Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn từ thực tiễn Họ...

Tài liệu Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn từ thực tiễn Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam

.PDF
87
297
76

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THÙY DUNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ LÀM CÔNG TÁC ĐOÀN TỪ THỰC TIỄN HỌC VIỆN THANH THIẾU NIÊN VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG Hà Nội, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THÙY DUNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ LÀM CÔNG TÁC ĐOÀN TỪ THỰC TIỄN HỌC VIỆN THANH THIẾU NIÊN VIỆT NAM Ngành: Chính sách công Mã số: 8 34 04 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BẠCH HỒNG VIỆT Hà Nội, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố. Các thông tin, tài liệu trình bày và trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc. Hà Nội, ngày 26 tháng 2 năm 2019 Học viên Nguyễn Thùy Dung LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luân văn Thạc sĩ với đề tài “Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn từ thực tiễn Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam”, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ quý báu, có hiệu quả của nhiều cơ quan, tập thể và cá nhân. Nhân dịp hoàn thành luận văn tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến người hướng dẫn khoa học là TS.Bạch Hồng Việt, người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ, động viên giúp đỡ để tôi hoàn thành luận văn thạc sĩ của mình. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Khoa Chính sách công, Học viện Khoa học xã hội đã trang bị cho học viên những kiến thức chuyên ngành trong suốt quá trình học tập tại Học viện Khoa học xã hội. Tôi xin chân trọng cảm ơn Ban Lãnh đạo Trung tâm phát triển kỹ năng xã hội - Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam - nơi tôi công tác; Phòng Quản lý và đào tạo Học viện Khoa học xã hội; Khoa Chính sách công đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu cũng như giúp đỡ tôi các thủ tục cần thiết trong quá trình viết và bảo vệ luận văn. Cuối cùng, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn. Hà Nội, ngày 26 tháng 2 năm 2019 Học viên Nguyễn Thùy Dung MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ LÀM CÔNG TÁC ĐOÀN .......................... 7 1.1. Khái niệm chính sách công, thực hiện chính sách công ............................ 7 1.2. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn ...................... 17 1.3 Một số yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn ...................................................................................... 27 Chương 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ LÀM CÔNG TÁC ĐOÀN TỪ THỰC TIỄN HỌC VIỆN THANH THIẾU NIÊN VIỆT NAM ................................................. 33 2.1. Tổng quan về Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam ............................... 33 2.2. Thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn từ thực tiễn Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam ................................ 37 2.3. Đánh giá chung về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn từ thực tiễn Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam và những vấn đề đặt ra ........................................................................................................... 49 Chương 3 GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, CÁN BỘ LÀM CÔNG TÁC ĐOÀN TỪ THỰC TIỄN HỌC VIỆN THANH THIẾU NIÊN VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ............................ 54 3.1. Mục tiêu thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn từ thực tiễn Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam ................................ 54 3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn từ thực tiễn Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam trong thời gian tới ................................................................................... 58 KẾT LUẬN .................................................................................................... 75 TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT HVTTNVN Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam QPPL Quy phạm pháp luật TCLLCT Trung cấp lý luận chính trị VBQQPL Văn bản quy phạm pháp luật DANH MỤC BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ Bảng 2.1. Số lượng nguyện vọng đăng ký xét tuyển vào Học viện hệ chính quy các năm học 2013 - 2014 và 2014 -2015 ........................................... 39 Bảng 2.2. So sánh kết quả đào tạo kỳ 1 và kỳ 2 năm học 2014 - 2015 hệ chính quy tại Học viện ............................................................................. 42 Bảng 2.3. Số liệu kết quả học tập năm học 2015 - 2016 và kỳ 1 năm học 2016 – 2017 ............................................................................................. 43 Bảng 2.4. Tổng hợp số liệu thống kê chất lượng giảng dạy năm học 2014 2015 hệ chính quy tại Học viện ................................................................ 48 Bảng 2.5. Tổng hợp số liệu thống kê chất lượng phục vụ năm học 2014 2015 hệ chính quy tại Học viện ................................................................ 48 Biểu đồ 2.1: Biểu đồ kết quả học tập từng học kỳ, năm học 2015 - 2016 và 2016 – 2017 ..................................................................................................... 44 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cán bộ Đoàn là nguồn cán bộ của Đảng, được Đảng và Nhà nước giao cho nhiệm vụ đoàn kết, tập hợp thanh niên; đồng thời, thông qua tổ chức đoàn, Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam để giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng họ. Cán bộ Đoàn có nhiệm vụ tổ chức các phong trào hành động cách mạng của thanh niên tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Cán bộ Đoàn bao gồm cán bộ chuyên trách, cán bộ bán chuyên trách, cán bộ không chuyên trách, cán bộ làm công tác Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam, cán bộ làm công tác Hội Sinh viên Việt Nam và Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh. Là người thủ lĩnh của thanh niên, đi đầu trong công tác tập hợp, vận động thanh thiếu niên, cán bộ Đoàn đồng thời cũng là người hiến kế tổ chức thực hiện các phong trào, các nghị quyết, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các chương trình, kế hoạch hoạt động của tổ chức đoàn; họ là cầu nối giữa thanh niên với cấp ủy Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân. Phong trào đoàn có mạnh hay không phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ Đoàn và phương châm “cán bộ nào, phong trào ấy” đã khẳng định nhân tố đặc biệt quan trọng của người thủ lĩnh thanh niên này. Như vậy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn không chỉ là cốt lõi trong xây dựng Đoàn, mà còn là một bộ phận quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, cán bộ Đoàn là nguồn cung cấp cán bộ Đảng cho hệ thống chính trị. Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn: “muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”; “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Người khẳng định: Cán bộ và công tác cán bộ 1 là công tác then chốt của Đảng, có vai trò đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa quyết định sự thành bại của cách mạng. Quán triệt sâu sắc tư tưởng đó, trong các giai đoạn lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng đã luôn quan tâm đến công tác cán bộ Đoàn thanh niên và đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về công tác thanh niên và cán bộ Đoàn, tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho phong trào đoàn phát triển. Đặc biệt trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng đã xác định rất rõ trong Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25 tháng 7 năm 2008 về tăng cường sự lãnh đạo của mình đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là: “Xây dựng Đoàn là xây dựng Đảng trước một bước”. Được sự quan tâm của Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và thực hiện chủ trương của Ban Thường vụ Trung ương Đoàn, ngày 15/10/1956, Trường Huấn luyện cán bộ Trung ương Đoàn thanh niên Lao động Việt Nam chính thức được thành lập, trở thành mốc lịch sử đánh dấu bước phát triển mới trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn ở nước ta. Đây là cơ quan chuyên thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cán bộ Đoàn, đào tạo, trang bị kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ cả về lý luận và chuyên môncho những lãnh đạo trẻ, những thủ lĩnh của phong trào thanh thiếu nhi, để sau đó, họ đến với mọi miền đất nước, gây dựng, phát triển phong trào thanh thiếu nhi, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cách mạng. Cùng với sự phát triển của đất nước, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn ngày càng được quan tâm và đổi mới về nội dung chương trình, phương thức triển khai, tuy nhiên, vẫn còn nhiều nội dung chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Các loại hình đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn, cập nhật kiến thức cho đội ngũ cán bộ Đoàn bộc lộ nhiều bất cập, chưa thường xuyên; hình thức mở các lớp đơn điệu, thiếu tính sáng tạo; nội dung nghèo nàn, nặng về lý thuyết, ít chú trọng về kỹ năng, nghiệp vụ; chưa lồng ghép vào việc xây dựng 2 các mô hình thanh niên, xây dựng các cá nhân điển hình để cán bộ Đoàn tham khảo, học tập, qua đó cổ vũ, tuyên truyền và nhân rộng các mô hình, cá nhân tiêu biểu; đội ngũ báo cáo viên thiếu kỹ năng truyền đạt, thiếu tính linh động, chưa cập nhật kiến thức… Những bất cập đó do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân căn bản là việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn chưa thực sự hiệu quả, dẫn đến nội dung, chương trình, hình thức và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng chưa đáp ứng yêu cầu hoạt động thực tiễn. Đặc biệt, trong điều kiện khoa học công nghệ ngày nay đang phát triển như vũ bão, thì yêu cầu về tri thức văn hoá, ngoại ngũ và trình độ chuyên môn của người cán bộ càng phải tiêu biểu, ngày càng rõ nét hơn mới tương xứng vị trí “thủ lĩnh” của tuổi trẻ. Người cán bộ Đoàn không chỉ cần có hiểu biết về tri thức khoa học xã hội phong phú,… mà phải có những kiến thức cơ bản, nghiệp vụ tinh thông vụ trong công tác của mình. Nhận thức rõ tầm quan trọng đặc biệt của việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn, học viên mạnh dạn chọn đề tài: “Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn từ thực tiễn Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Đến nay cũng đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về chính sách, đào tạo cán bộ Đoàn nói chung như: “Thực hiện chính sách phát triển cán bộ Đoàn cấp xã, phường từ thực tiễn Tỉnh Bình Dương” – Luận văn Thạc sỹ chính sách công, mã số 60340402, năm 2017 của tác giả Nguyễn Công Lý; “Thực hiện chính sách phát triển cán bộ Đoàn từ thực tiễn Thành phố Tam Kỳ, Tỉnh Quảng Nam” – Luận văn Thạc sỹ chính sách công, mã số 60340402, năm 2018 của tác giả Phạm Nguyễn Hồng Châu; “Nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn hiện nay” của Ths Đinh Văn Dũng, 3 Khoa Dân vận, Trường Chính trị Nghệ An;... Tuy nhiên, chưa có công trình nào nêu lên được thực tiễn từ Học viện thanh thiếu niên. Tại HVTTNVN, các nội dung liên quan đến vấn đề thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn đã được đánh giá trong các báo cáo sơ, tổng kết kỳ học, năm học, khóa học. Tuy nhiên, đến nay chưa có tác giả nào nghiên cứu một cách hệ thống tình hình, thực trạng và đề ra giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn tại HVTTNVN. Luận văn sẽ góp phần làm rõ hơn về vấn đề này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích chọn đề tài Đề tài tiến hành tìm hiểu thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn từ thực tiễn HVTTNVN, trên cơ sở đó tìm ra các giải pháp, kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao chất lượng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn đạt hiệu quả, chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu mới trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở lý luận cơ bản về thực hiện chính sách công, đề tài đi sâu phân tích thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn từ thực tiễn HVTTNVN. Từ đó đưa ra giải pháp thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn từ thực tiễn HVTTNVN trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ của đề tài Nghiên cứu tìm hiểu việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn từ thực tiễn HVTTNVN. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tổng quan, những yếu tố tác động, điểm mạnh, những điểm còn tồn tại, nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn từ thực tiễn HVTTNVN trong thời gian tới. 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn từ thực tiễn HVTTNVN Các tổ chức, cá nhân liên quan trong quá trình thực hiện chính sách. 4.1. Đối tượng nghiên cứu Quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn từ thực tiễn HVTTNVN. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian: Đề tài được nghiên cứu trên thực tiễn thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn của HVTTNVN Về thời gian: Đề tài được nghiên cứu trong thời gian từ năm 2012 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài tiếp cận từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước ta đối với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn; nghị quyết của Đảng bộ các cấp trong HVTTNVN. Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin để phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn tại HVTTNVN Nghiên cứu các quan điểm của Đảng, đường lối chủ trương và chính sách liên quan đến công tác cán bộ Đoàn - Hội - Đội. Tiến hành khảo sát đến các đối tượng có liên quan tìm ra thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn của HVTTNVN 5 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Luận văn góp phần bổ sung căn cứ về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn từ thực tiễn HVTTNVN Cùng sinh hoạt, tham gia hoạt động trực tiếp với cán bộ Đoàn cơ sở, Chi đoàn cơ sở để thấy được những ưu, khuyết điểm mang tính thực tiễn. Phân tích tổng hợp, đánh giá rút ra kinh nghiệm. Trên cơ sở khung lý thuyết về Chính sách công và quá trình thực hiện chính sách công. Tác giả đi sâu phân tích thực tiễn thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn tại HVTTNVN, thông qua các báo cáo sơ kết, tổng kết kỳ học, năm học, khóa học và từ kết quả điều tra khảo sát về công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ làm công tác Đoàn trong HVTTNVN. 7. Kết cấu luận văn Luận văn (ngoài phần mở đầu, kết luận), được bố cục thành 3 chương: Chương 1. Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn từ thực tiễn Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam Chương 3. Giải pháp thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Đoàn từ thực tiễn Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam trong thời gian tới. 6 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ LÀM CÔNG TÁC ĐOÀN 1.1. Khái niệm chính sách công, thực hiện chính sách công 1.1.1. Chính sách công Chính sách – Theo từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1994, do Văn Tân làm chủ biên, đã đưa ra định nghĩa, là “đường lối, chủ chương của một chính phủ hay một chính đảng, căn cứ vào đặc điểm tình hình trong và ngoài nước mà đặt ra: chính sách cải tạo công thương nghiệp, chính sách ruộng đất,…” Năm 1994, khái niệm “chính sách công” chưa được phổ biến rộng rãi ở Việt Nam, tuy vậy, trên thế giới, có khá nhiều các học giả đã đưa ra những khái niệm, định nghĩa về chính sách công, như: Trong tìm hiểu về chính sách công, Prentice Haill, xuất bản lần thứ 5, 1984, tr.1, Thomas Dye quan niệm đặc trưng hóa chính sách công là: “tất cả những gì Nhà nước lựa chọn làm hoặc không làm”. Định nghĩa nêu lên ba vấn đề: Một là, chính sách là chương trình hành động riêng biệt, tuy vậy, việc áp dụng chính sách không có nghĩa là tất cả sẽ có cùng một mục đích như nhau trong số những người đồng tình với chính sách đó. Thực tế, có những chính sách ra đời nhiều, được nhiều nhóm người khác nhau đồng tình nhưng không phải vì sự nhất trí về mục tiêu, mà còn do nhiều nguyên do khác nhau, tuy nhiên, dù các nhóm có những mục tiêu khác nhau, song bản thân mỗi chính sách vẫn phản ánh những mục tiêu nhất định của Chính phủ. Hai là, việc quyết định không làm chính sách có thể cũng quan trọng như việc quyết định làm chính sách. Có nghĩa là: các chính sách phản ánh sự lựa chọn, ví dụ như trong trường hợp Chính phủ ra quyết định can thiệp hoặc không can thiệp vào hoạt 7 động của các doanh nghiệp nhà nước. Ba là, chính sách không chỉ là những đề xuất của Chính phủ về một vấn đề nào đó, mà còn là cái được thực hiện trên thực tế. Trong Chính sách công ở Mỹ, Chantham House, xuất bản lần thứ 2, 1990, tr6, B. Guy Peter đưa ra định nghĩa: "chính sách công là toàn bộ các hoạt động của Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân". Ông nhấn mạnh tác động của chính sách công đến đời sống của người dân với tư cách là một cộng đồng và khẳng định chủ thể ban hành và thực hiện chính sách công là Nhà nước. Trong Hoạch định chính sách công, Houghton Mifflin, 1990, tr5, James Anderson đưa ra định nghĩa chung hơn cho khái niệm chính sách, trong đó chính sách công chỉ là một nội hàm: "Chính sách là một quá trình hành động có mục đích theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm". Chẳng hạn: chính sách của một doanh nghiệp; chính sách của một tổ chức, đoàn thể, hiệp hội; chính sách của một bộ; chính sách của chính quyền địa phương; chính sách của Chính phủ; chính sách của một Đảng; Chính sách của Liên hiệp quốc … Phản ánh: Các chính sách có thể được đề ra và thực hiện ở những tầng nấc khác nhau, áp dụng trong phạm vi khác nhau, nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra cho mỗi tổ chức, chúng chỉ có hiệu lực thi hành trong tổ chức đó. Trong đó, chính sách công là những chính sách do các cơ quan hay các cấp chính quyền trong bộ máy nhà nước ban hành nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng và nhiệm vụ của khoa học chính sách chính là nghiên cứu các chính sách nói chung, nhưng tập trung chủ yếu vào việc nghiên cứu các chính sách công với mục tiêu nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước Hohn Dewey - trong Chúng ta tư duy như thế nào, Tập VI, tr.177-356, đăng trong John, Dewey: Những công trình còn dang dở, do J.B. Boydston 8 biên soạn, xuất bản 1910 và tái bản 1978: lại đưa ra định nghĩa chính sách công là một tập hợp các bước giải quyết các vấn đề công cộng. Ông có lẽ là người đầu tiên đưa ra kiểu định nghĩa này khi phân chia quá trình hoạch định chính sách công thành năm giai đoạn: “Cảm nhận tình huống có vấn đề, xác định vấn đề, hình thành các giải pháp, xem xét các khía cạnh của các giải pháp và lựa chọn một giải pháp rồi thực hiện”. Tiếp đó, trong Hoạch định chính sách công, Houghton Mifflin, 1990, tr5, Harold Lasswell mô tả quá trình chính sách như là: “một quá trình ra quyết định có tính sách tạo bao gồm các bước tranh luận, đưa ra các giải pháp, lựa chọn, áp dụng – thực thi và kết thúc” . Như vậy, quá trình hoạch định chính sách theo hai tác giả, gồm sáu giai đoạn: khởi xướng, tranh luận, lựa chọn, thực thi, đánh giá và kết thúc. Còn Deborah Stone trong Những nan giải của chính sách và lý lẽ chính trị, Scott, Foresman and Company, 1988, tr70, lại đưa ra một định nghĩa có tính phê phán đối tất cả với các định nghĩa trên: “Các định nghĩa về chính sách công không bao hàm được cái mà tôi cho là bản chất của quá trình hoạch định chính sách trong các môi trường chính trị: đó chính là các cuộc đấu tranh tư tưởng… hoạch định chính sách là một cuộc đấu tranh không ngừng trong việc đưa ra các chuẩn mực cho việc phân loại, giới hạn và xác định các giá trị định hướng hành vi của con người”. Từ các quan điểm đó, chúng ta có thể được hiểu: Chính sách công do nhà nước, do chính phủ đưa ra, là một bộ phận thuộc chính sách kinh tế và chính sách nói chung của mỗi nước, Chính sách công phản ánh dịch vụ công cộng, đảm bảo hàng hóa; thể hiện hoạt động cũng như quản lý đối với khu vực công. Chính sách công là một công cụ quản lý của nhà nước, được nhà nước sử dụng để quản lý nguồn lực công một cách hiệu quả, hiệu lực, thiết thực đối 9 với cả kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường, cả dài hạn và ngắn hạn và khuyến khích việc sản xuất, đảm bảo hàng hóa, dịch vụ công cho nền kinh tế, … đối với cả khu vực công và cả với khu vực tư. Tóm lại: Những mục tiêu của Nhà nước được hiện thực hóa thông qua việc ban hành và thực hiện các chính sách và chính sách công chính là một công cụ quan trọng của quản lý nhà nước. Đặc trưng cơ bản của chính sách công Là một trong những công cụ cơ bản được Nhà nước sử dụng để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, ở mỗi giai đoạn phát triển, yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả các chính sách công luôn được đặt ra và nó có những đặc trưng cơ bản: Một là, chính sách công là một quá trình hành động nhằm giải quyết một vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xă hội theo những mục tiêu xác định. Nếu như các loại công cụ quản lý khác như chiến lược, kế hoạch của Nhà nước là những chương trình hành động tổng quát bao quát một hoặc nhiều lĩnh vực kinh tế – xă hội thì chính sách công đề ra và được thực hiện nhằm giải quyết một hoặc một số vấn đề liên quan lẫn nhau đang đặt ra trong đời sống xă hội. Nói cách khác, chỉ khi trước đó đã tồn tại hoặc có nguy cơ chắc chắn xuất hiện một vấn đề cần giải quyết; một mâu thuẫn hoặc một nhu cầu thay đổi hiện trạng xuất hiện trong đời sống kinh tế – xă hội, … đòi hỏi Nhà nước sử dụng quyền lực công để giải quyết thì chính sách công mới ra đời. Hai là, chủ thể ban hành các "chính sách tư" có thể là các tổ chức tư nhân, các đoàn thể chính trị xã hội, các cơ quan trong bộ máy nhà nước để điều tiết hoạt động trong phạm vi tổ chức, đoàn thể hay cơ quan riêng biệt (tuy nhiên, những chính sách này chỉ nhằm giải quyết những vấn đề thuộc về nội bộ cơ quan đó, không có hiệu lực thi hành bên ngoài phạm vi cơ quan) thì chủ thể ban hành chính sách công là chỉ là Nhà nước (Nhà nước ở đây được 10 hiểu theo nghĩa là cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước như: Quốc hội, các bộ, chính quyền địa phương các cấp…). Nói cách khác: các cơ quan trong bộ máy nhà nước vừa là chủ thể ban hành chính sách công, vừa là chủ thể ban hành "chính sách tư". Ba là, chính sách công gồm nhiều quyết định có liên quan lẫn nhau. Các quyết định này có thể bao gồm cả luật, các quyết định dưới luật, thậm chí cả những tư tưởng của các nhà lănh đạo thể hiện trong lời nói và hành động của họ. Khái niệm quyết định ở đây có nghĩa rộng hơn, nó có thể được coi như một sự lựa chọn hành động của Nhà nước. Chính sách là một loạt các quyết định cùng hướng vào việc giải quyết một vấn đề chính sách và thực hiện trong một thời gian dài, do một hay nhiều cấp khác nhau trong bộ máy nhà nước ban hành. Một chính sách không chỉ có thể được thể chế hóa thành các văn bản pháp luật để tạo căn cứ pháp luật cho việc thực thi, mà còn bao gồm những phương án hành động không mang tính bắt buộc, mà có tính định hướng, kích thích phát triển. Là bộ phận nền tảng trọng yếu của thể chế hành chính, là cơ sở và chi phối các yếu tố cấu thành khác của nền hành chính như: bộ máy hành chính; đội ngũ cán bộ - công chức; tài chính công,… nhưng chính sách không đồng nghĩa với một đạo luật riêng biệt hay một văn bản nào đó, nên không đồng nhất khái niệm quyết định ở đây với các quyết định hành chính, càng không thể coi đó chỉ là những văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Bốn là, chính sách công bao gồm từ việc thể hiện dự định của nhà hoạch định chính sách về một vấn đề nào đó và những hành vi thực hiện các dự định này. Và cũng vì chúng bao gồm cả những hành vi thực tiễn cho nên các quyết định này là những quyết định hành động. Chu trình chính sách công Các nhà khoa học trong quá trình nghiên cứu và thực hiện chính sách công, đã xây dựng những lý thuyết để áp dụng việc phân tích chính sách quốc 11 gia. Một trong những lý thuyết nghiên cứu chính sách cơ bản là dựa trên các giai đoạn của tiến trình hay chu trình chính sách công. Chu trình chính sách bao gồm các bước liên quan với nhau được tiến hành từ khi chính sách công ra đời cho tới khi nó được thực hiện bởi các chủ thể và các phương tiện tham gia vào quá trình này. Để nghiên cứu và thực hiện chính sách công một cách hiệu quả đòi hỏi chúng ta phải nhìn nó như một quá trình gồm nhiều giai đoạn với sự tham gia của nhiều chủ thể cùng với các phương tiện, cơ sở vật chất, điều kiện khác nhau. Việc xác định được chu trình của chính sách công giúp cho chúng ta xác định được những bước đi hợp lý, xây dựng những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể phù hợp. Đồng thời qua đó để chỉ ra những yếu kém, hạn chế trong các khâu, các giai đoạn của chu trình chính sách công. Hiện nay trên thế giới có nhiều cách phân chia khác nhau về chu trình của chính sách công. Tuy nhiên, ở góc độ khái quát có thể phân ra các giai đoạn của chu trình chính sách công như sau: Thứ nhất, hoạch định chính sách công. Đây là việc thu thập các thông tin, căn cứ, cơ sở để xây dựng chính sách về mặt lý thuyết. Giai đoạn này bao gồm các nhiệm vụ cụ thể: Xác định nhu cầu xã hội để lựa chọn xây dựng chính sách công; Nghiên cứu để đưa ra các giải pháp cơ bản; Tiến hành đưa vào nghị trình với cấp có thẩm quyền; Nghiên cứu chính thức khi đã được chấp thuận; Thông qua và ban hành chính sách. Thứ hai, thực hiện chính sách công. Đây là giai đoạn thực hiện các mục tiêu chính sách công trên cơ sở tiến hành các giải pháp đã xác định, cũng là giai đoạn chịu nhiều tác động của các yếu tố khách quan và chủ quan. Thứ ba, đánh giá, tổng kết chính sách công. 12 Là giai đoạn so sánh kết quả đạt được thực tế của chính sách công khi thực hiện so với mục tiêu đã xây dựng. Đánh giá chính sách công phải dựa trên những phương tiện trang thiết bị và những tiêu chí nhất định. Đánh giá một chính sách công phải mang tính toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đánh giá chính sách công làm cơ rút kinh nghiệm cho việc tiến hành chính sách công tiếp theo. Như vậy, chu trình chính sách công là tất cả những giai đoạn phản ánh toàn bộ tiến trình của một chính sách công kể từ khi nảy sinh ý tưởng tới việc thực hiện và đánh giá. 1.1.2. Thực hiện chính sách công Là chính sách của nhà nước, chính sách công ra đời, tồn tại, phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại, phát triển của nhà nước. Chính sách công là công cụ - mà qua đó, nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, thực hiện các hoạt động liên quan đến công dân và can thiệp vào hành vi xã hội trong quá trình phát triển. Nói cách khác, nó có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Nhà nước dựa trên nền tảng nhân dân, là chủ thể đại diện cho quyền lực của nhân dân để ban hành chính sách công nên nó là chính sách của nhà nước đối với khu vực công, phản ánh bản chất, tính chất của nhà nước và chế độ chính trị trong đó nhà nước tồn tại; đồng thời phản ánh ý chí, quan điểm, thái độ, cách xử sự của đảng chính trị phục vụ cho mục đích của đảng, lợi ích và nhu cầu của nhân dân. Chính sách công được hoạch định bởi đảng chính trị nhưng do chính phủ xây dựng ban hành và tổ chức thực hiện. Có nghĩa là: ý chí chính trị của đảng cầm quyền, được thể hiện cụ thể là các quyết sách, quyết định chính trị của nhà nước; thông qua chính sách công, đảng cầm quyền dẫn dắt các quan hệ trong xã hội theo định hướng dã xác định. Các cá nhân trong xã hội là những đối tượng trực tiếp thụ hưởng và thực hiện chính sách và chính 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan