Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực hiện chính sách dân tộc về văn hóa ở tỉnh lạng sơn hiện nay...

Tài liệu Thực hiện chính sách dân tộc về văn hóa ở tỉnh lạng sơn hiện nay

.PDF
111
168
57

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- LÂM THỊ THÚY HOA THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC VỀ VĂN HÓA Ở TỈNH LẠNG SƠN HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SỸ Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học Hà Nội – 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------------------------------- LÂM THỊ THÚY HOA THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC VỀ VĂN HÓA Ở TỈNH LẠNG SƠN HIỆN NAY Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học Mã số: 60 22 03 08 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Phan Thanh Khôi Hà Nội – 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chính xác. Tôi xin cam đoan: Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn, các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều đã được chỉ rõ nguồn gốc. Hà Nội, tháng 10 năm 2014 Tác giả luận văn Lâm Thị Thúy Hoa MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ............................................... 2 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn .......................................................... 6 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn ........................ 6 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ....................................... 7 6. Đóng góp mới của luận văn ........................................................................ 7 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ................................................ 7 NỘI DUNG ................................................................................................... 9 Ch ương 1: CHÍNH SÁCH DÂN TỘC VỀ VĂN HÓA VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC VỀ VĂN HÓA Ở TỈNH LẠNG SƠN HIỆN NAY .................................................................. 9 1.1. Chính sách dân tộc về văn hóa................................................................ 9 1.2. Những nhân tố tác động đến chính sách dân tộc về văn hóa ở tỉnh Lạng Sơn ........................................................................................................ 25 Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 42 Chương 2: THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC VỀ VĂN HÓA Ở TỈNH LẠNG SƠN HIỆN NAY ........................... 43 2.1. Những thành tựu và nguyên nhân trong việc thực hiện chính sách dân tộc về văn hóa ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay............................................. 43 2.2. Những hạn chế và nguyên nhân trong việc thực hiện chính sách dân tộc về văn hóa ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay ................................................... 66 Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 73 Chương 3: NHỮNG QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC VỀ VĂN HÓA Ở TỈNH LẠNG SƠN HIỆN NAY ....................................74 3.1. Những quan điểm chỉ đạo việc thực hiện chính sách dân tộc về văn hóa ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay ...................................................................... 74 3.2. Các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách dân tộc về văn hóa ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay .................................... 82 Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 98 KẾT LUẬN .................................................................................................... 99 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 101 PHỤ LỤC ..................................................................................................... 105 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc và các dân tộc anh em cùng chung sống, luôn yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Nhận thức được điều này, Đảng ta luôn coi việc hoạch định và thực hiện đúng chính sách dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng trong tiến trình cách mạng. Chính sách dân tộc là một bộ phận rất quan trọng trong hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước ta, liên quan đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 khóa IX về công tác dân tộc đã khẳng định: Các dân tộc thiểu số: Thực hiện tốt chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Chính điều này đã tạo nên sức mạnh đại đoàn kết và bản sắc đa dạng và phong phú về văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Hiện nay, với xu thế toàn cầu hóa trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế, có tác động không nhỏ đến nền văn hóa của mỗi quốc gia. Theo xu hướng tích cực chung của thế giới, chúng ta hòa nhập chứ không hòa tan, vẫn giữ gìn và phát huy được những giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta có những nhận thức mới về vai trò của văn hóa. Các văn kiện Đại hội của Đảng thời kỳ đổi mới nhất quán khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực, là mục tiêu của sự phát triển. Theo tinh thần của Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, việc quan tâm đến xây dựng chính sách dân tộc về văn hóa có ý nghĩa rất quan trọng nhằm nâng cao đời sống tinh thần, bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc ở nước ta. Lạng Sơn, một tỉnh miền núi, biên giới phía Đông Bắc Bộ nước ta, gồm nhiều dân tộc cùng sinh sống, trên 83% là đồng bào các dân tộc thiểu số (Nùng, Tày, Kinh, Dao, Hoa, Sán Chay, Mông,…). Mỗi dân tộc, tuy không hình thành nên những địa bàn định cư riêng biệt, nhưng có sự tập trung 1 ở một số vùng nhất định, với những bản sắc văn hóa riêng tạo nên bề dày lịch sử văn hóa truyền thống lâu đời ở tỉnh Lạng Sơn. Bên cạnh đó, đại bộ phận các dân tộc trên địa bàn sinh sống hòa thuận, quây quần bên nhau tạo nên sự giao thoa văn hóa hết sức đa dạng. Đồng thời, với vị trí địa lý thuận lợi, là cửa ngõ giao lưu văn hóa, kinh tế với Trung Quốc, điểm giao thoa hội tụ của nhiều nền văn hóa đã hình thành nên một diện mạo văn hóa Xứ Lạng đa dạng trong thống nhất, mang tính đặc thù của vùng. Những năm thập kỉ 90 của thế kỉ XX, nhìn chung đời sống kinh tế-văn hoá-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn chậm phát triển, đặc biệt, việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn. Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, bằng nhiều chính sách, chương trình mục tiêu, cùng sự nỗ lực phấn đấu của cấp uỷ Đảng, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh, tình hình văn hóa vùng đồng bào các dân tộc Lạng Sơn nói riêng và tỉnh Lạng Sơn nói chung đã có nhiều thay đổi, khởi sắc. Tuy đã đạt được nhiều tiến bộ nhưng do điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn nên nhìn chung đời sống văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều hạn chế. Để chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước thực sự đi vào đời sống của đồng bào dân tộc trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn góp phần vào sự nghiệp bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Thực hiện chính sách dân tộc về văn hóa ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay” làm luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Chính sách dân tộc về văn hóa có ý nghĩa quan trọng trong đoàn kết các dân tộc, bình đẳng dân tộc và khẳng định sự ưu tiên trong chính sách phát triển văn hóa vùng dân tộc thiểu số.Trong đó, việc bảo tồn phát triển các giá trị bản sắc văn hóa dân tộc có đóng góp to lớn trong xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đặc biệt, việc thực hiện chính sách này ở những vùng dân tộc thiểu số là rất cần thiết. Ngoài các văn kiện của Đảng, 2 các văn bản pháp luật của Nhà nước quy định về chính sách dân tộc, còn có nhiều quyết định, chương trình, đề án khoa học, đã quan tâm và nghiên cứu về vấn đề văn hóa dân tộc thiểu số dưới nhiều góc độ khác nhau. Có thể kể đến một số như: Vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (2002) của Viện nghiên cứu chính sách dân tộc miền núi. Nội dung trình bày những vấn đề lý luận, nhận thức về dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Những định hướng cơ bản trong việc quy hoạch dân cư, đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế hàng hóa phù hợp với đặc điểm từng vùng nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời kiến nghị những giải pháp giải quyết kịp thời những vấn đề cơ bản như: xóa đói, giảm nghèo, xóa mù chữ, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khoẻ, kiện toàn hệ thống cơ quan làm công tác dân tộc, tôn trọng và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc, sớm ổn định và cải thiện đời sống đồng bào các dân tộc. Đây là tài liệu tham khảo bổ ích thiết thực cho các cơ quan làm công tác dân tộc và miền núi, các nhà hoạch định chính sách, các cán bộ nghiên cứu và đang thực thi chính sách kinh tế - xã hội đối với vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa và vùng dân tộc thiểu số. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam (2005), của TS. Lê Ngọc Thắng, Nhà xuất bản Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Nội dung cuốn sách tác giả trình bày một cách hệ thống các vấn đề lý luận về dân tộc, vấn đề dân tộc, công tác dân tộc, chính sách dân tộc; các quan điểm cơ bản của vấn đề dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta. Đồng thời tác giả trình bày một cách hệ thống chính sách dân tộc của các nhà nước phong kiến, thực dân đế quốc, tư bản và một số nước khác trên thế giới. Qua đó tác giả so sánh để thấy được tính sáng tạo, đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong việc giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đánh giá những 3 thành tựu và yếu kém trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, tác giả đề ra định hướng chính sách dân tộc, đặc biệt là chính sách trên lĩnh vực văn hóa trong thời gian tới. Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa giai đoạn 2012 -2015, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ với mục tiêu chung là nhằm nâng cao nhận thức của toàn Đảng, toàn dân, của các cấp các ngành, huy động sức mạnh của toàn xã hội tham gia, đóng góp vào sự nghiệp phát triển văn hóa, bảo tồn các di sản văn hóa và phục vụ việc thực hiện những nhiệm vụ chính trị quan trọng của Đảng và Nhà nước; tiếp tục phát huy kết quả đã đạt được trong việc xây dựng và phát triển văn hóa, thể thao cơ sở, nhất là khu vực vùng sâu vùng xa, miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; xóa các điểm trắng về văn hóa, xây dựng những điểm sáng về văn hóa trên các mặt, trên các lĩnh vực của đời sống tinh thần. Đề án Bảo tồn, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020, của Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt. Đây là sự kiện quan trọng tiếp tục thể hiện chính sách của Đảng, Nhà nước trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII. Nghiên cứu dưới góc độ bản sắc văn hóa dân tộc, có những tác phẩm tiêu biểu như: “Tìm hiểu văn hóa dân tộc” (2006), Đặng Việt Bích, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. “Văn Hóa Việt Nam giàu bản sắc” (2010), Nguyễn Đắc Hưng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. “Truyền thống văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam” (2006), Vũ Ngọc Khánh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. “Nghiên cứu bảo tồn và phát triển ngôn ngữ văn hóa một số dân tộc thiểu số ở Việt Bắc” (2010), Nguyễn Văn Lộc, Nxb Đại học Thái Nguyên, Thái Nguyên. “Lễ hội truyền thống các dân tộc Việt Nam – Các tỉnh phía Bắc” (2012), Hoàng Lương, Nxb Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội… đã trình bày nghiên cứu một số vấn đề lý luận liên quan đến bản sắc văn hóa dân tộc ở Việt Nam, nghiên cứu đặc điểm, vai trò bản sắc văn hóa trong đời sống hiện nay, 4 đặc biệt là đời sống văn hóa khi đất nước đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động hội nhập vào xu thế toàn cầu hóa. Sở Văn hóa Thông tin Lạng Sơn đã xuất bản: Tuyển tập luận văn Hội nghị khoa học Xứ Lạng – Lạng Sơn (1988), khắc họa nên bức tranh khá hoàn chỉnh về đất nước – con người, kinh tế - xã hội, văn hóa của Xứ Lạng – Lạng Sơn, đặc biệt về phần văn hóa giới thiệu một vườn hoa văn hóa đầy sắc màu bao gồm truyện thơ, lễ hội, diễn xướng, dân ca Sli lượn,… Ngoài ra, còn có các luận án, thạc sĩ, tiến sĩ có liên quan đến đề tài này như: Kế thừa giá trị truyền thống văn hóa dân tộc trong việc xây dựng nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam (1994), Luận án Tiến sĩ của Cù Huy Chử. Văn hóa Mai Pha ở Lạng Sơn (2000), Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Văn Cương. Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa (2001), Luận án Thạc sĩ của Nguyễn Thị Phương Thủy. Nghiên cứu so sánh chính sách dân tộc của Trung Quốc và Việt Nam thời hiện đại (2007), Luận án Tiến sĩ Lịch sử của Đặng Thành Đạt. Vấn đề gìn giữ bản sắc dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay (2009), Luận án Tiến sĩ Triết học Phạm Thanh Hà. Lễ hội Lồng Tồng của dân tộc Tày ở Lạng Sơn (2009), Luận án Tiến sĩ của Hoàng Văn Páo. Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay (2011), Luận văn Thạc sỹ của Hoàng Thanh Mai. Nghiên cứu một số nét biến đổi văn hóa người Tày tại Lạng Sơn trong quá trình đổi mới kinh tế - xã hội (2012), Luận án Tiến sĩ của Bế Văn Hậu... Các tác giả đều tập trung vào vấn đề gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh chung của xã hội, hoặc nói đến chính sách dân tộc chung, chưa đề cập đến chính sách dân tộc trên trên những lĩnh vực cụ thể, đặc biệt là về văn hóa. 5 Riêng tỉnh Lạng Sơn, các công trình nghiên cứu chỉ tâp trung vào từng nét văn hóa đặc trưng của một dân tộc cụ thể, chưa trình bày một cách một cách toàn diện và đầy đủ về chính sách dân tộc về văn hóa trên địa bàn tỉnh. Vì vậy, đề tài tôi chọn sẽ không trùng lặp với các đề tài, công trình nghiên cứu đã công bố. Những tài liệu trên giúp ích cho việc tham khảo, đối chứng, so sánh trong quá trình nghiên cứu đề tài của tác giả luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Trên cơ sở đánh giá về thực trạng, những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế trong việc thực hiện chính sách dân tộc về văn hóa trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, đưa ra những quan điểm và giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách dân tộc về văn hóa trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ Luận giải khái quát những nội dung lý luận cơ bản về chính sách dân tộc, văn hóa, và chính sách dân tộc về văn hóa và việc thực hiện chính sách dân tộc về văn hóa nói riêng trong việc thực hiện chính sách dân tộc nói chung. Mô tả, phân tích, đánh giá đúng thực trạng việc thực hiện chính sách dân tộc về văn hóa và những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện chính sách dân tộc về văn hóa ở tỉnh Lạng Sơn. Phân tích một số quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng, Nhà nước và tỉnh Lạng Sơn về chính sách dân tộc, luận chứng những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách dân tộc về văn hóa trong tỉnh. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn Cơ sở lý luận: Được thực hiện dựa trên những nguyên lý, lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề văn hóa và chính sách dân tộc, đồng thời đề tài có kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các ngành khoa học xã hội và nhân văn có liên quan. 6 Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như những quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về chính sách dân tộc về văn hóa. Tiến hành đi thực tế tại các đơn vị trực tiếp làm công tác dân tộc tại địa bàn, thu thập thông tin, số liệu thống kê về tình hình văn hóa, ưu điểm cũng như khó khăn trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc về văn hóa của Đảng và Nhà nước ta. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 5.1. Đối tượng nghiên cứu Những vấn đề liên quan trực tiếp đến việc thực hiện chính sách dân tộc về văn hóa ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay. 5.2. Phạm vi nghiên cứu Ở cả các dân tộc đa số và thiểu số của tỉnh Lạng Sơn, thời gian chủ yếu từ khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (năm 1998) đến nay. 6. Đóng góp mới của luận văn Dưới góc độ chính trị - xã hội, làm rõ những những thành tựu đạt được trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc về văn hóa ở Lạng Sơn đồng thời chỉ ra những hạn chế cần được khắc phục. Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hiện chính sách dân tộc trên lĩnh vực văn hóa trong tỉnh, đáp ứng yêu cầu của đất nước và quốc tế. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy những nội dung có liên quan đến vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc, đặc biệt là chính sách dân tộc trên lĩnh vực văn hóa. Đồng thời, luận văn có thể cung cấp nguồn tài liệu để cấp ủy và chính quyền các cấp, các ngành có liên quan đề ra những chính sách cụ thể đối các 7 dân tộc thiểu số nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách dân tộc về văn hóa ở tỉnh Lạng Sơn. 8. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương (6 tiết). Chương 1: Chính sách dân tộc về văn hóa và những nhân tố tác động đến chính sách dân tộc về văn hóa ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay. Chương 2: Thực trạng việc thực hiện chính sách dân tộc về văn hóa ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay. Chương 3: Những quan điểm chỉ đạo và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách dân tộc về văn hóa ở Lạng Sơn hiện nay. 8 NỘI DUNG Ch ương 1 : CHÍNH SÁCH DÂN TỘC VỀ VĂN HÓA VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC VỀ VĂN HÓA Ở TỈNH LẠNG SƠN HIỆN NAY 1.1. Chính sách dân tộc về văn hóa 1.1.1. Chính sách dân tộc Theo Bách khoa toàn thư mở, chính sách là tập hợp các chủ trương và hành động về phương diện nào đó của chính phủ nó bao gồm các mục tiêu mà chính phủ muốn đạt được và cách làm để thực hiện các mục tiêu đó. Những mục tiêu này bao gồm sự phát triển toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế - văn hóa – xã hội – môi trường. Theo từ điển Tiếng Việt thì chính sách: Sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt được mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra. Theo Nguyễn Minh Thuyết, Phó chủ nhiệm ủy ban Văn hóa Giáo dục Thanh niên, thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, chính sách là đường lối cụ thể của một chính đảng hoặc một chủ thể quyền lực về một lĩnh vực nhất định cùng các biện pháp kế hoạch thực hiện. Cấu trúc của chính sách: Đường lối cụ thể (nhằm thực hiện đường lối chung), biện pháp, kế hoạch thực hiện. Chủ thể ban hành chính sách: Chính đảng, cơ quan quản lý Nhà nước, đơn vị, công ty,… Vậy, ta có thể định nghĩa chính sách là tập hợp các chủ trương, các biện pháp khuyến khích đối tượng phụ thuộc vào chính sách nhằm đạt được mục đích của chủ thể ra chính sách. Hiện nay, khái niệm dân tộc thường được tiếp cận theo hai nghĩa: Nghĩa rộng, đó là khái niệm dân tộc – quốc gia và nghĩa hẹp là khái niệm dân tộc – tộc người. Khái niệm dân tộc – quốc gia (Nation) dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định, làm thành nhân dân một nước, có một lãnh thổ quốc gia, một nền kinh tế thống nhất, có ngôn ngữ chung và có tâm lý chung biểu hiện 9 trong văn hóa của quốc gia dân tộc. Khái niệm dân tộc – tộc người (Ethnie) dùng để chỉ cộng đồng người hình thành và phát triển trong lịch sử với những đặc trưng cơ bản như có chung một ngôn ngữ tộc người, một bản sắc văn hóa tộc người và đặc biệt có ý thức tự giác tộc người. Thực tế cho thấy rằng, một cộng đồng dân tộc thường bao gồm nhiều cộng đồng tộc người với những yếu tố ngôn ngữ, văn hóa, thậm chí yếu tố chủng tộc khác nhau. Vì vậy, khi xem xét vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc đòi hỏi phải nghiên cứu, phân tích từng cảnh huống sử dụng khái niệm một cách cụ thể. Trong phạm vi của đề tài, tác giả chủ yếu sử dụng khái niệm dân tộc theo nghĩa hẹp: dân tộc – tộc người. Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, thì dân tộc: Cộng đồng mang tính tộc người. Ví dụ: Tày, Nùng, Bana,… Cộng đồng này có thể là bộ phận chủ thể hay thiểu số của một dân tộc (nation) sinh sống ở nhiều quốc gia khác nhau, được liên kết với nhau bằng những đặc điểm ngôn ngữ, văn hóa và nhất là ý thức tự giác tộc người. Vận dụng nguyên lý của Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc và giải quyết các mối quan hệ dân tộc. Xuất phát từ đặc điểm tình hình các dân tộc và phát triển quan hệ dân tộc đáp ứng những nhiệm vụ chính trị cụ thể trong từng thời kì, từ khi thành lập đến nay và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đề ra những chính sách dân tộc thích hợp trong hệ thống các chủ trương, chính sách chung. Do đó, đã góp phần thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân và đã giành nhiều thành tựu trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong những năm đổi mới Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc hoạch định hệ thống chính sách đồng bộ trong đó có chính sách dân tộc. Các văn bản có tầm quan trọng và ý nghĩa thực tiễn lớn đối với chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, đó là Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị (27/11/1989) về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế-xã hội miền núi, đã 10 nêu quan điểm chỉ đạo rất quan trọng: “Phát triển kinh tế-xã hội miền núi là một bộ phận hữu cơ của chiến lược phát triển kinh tế quốc dân. Một mặt các địa phương miền núi có trách nhiệm góp phần thực hiện những chủ trương chiến lược của của đất nước. Mặt khác, việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện những chủ trương, chính sách chung ở miền núi phải tính đầy đủ những đặc điểm tự nhiên, lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hóa, phong tục tập quán miền núi nói chung và của riêng từng vùng dân tộc, việc này cần đặc biệt nhấn mạnh vai trò năng động, sáng tạo của địa phương và cơ sở”. Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, chính sách dân tộc là bộ phận cấu thành của chính sách chung của một chính Đảng hay một Nhà nước nhằm vạch ra những nguyên tắc, biện pháp đối xử và giải quyết vấn đề dân tộc trong nước. Do vậy, chính sách dân tộc, trước hết, đó là một bộ phận hữu cơ trong hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước. Nó thể hiện quan điểm chính trị của Đảng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa các dân tộc trong điều kiện hiện nay. Chính sách dân tộc bao gồm những chính sách có tác động trực tiếp đến các dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc nhằm mục đích phát triển các chính sách kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng ở các vùng dân tộc thiểu số, xây dựng khối đại đoàn kết giữa các dân tộc Việt Nam, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Chính sách dân tộc là những chính sách có đối tượng tác động trực tiếp là các dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc nhưng điều đó không có nghĩa là việc thực hiện chính sách dân tộc là việc riêng của các dân tộc thiểu số mà nó là chính sách chung đối với cả dân tộc thiểu số và dân tộc đa số, nó liên quan đến tất cả mọi người, mọi chuyên ngành, mọi cấp từ trung ương đến địa phương. Chính sách dân tộc có nội dung, nhiệm vụ tương đối rộng và có mối quan hệ với rất nhiều chính sách khác, lĩnh vực khác. Là một bộ phận trong hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước ta, chính sách dân tộc gắn bó hữu cơ với tất cả các chính sách về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc 11 phòng, chịu tác động của các chính sách chung, đồng thời nó cũng tác động trở lại với các chính sách đó. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định tầm quan trọng của vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc. Trong mỗi thời kì lịch sử, ở từng giai đoạn cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn đề ra những chủ trương, chính sách dân tộc thích hợp góp phần thắng lợi vào sự nghiệp to lớn của cách mạng Việt Nam. Hiện nay, cách mạng nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước để tiến lên chủ nghĩa xã hội, vai trò của vấn đề dân tộc một lần nữa được Đảng và Nhà nước ta khẳng định: Vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc luôn là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Chính sách dân tộc giải quyết mối quan hệ trong cộng đồng dân cư đa dân tộc của một quốc gia theo quan điểm của giai cấp nắm quyền. Chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản là một hệ thống chủ trương, giải pháp lớn nhằm thực hiện quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc trong đó có sự quan tâm đến các dân tộc thiểu số có trình độ phát triển kinh tế thấp. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta đảm bảo phát huy sức mạnh của cả dân tộc và bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc, giải quyết đúng đắn quan hệ lợi ích giữa các dân tộc, làm cho các dân tộc đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Từ sự phân tích trên, chúng ta có thể hiểu Chính sách dân tộc ở nước ta là hệ thống các chính sách của Đảng và Nhà nước tác động đến mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của các dân tộc, trên cơ sở đảm bảo nguyên tác cơ bản là: Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Nguyên tắc cơ bản trên, một mặt quyết định đến phương hướng của chính sách dân tộc, mặt khác thể hiện bản chất nhân văn của chính sách dân tộc ở nước ta. Các yếu tố của nguyên tắc này có mối quan hệ biện chứng, tác động, quan hệ chặt chẽ với nhau. Chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay không chỉ đề cập những nội dung xuyên suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã 12 hội mà còn đề cập đến những vấn đề cụ thể của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. 1.1.2. Chính sách dân tộc về văn hóa Trên thế giới, có hơn 400 khái niệm về văn hóa theo những cách tiếp cận khác nhau. Theo từ điển Tiếng việt, Văn hóa là: 1.Những giá trị vật chất, tinh thần do con người tạo ra trong lịch sử. 2.Đời sống tinh thần của con người. 3.Tri thức khoa học, trình độ học vấn. 4.Lối sống, cách ứng xử với trình độ cao, biểu hiện văn minh. 5.Nền văn hóa một thời kỳ lịch sử cổ xưa, xác định được nhờ tổng thể các di vật tìm được có những đặc điểm chung. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Hội nghị quốc tế ở Mehico do UNESCO (1982) cho rằng: Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng. Năm 2002, Tổ chức văn hóa - giáo dục Liên hiệp quốc (UNESCO) đã đưa ra định nghĩa: “Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin”. Dưới góc độ xã hội học, văn hóa không chỉ là sản phẩm sáng tạo của con người, mà luôn xem xét với tư cách là một quá trình, một trạng thái động, tiếp biến. Văn hóa (gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần) có một ý nghĩa, vị trí quan trọng như một giá trị cốt lõi trong đời sống xã hội của mỗi 13 cộng đồng dân cư, mỗi dân tộc. Văn hóa trở thành nền tảng cho sự phát triển trong mối quan hệ tương tác giữa văn hóa với kinh tế, văn hóa với chính trị. Như vậy, văn hóa là toàn bộ sáng tạo của một cộng đồng xã hội tích lũy lại trong quá trình hoạt động thực tiễn, được đúc kết bằng hệ giá trị và chuẩn mực xã hội, có sức mạnh chi phối đời sống tâm lý và mọi hoạt động của những con người trong cộng đồng xã hội ấy. Ở Việt Nam, khi bàn luận về văn hóa của dân tộc thường được hiểu theo hai nghĩa, hai cấp độ khác nhau: Ở phạm vi hẹp, văn hóa dân tộc đồng nghĩa với văn hóa của một tộc người; phạm vi rộng, văn hóa dân tộc là văn hóa chung của cả cộng đồng tộc người (nation) sống trong cùng một quốc gia. Văn hóa tộc người là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần cũng như những quan hệ xã hội được sáng tạo trong điều kiện môi trường sinh tụ của một tộc người, phản ánh những nhân thức, tâm lý, tình cảm, tập quán riêng biệt được hình thành trong lịch sử của dân tộc đó. Ở các quốc gia đa dân tộc, văn hóa của các tộc người đan xen hấp thụ lẫn nhau tạo nên nét chung của các quốc gia, của cả cộng đồng dân tộc và mỗi nền văn hóa đều có giá trị riêng của nó. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 5 khóa VIII của Đảng chỉ rõ: Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng cá nhân-gia đìnhlàng xã-tổ quốc… Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét trong cả hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo. Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá trị tiêu biểu, bền vững, phản ánh sức sống của từng dân tộc, nó thể hiện tập trung ở truyền thống văn hóa. Truyền thống văn hóa là các giá trị do lịch sử để lại được thế hệ sau tiếp nối, khai thác và phát huy trong thời đại của họ để tạo nên dòng chảy liên tục của lịch sử văn hóa các dân tộc. Khi được hình thành, truyền thống mang tính bền vững 14 và có chức năng định hướng, đánh giá điều chỉnh hành vi cá nhân và cộng đồng. Tuy nhiên, khái niệm bản sắc văn hóa không phải là bất biến, sự cố định hoặc khép kín mà nó luôn vận động mang tính lịch sử cụ thể. Trong quá trình này nó luôn đào thải những yếu tố bảo thủ, lạc hậu và tạo lập những yếu tố mới để thích nghi với đòi hỏi của thời đại. Truyền thống cũng không phải chỉ bao hàm các giá trị do dân tộc sáng tạo nên, mà bao hàm cả các giá trị từ bên ngoài được tiếp nhận một cách sáng tạo và đồng hóa nó, biến nó thành nguồn lực nội sinh của dân tộc. Đối với miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay, chính sách văn hóa có tầm quan trọng đặc biệt không những chỉ hỗ trợ phương thức quản lý bằng pháp luật mà còn trở thành một trong những phương thức chủ yếu của công tác quản lý nhà nước, nhằm giải quyết các vấn đề văn hóa. Nhận định này dựa trên hai căn cứ khách quan sau: Thứ nhất là trên miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số các yếu tố của cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội đều rất yếu kém; trình độ dân trí của các dân tộc không đồng đều, còn thấp gây ảnh hưởng đến công tác văn hóa – thông tin, kéo lùi sự phát triển của hoạt động này xuống dưới mức trung bình (so với vùng đô thị, miền xuôi) dẫn đến sự hưởng thụ văn hóa tinh thần của đồng bào các dân tộc nhìn chung còn nghèo nàn, lạc hậu, nhiều nơi, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng cao, vùng biên giới còn “trắng” hoạt động văn hóa thông tin. Tình hình bức xúc đó, đòi hỏi Nhà nước phải có chính sách hướng vào giải quyết và khắc phục sự chênh lệch về hưởng thụ văn hóa, giữa miền núi và miền xuôi, giữa các vùng miền trên núi, hướng vào bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Thứ hai là sự vận dụng công tác quản lý Nhà nước về văn hóa, thông tin trên miền núi (phụ thuộc vào tính đặc thù của miền núi) khiến nhiều cán bộ phải linh hoạt, sử dụng các chính sách văn hóa như một phương thức chủ yếu, một công cụ “đòn bẩy” để thúc đẩy các hoạt động văn hóa, thông tin phát triển, nhất là ở những vùng khó khăn. Đương nhiên ở những vùng miền núi có điều kiện hơn về kinh tế xã hội thì lại cần kết hợp hài 15 hòa giữa phương thức quản lý văn hóa bằng pháp luật với việc triển khai thực hiện các chính sách văn hóa, lấy mặt “xây” làm chính nhưng không xem nhẹ mặt “chống”, cả hai mặt hỗ trợ lẫn nhau và nằm trong một chỉnh thể thống nhất là công tác quản lý Nhà nước về văn hóa. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2013) nêu rõ: Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa. Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp. Nhà nước, xã hội phát triển văn học, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần đa dạng và lành mạnh của nhân dân; phát triển các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng xác định: Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, cùng xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta... Tôn trọng tiếng nói và chữ viết đối với các dân tộc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá IX về công tác dân tộc đã xác định: Giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất. Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng đã khẳng định: Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xoá đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan