới mức quy định chuẩn cho
người có đủ việc làm và có nhu cầu làm thêm.
Ở Việt Nam hiện nay, mức chuẩn về thời gian làm việc cho người thiếu
việc làm là làm việc dưới 40 giờ (5 công) trong tuần lễ tham khảo hoặc trong
tuần lễ tham khảo không làm việc vì lý do bất khả kháng, nhưng 4 tuần trước
đó làm việc dưới 160 giờ (20 công) và có nhu cầu làm thêm.
- Người đủ việc làm: Là những người có việc làm với thời gian làm
việc không ít hơn mức giờ chuẩn quy định cho người đủ việc làm trong tuần
lễ tham khảo hoặc là những người làm việc dưới giờ chuẩn quy định cho
người đủ việc làm, nhưng không có nhu cầu làm thêm.
Mức chuẩn: Làm việc 40 giờ trở lên trong tuần lễ tham khảo.
14
- Xem thêm -