Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử án hình sự của viện kiểm sát nhân dân...

Tài liệu Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử án hình sự của viện kiểm sát nhân dân cấp cao ở nước ta hiện nay

.PDF
163
232
81

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN HOÀI NAM THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT XÉT XỬ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP CAO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 9 38 01 04 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Cao Thị Oanh HÀ NỘI-năm 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi. Các số liệu và tư liệu trong luận án đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình. TÁC GIẢ LUẬN ÁN MỤC LỤC 1.1. 1.2. 1.3. 2.1. 2.2. 2.3. 3.1. 3.2. 4.1. 4.2. 4.3. Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 6 Tình hình nghiên cứu trong nước 6 Tình hình nghiên cứu ngoài nước 18 Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án và những vấn 21 đề đặt ra tiếp tục nghiên cứu trong luận án Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH 24 QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP CAO Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn 24 xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao Những vấn đề lý luận về kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện 44 kiểm sát nhân dân cấp cao Mối quan hệ, các yếu tố tác động và tiêu chí đánh giá chất lượng 53 thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao Chương 3: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN 63 THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP CAO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét 63 xử vụ án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao ở nước ta hiện nay Thực tiễn thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình 84 sự của Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao ở nước ta hiện nay Chương 4: YÊU CẦU, QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC 114 GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP CAO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Yêu cầu đặt ra cho thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ 114 án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao Quan điểm định hướng đảm bảo chất lượng thực hành quyền công 120 tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao Các giải pháp đảm bảo chất lượng thực hành quyền công tố và 121 kiểm sát xét xử vụ án hình sự của viện kiểm sát nhân dân cấp cao KẾT LUẬN CHUNG 145 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ 147 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 148 PHỤ LỤC 154 NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT 1 BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự 2 GĐT Giám đốc thẩm 4 KSV Kiểm sát viên 3 KSXX Kiểm sát xét xử 5 PT Phúc thẩm 6 QCT Quyền công tố 7 TA Tòa án 8 TAND Tòa án nhân dân 10 TT Tái thẩm 9 THQCT Thực hành quyền công tố 11 VKS Viện kiểm sát 12 VKSND Viện kiểm sát nhân dân DANH MỤC CÁC BẢNG PHỤ LỤC Phụ lục 1 Thống kê kết quả kiểm sát bản án sơ thẩm hình sự của các VKSND cấp cao từ ngày 01/6/2015 đến 30/11/2018 Phụ lục 2 Thống kê kết quả THQCT và KSXX PT án hình sự của các VKSND cấp cao từ ngày 01/6/2015 đến 30/11/2018 Phụ lục 3 Thống kê kết quả giải quyết đơn đề nghị kháng nghị GĐT, TT hình sự của các VKSND cấp cao từ ngày 01/6/2015 đến 30/11/2018 Phụ lục 4 Thống kê kết quả THQCT và KSXX GĐT, TT án hình sự của các VKSND cấp cao từ ngày 01/6/2015 đến 30/11/2018 Phụ lục 5 Thống kê kết quả THQCT và KSXX PT án hình sự của các Viện phúc thẩm VKSND tối cao từ ngày 01/12/2008 đến 31/5/2015 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kết quả của các công trình nghiên cứu cho thấy, cùng với sự phát triển của xã hội loài người, hoạt động điều tra, truy tố, xét xử người phạm tội ngày càng phải chính xác, công bằng hơn, nhằm bảo vệ có hiệu quả hơn các lợi ích chung của xã hội, đồng thời đảm bảo các quyền và tự do cơ bản của công dân. Xuất phát từ yêu cầu khách quan của xã hội, hoạt động xét xử, một hoạt động tố tụng rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự dần phát triển các cơ chế phù hợp để tăng cường tính chính xác, công bằng. Để hạn chế sai sót, có thể kiểm soát và đánh giá lại bản án, quyết định của TA cấp dưới, cơ chế TA cấp trên xét xử lại vụ án có bản án, quyết định chưa có hiệu lực (xét xử PT), hoặc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật (GĐT, TT) dần dần xuất hiện và ngày nay mang tính phổ biến trên toàn thế giới. Trong quá trình đó, đồng hành với hoạt động xét xử của TA luôn luôn là hoạt động THQCT của cơ quan công tố và cả hoạt động KSXX ở một số nước. Như vậy có thể nói xét xử PT, GĐT, TT cũng như THQCT và KSXX PT, GĐT, TT tồn tại như một nhu cầu tất yếu ở mọi nền tư pháp, là một giai đoạn tố tụng quan trọng nhằm đảm bảo việc xét xử vụ án hình sự được chính xác, công bằng. Tuy mục tiêu cho hoạt động THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự là giống nhau, nhưng các nước ở từng giai đoạn lịch sử có cách thức tổ chức thực hiện khác nhau. Đối với nước ta, để khắc phục các bất cập, hạn chế, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động tư pháp, cần đổi mới tổ chức hoạt động của cơ quan tư pháp, trong đó có việc tổ chức ra VKSND cấp cao. VKSND cấp cao là một cấp kiểm sát mới trong hệ thống VKSND 4 cấp, có nhiệm vụ THQCT và KSXX theo thủ tục PT đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của TA cấp tỉnh; THQCT và KSXX theo thủ tục GĐT, TT đối với bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của TA cấp tỉnh, cấp huyện. Đây là một lựa chọn hợp lý nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của cả hệ thống VKS nói chung, hoạt động THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự nói riêng. 1 Sau khi được thành lập, mặc dù phải thụ lý giải quyết khối lượng công việc rất lớn, nhưng trong hơn 3 năm qua các Viện cấp cao cơ bản đã hoàn thành nhiệm vụ THQCT và KSXX án hình sự theo các thủ tục PT, GĐT, TT. Tuy vậy mô hình VKSND cấp cao còn hết sức mới mẻ ở nước ta. Các quy định của pháp luật đảm bảo cho hoạt động của VKSND cấp cao nói chung, hoạt động THQCT và KSXX vụ án hình sự nói riêng vẫn còn chưa đầy đủ và có những điểm chưa phù hợp gây khó khăn cho hoạt động THQCT và KSXX án hình sự của VKSND cấp cao. Cùng với đó, điều kiện hoạt động của các VKSND cấp cao còn rất thiếu thốn về cơ sở vật chất, lực lượng cán bộ, lề lối làm việc. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ THQCT và KSXX vụ án hình sự của VKSND cấp cao cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, tổng kết rút kinh nghiệm từ thực tiễn hoạt động, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác THQCT và KSXX vụ án hình sự của VKSND cấp cao là rất cần thiết. Vì những lý do như trên, nghiên cứu sinh đã chọn vấn đề “Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao ở nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án * Mục đích nghiên cứu của Luận án là làm rõ những vấn đề lý luận về THQCT và KSXX vụ án hình sự, thực trạng quy định, áp dụng pháp luật về THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác này tại VKSND cấp cao. * Để đạt mục đích đề ra, quá trình nghiên cứu Đề tài phải giải quyết một số nhiệm vụ như sau: - Làm rõ những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử theo thủ tục PT, GĐT, TT của VKSND cấp cao; - Khảo sát thực trạng quy định của pháp luật và áp dụng các quy định pháp luật về THQCT và KSXX vụ án hình sự của VKSND cấp cao ở nước ta hiện nay, đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân; 2 - Làm rõ yêu cầu, định hướng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả THQCT và KSXX vụ án hình sự tại VKSND cấp cao. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án * Đối tượng nghiên cứu là lý luận và thực tiễn THQCT và KSXX vụ án hình sự của VKSND cấp cao. * Phạm vi nghiên cứu của luận án: Đề tài được thực hiện trong phạm vi của khoa học Luật Hình sự và Luật Tố tụng hình sự; sử dụng số liệu thống kê về hoạt động THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự của 03 VKSND cấp cao và các bộ phận thuộc hệ thống cơ quan VKSND trước đây đã thực hiện nhiệm vụ tương ứng trong thời gian 10 năm gần đây. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án * Phương pháp luận: Luận án dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; đồng thời dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về cải cách tư pháp trong những năm qua. * Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận án sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp hệ thống, nghiên cứu luật so sánh, tập trung nhất ở Chương 2 để làm rõ những vấn đề lý luận về THQCT và KSXX nói chung, THQCT và KSXX PT, GĐT, TT của VKSND cấp cao nói riêng; Phương pháp khảo sát thực tiễn, phân tích so sánh, tọa đàm khoa học, phỏng vấn trực tiếp chuyên gia, sử dụng số liệu thống kê của ngành kiểm sát nhằm tìm hiểu về luật thực định về THQCT và KSXX PT, GĐT, TT của VKSND cấp cao cũng như đánh giá thực tiễn THQCT và KSXX PT, GĐT, TT của VKSND cấp cao trong những năm qua, so sánh với giai đoạn trước đây được sử dụng tập trung ở Chương 3; Phương pháp tổng hợp, phân tích-dự báo nhằm dự báo xu hướng và nhu cầu cần thiết về nâng cao chất lượng THQCT và KSXX PT, GĐT, TT của VKSND cấp cao các biện pháp cần thực hiện trong thời gian tới tập trung ở 3 Chương 4. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Cùng với việc kế thừa những kết quả nghiên cứu về THQCT và KSXX đã có, Luận án đóng góp mới về khoa học như sau: - Tiếp tục nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận, như: Chủ thể, đối tượng, nội dung, phạm vi của THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự. - Tiếp tục khảo sát và nghiên cứu toàn diện, tổng kết thực tiễn dưới góc độ khoa học hoạt động xây dựng pháp luật cũng như áp dụng các quy định của pháp luật về THQCT và KSXX vụ án hình sự của các VKSND cấp cao; phát hiện, đánh giá đúng những kết quả đạt được, tồn tại hạn chế và nguyên nhân của nó. - Lảm rõ các yêu cầu mới đặt ra cho hoạt động THQCT và KSXX vụ án hình sự của các VKSND cấp cao trong giai đoạn hiện nay; đề xuất, kiến nghị phù hợp để nâng cao chất lượng hoạt động này. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Đây là công trình khoa học nghiên cứu về THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự tại các VKSND cấp cao ở Việt Nam. Với những phương pháp nghiên cứu khoa học, Luận án đã đi sâu phân tích, luận giải những vấn đề lý luận, pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự tại các VKSND cấp cao; đánh giá thực tiễn quy định pháp luật, áp dụng quy định pháp luật về THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự tại các VKSND cấp cao trong những năm qua; đề xuất đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như để đảm bảo hiệu quả các quy định của pháp luật, nâng cao chất lượng về THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự tại các VKSND cấp cao trong thời gian tới. Các kết quả nghiên cứu của Luận án có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở cho các nghiên cứu chuyên sâu về THQCT và KSXX vụ án hình sự. Luận án còn có giá trị tham khảo hữu ích trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập, cũng như trong thực tiễn THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự tại các VKSND cấp cao. 4 7. Cơ cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục, Luận án gồm có 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao Chương 3: Quy định của pháp luật và thực tiễn thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao ở nước ta hiện nay Chương 4: Yêu cầu, quan điểm định hướng và các giải pháp bảo đảm chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao ở nước ta hiện nay 5 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Đến nay trong nước đã có khá nhiều công trình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài Luận án ở nhiều góc độ khác nhau, có thể phân chia thành một số nhóm như sau: 1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về quyền công tố, thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự của VKSND cấp cao là một dạng hoạt động THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp, do vậy nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về QCT, THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp là cơ sở để tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, cụ thể hơn về THQCT và KSXX PT, GĐT, TT. Liên quan đến những vấn đề lý luận chung về QCT, THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp có thể kể đến một số công trình sau đây: * Liên quan đến QCT, THQCT: Trong nhóm liên quan đến QCT, THQCT đáng chú ý có các công trình như Luận án tiến sỹ luật học “QCT ở Việt Nam” của tác giả Lê Thị Tuyết Hoa (Viện nhà nước và pháp luật 2002), sách chuyên khảo “THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra” của tác giả Lê Hữu Thể (Nxb Tư pháp, 2005), Luận án tiến sỹ luật học “THQCT trong TTHS từ thực tiễn tỉnh Nghệ An” của tác giả Tôn Thiện Phương (Học viện khoa học xã hội năm 2017). Các công trình đã nghiên cứu khá toàn diện, sâu sắc những vấn đề lý luận về nguồn gốc, khái niệm, phạm vi, nội dung QCT, THQCT. Các giả cũng đã rất cố gắng phân biệt làm rõ các khái niệm QCT và THQCT, mối quan hệ giữa QCT và THQCT – một mối quan hệ biện chứng giữa quyền lực nhà nước và cách thức tổ chức thực hiện quyền lực ấy; mối quan hệ giữa THQCT và KSXX là 2 chức năng của VKS, tuy độc lập nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Kết quả nghiên cứu cũng làm rõ nội dung THQCT trong các giai đoạn tố tụng khác nhau, trong đó có 6 giai đoạn xét xử. Các công trình đã cung cấp kiến thức nền tảng cơ bản, có giá trị tham khảo rất tốt khi nghiên cứu về đề tài Luận án. Ngoài ra, góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về QCT có khá nhiều bài viết nêu lên những quan niệm khác nhau về QCT, thực tiễn THQCT ở nước ta hiện nay như: bài viết "Cơ quan THQCT trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay" của TS Đỗ Văn Đương in trên Tạp chí Nghiên cứ lập pháp số 07/ 2006; “QCT và tổ chức thực hiện QCT trong nhà nước pháp quyền” của TS Nguyễn Minh Đức in trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 1, 2/ 2012; “VKS với hai chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp và sự lựa chọn thích hợp trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam” của TS Nguyễn Văn Quảng trên Tạp chí Kiểm sát số 13/2012; “Công tố và THQCT trong tố tụng hình sự” của tác giả Trần Đình Nhã trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 21/2014;... Bên cạnh đó, trong những năm gần đây còn có nhiều công trình nghiên cứu về QCT, THQCT ở những góc độ khác, như Luận án tiến sỹ luật học “Các chức năng trong TTHS Việt Nam: những vần đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng (Học viện khoa học xã hội năm 2012). Trong luận án của mình tác giả nhìn nhận buộc tội (công tố) cùng với bào chữa, xét xử được xác định là 3 chức năng cơ bản của TTHS. Các chức năng này có vị trí, vai trò, bản chất, đặc trưng khác nhau, có sự độc lập với nhau, nhưng lại có mối liên hệ chặt chẽ, ràng buộc nhau, đảm bảo sự vận hành của TTHS. Theo tác giả dù dưới hình thức tố tụng nào (tố cáo, thẩm vấn, tranh tụng,...) thì ba chức năng này vẫn luôn xuất hiện và tồn tại, chúng chỉ khác trong cách thể hiện mà thôi. Những kết quả nghiên cứu trên mang đến những nhìn nhận đầy đủ, toàn diện hơn về QCT, khi đặt QCT trong mối tương tác với các chức năng tố tụng khác. Tương tự như vậy, gần đây nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu THQCT theo những cách thức mới, không chỉ là những hoạt động độc lập, mà cách thức THQCT, địa vị pháp lý của KSV nói riêng được đặt trong trong mối liên hệ với cách thức tổ chức hoạt động tố tụng hình sự nói chung, trong mối quan hệ với 7 các chủ thể khác trong quá trình tố tụng..., như Luận án tiến sỹ luật học “Mô hình TTHS Việt Nam và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng” của tác giả Nguyễn Thị Thủy (2014). Trong luận án của mình tác giả đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về mô hình TTHS; những tiêu chí khoa học về phân loại các mô hình TTHS; làm rõ lịch sử hình thành, phát triển, đặc điểm, ưu thế, hạn chế của các mô hình TTHS điển hình trên thế giới và xu thế phát triển chung của các mô hình TTHS. Kết quả nghiên cứu cho thấy chức năng công tố ở các mô hình tố tụng vận hành theo những cách thức khác nhau, phù hợp với mô hình tố tụng; ở chiều ngược lại, chức năng công tố là một thành tố của mô hình tố tụng, cách thức vận hành của nó cũng tác động đến cách thức hoạt động của các thành tố khác trong mô hình tố tụng đó. Các vấn đề trên còn được nhiều tác giả khác quan tâm, thông qua các nghiên cứu về vị trí, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các chủ thể thực hiện các chức năng tố tụng trong các mô hình khác nhau, trong đó có việc thực hiện chức năng buộc tội, thực tiễn ở nước ta hiện nay và các đề xuất hoàn thiện như: tác giả Nguyễn Trương Tín với bài viết “Một số vấn đề lý luận về chức năng buộc tội trong tố tụng hình sự và vấn đề sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự 2003 liên quan đến chức năng buộc tội” in trên Tập chí Nhà nước Pháp luật 8/2009; tác giả Nguyễn Đức Mai với bài viết “Đặc điểm của mô hình tố tụng tranh tụng và phương hướng hoàn thiện mô hình tố tung hình sự ở Việt Nam” trên Tạp chí Toà án nhân dân số 23, 24/2009; TS Lê Hữu Thể, Nguyễn Thị Thuỷ với “Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp” trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 18/2010; tác giả Nguyễn Duy Giảng với bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về việc tăng cường vai trò của Viện kiểm sát trong mô hình tố tụng hình sự Việt Nam” in trên Tạp chí Kiểm sát 2/2011; tác giả Nguyễn Ngọc Chí với bài viết “Cơ sở lựa chọn mô hình Tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam” trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề Các cơ quan Tư pháp trong Nhà nước pháp quyền 2011... * Liên quan đến kiểm sát hoạt động tư pháp: 8 KSXX là một dạng hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp, những vấn đề này đã được đặt ra nghiên cứu trong khá nhiều công trình, như Đề tài khoa học cấp bộ “Bàn về chức năng giám sát việc thực hiện quyền lực của nhà nước và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS ở nước ta” của VKSND tối cao (2010). Công trình đã nghiên cứu, làm sáng tỏ về quyền lực nhà nước, sự tất yếu cần phải giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước. Sự hiện diện của VKS với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật không phải là sản phẩm của một chế độ xã hội theo kiểu quốc gia XHCN hay quốc gia TBCN, mà bởi đặc điểm lịch sử, tính đặc thù của văn hóa, của truyền thống v.v… Đối với công tác KSXX, thông qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân, của những người tham gia tố tụng, VKS có vai trò quan trọng trong kiểm tra, giám sát quyền lực tư pháp, có một vai trò và vị trí mà các thiết chế khác không thay thế được. Đề tài khoa học cấp bộ “VKS ở các nước chuyển đổi và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong quá trình cải cách tư pháp” của VKSND tối cao (2012) cho thấy, những thay đổi về chính trị, kinh tế, xã hội của các nước chuyển đổi sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1991 có ảnh hưởng sâu sắc đến mô hình VKS trên tất cả các phương diện vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy,... Sau chuyển đổi, bên cạnh chức năng công tố, VKS ở đa số các nước này vẫn tiếp tục thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Qua nghiên cứu, Đề tài cho rằng ở nước ta trong những năm tới cần khẳng định và duy trì hai chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND. Trong Đề án cấp bộ “Nghiên cứu về quyền tư pháp, hoạt động tư pháp, cơ quan tư pháp và kiểm sát hoạt động tư pháp” của VKSND tối cao (2013) các tác giả đã đi sâu làm rõ bản chất, nội dung và đặc điểm của quyền tư pháp, hoạt động tư pháp, chủ thể các hoạt động tư pháp. Kết quả nghiên cứu cho thấy cấu trúc và thẩm quyền và nhiệm vụ, địa vị pháp lý của các cơ quan tư pháp ở các nước là rất đa dạng. Ở nhiều nước hình thức giám sát hoạt động xét xử phổ biến thông qua tuyển chọn, bầu cử, bổ nhiệm thẩm phán. Tuy vậy ở nước ta cần thiết 9 duy trì chức năng “kiểm sát các hoạt động tư pháp” nói chung, KSXX nói riêng, nhằm bảo đảm để các hoạt động của các chủ thể diễn ra trong giai đoạn này phù hợp với pháp luật, tuân theo pháp luật. Việc nghiên cứu về kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung, KSXX nói riêng trong những năm gần đây tiếp tục có những phát triển mới, đi sâu, cụ thể hơn. Đề tài khoa học cấp bộ “Kiểm sát các hoạt động tư pháp ở Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp – Những vấn đề đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật” của VKSND tối cao (2014) đã tập trung làm rõ khái niệm, khách thể, đối tượng, phạm vi của chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp... Các tác giả cho rằng, kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKS để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp; được thực hiện từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong giai đoạn xét xử, hai chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp là cùng do KSV thực hiện, tuy nhiên mục đích và nội dung của các chức năng là khác nhau. Để tránh sự mập mờ trong nhận thức, hạn chế trong thực tiễn thi hành thì các quy định của pháp luật cần phân định rõ các chức năng này. Ngoài ra Đề tài cũng nghiên cứu về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung KSXX nói riêng ở nước ta và ở một số nước trên thế giới – cung cấp nhiều thông tin cần thiết trong quá trình xây dựng Luận án. Ngoài các công trình trên, liên quan đến kiểm sát hoạt động tư pháp, KSXX còn có khá nhiều công trình, bài viết khác nghiên cứu, góp phần làm sáng tỏ các vấn đề như quan niệm về cơ quan tư pháp, quan niệm về kiểm sát hoạt động tư pháp, KSXX, thẩm quyền, phạm vi, hình thức thực hiện công tác kiểm sát, phân biệt kiểm sát hoạt động tư pháp với thực hành quyền công tố trong hoạt động thực hiện chức năng của VKS... có thể kể đến như bài viết “Quan niệm về cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp” của PGS, TS Phạm Hồng Hải trên Tạp chí Kiểm sát số 8/ 2002; “Tư pháp hình sự và yêu cầu tăng cường kiểm sát hoạt động tư pháp hình sự” của TS Nguyễn Thị Thủy trên Nghiên cứu lập pháp số 10 13/2009; “Một số vấn đề về hoạt động tư pháp và kiểm sát hoạt động tư pháp ở nước ta hiện nay” của tác giả Trần Văn Độ trên Tạp chí Luật học số 2/2014; TS Đỗ Văn Đương với “ Đảm bảo tính độc lập của VKS và vai trò của VKS trong kiểm sát các hoạt động tư pháp - kinh nghiệm từ thực tiễn Việt Nam” trên Tạp chí Kiểm sát số 13/2012... 1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hình sự Theo quy định của pháp luật ở nước hiện nay, THQCT và kiểm sát sát hoạt động tư pháp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được thực hiện ở nhiều giai đoạn khác nhau, từ giải quyết tin báo tố giác tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, và tiếp tục được thực hiện liên tục ở các giai đoạn xét xử sơ thẩm, PT, GĐT, TT. Các hoạt động THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp này do nhiểu cấp, nhiều bộ phận khác nhau của cơ quan VKS thực hiện; trong đó VKSND cấp cao ở nước ta hiện nay chỉ có nhiệm vụ THQCT và KSXX theo thủ tục PT, GĐT, TT. Lịch sử tư pháp cho thấy cách thức tổ chức, vận hành hoạt động THQCT và KSXX PT, GĐT, TT ở các nước là khác nhau và ở từng nước cũng khác nhau qua các thời kỳ. Nghiên cứu về các vấn đề này có thể kể đến một số công trình như: * Nhóm công trình liên quan đến hoạt động xét xử PT, GĐT, TT. Hoạt động THQCT và KSXX nói chung, trong đó có THQCT và KSXX trong giai đoạn PT, GĐT, TT nói riêng có mối liên hệ chặt chẽ, quy định lẫn nhau với các hoạt động tố tụng khác trong giai đoạn xét xử. Do đó nghiên cứu về THQCT và KSXX thì cần nghiên cứu về hoạt động xét xử. Liên quan đến hoạt động xét xử PT có thể kể đến Luận án tiến sĩ “Nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTHS Việt Nam” của Vũ Gia Lâm (2008). Công trình đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về xét xử và cấp xét xử trong tố tụng nói chung và tố tụng hình sự nói riêng. Kết quả các công trình nghiên cứu cho thấy, xuất phát từ đòi hỏi việc xét xử phải chính xác, công bằng, nên cần các cấp TA khác nhau để TA cấp trên xem xét lại bản án của TA cấp dưới. Sự ra đời của 11 nguyên tắc 2 cấp xét xử là một nhu cầu tất yếu khách quan khi sự phát triển của xã hội loài người phát triển đến một trình độ nhất định. Trên cơ sở nghiên cứu sâu sắc về khái niệm, nội dung, ý nghĩa của Nguyên tắc, Luận án cũng đưa ra nhiều đề xuất, kiến nghị nhằm tăng cường chất lượng hoạt động tiến hành tố tụng trong giai đoạn xét xử nói chung, công tác THQCT và KSXX nói riêng. Cùng nghiên cứu về xét xử PT còn phải kể đến Luận án tiến sĩ “PT trong TTHS” của Nguyễn Đức Mai (2004). Trong công trình của mình tác giả đã nghiên cứu khá toàn diện về PT trong TTHS. Về mặt lý luận, công trình đã làm rõ được sự cần thiết, bản chất của PT trong TTHS; đồng thời cũng cho thấy các quan điểm về giới hạn, phạm vi, thẩm quyền, thủ tục ... rất đa dạng, khác nhau với mỗi nước qua các thời kỳ. Với những kết quả đạt được luận án rất có giá trị khi nghiên cứu về THQCT và KSXX PT của VKSND cấp cao khi nghiên cứu nó trong tổng thể các hoạt động tố tụng trong giai đoạn này. Đối với hoạt động xét xử GĐT có thể kể đến Luận án tiến sĩ “GĐT trong TTHS Việt Nam” của Phan Thị Thanh Mai (2007). Luận án đã làm sáng tỏ những dấu hiệu đặc trưng của GĐT trong tố tụng hình sự, góp phần thống nhất nhận thức về bản chất, ý nghĩa của GĐT và nội dung của chế định GĐT. Luận án cũng phân tích, đánh giá một cách khoa học những quy định của pháp luật thực định về GĐT và thực tiễn GĐT ở nước ta hiện nay. Kết quả nghiên cứu cho thấy những điểm khác biệt của giai đoạn GĐT so với các giai đoạn xét xử sơ thẩm, PT, do đó THQCT và KSXX trong giai đoạn GĐT cũng cần được điều chỉnh phù hợp. Liên quan đến cách thức phân cấp xét xử, góp phần lý giải lý do cần tổ chức lại hệ thống cơ quan tòa án, cần có thêm các TAND cấp cao (cũng là lý do để có thêm VKSND cấp cao) có thể thể kể đến Đề án thành lập TA sơ thẩm khu vực, tòa PT, tòa thượng thẩm, đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND tối cao. Đánh giá về thực tiễn tổ chức và hoạt động, TAND tối cao đã nêu ra khá nhiều tồn tại, bất cập như việc xác định thẩm quyền xét xử của mỗi TA vừa theo lãnh thổ, vừa theo tính chất vụ việc còn nhiều bất hợp lý; nhiệm vụ của TAND tối cao 12 nặng nề ... Do vậy, cần thiết phải tiếp tục cải cách, đổi mới hệ thống TAND nước ta gồm 4 cấp theo đúng tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TƯ. Ngoài các công trình trên, liên quan đến hoạt động xét xử PT, GĐT, TT còn có rất nhiều bài viết trên các tạp chí nghiên cứu. Các bài viết này nêu ra những điểm mâu thuẫn, bất cập trong các quy định của pháp luật, tranh luận về cách hiểu, cách áp dụng, đồng thời kiến nghị sửa đổi các quy định của pháp luật về xét xử PT, GĐT, TT như: bài viết “Hoàn thiện một số quy định về xét xử PT hình sự nhằm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc hai cấp xét xử” của tác giả Vũ Gia Lâm trên Tạp chí Toà án nhân dân số 23/2006; “Một số vấn đề về phạm vi xét xử và quyền hạn của hội đồng xét xử PT vụ án hình sự” của tác giả Vũ Gia Lâm(2009) trên Tạp chí Toà án nhân dân số 18/2009; “Thủ tục xét xử PT vụ án hình sự theo pháp luật của một số nước” của tác giả Nguyễn Đức Mai trên Tạp chí Toà án nhân dân số 2/2010; tác giả Nguyễn Văn Trượng với một loạt bài viết như: “Một số vướng mắc khi áp dụng quy định của BLTTHS năm 2003 về xét xử PT” trên Tạp chí Toà án nhân dân số 4/2005, “Cần sửa đổi bổ sung một số quy định của BLTTHS năm 2003 về thủ tục xét xử phúc thẩm” trên Tạp chí Kiểm sát số 17/2006, “Một số vướng mắc khi áp dụng quy định của BLTTHS năm 2003 về xét xử PT” trên Tạp chí Toà án nhân dân số 15/2006, “Hoàn thiện một số quy định của BLTTHS về xét xử PT theo tinh thần cải cách tư pháp” trên Tạp chí Toà án nhân dân số 22/2008, “Cần sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS về thủ tục xét xử PT theo yêu cầu cải cách tư pháp” trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 2/2010, “Hoàn thiện một số quy định của BLTTHS về xét xử PT” trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 11/2011; “TA cấp PT hủy án sơ thẩm để xét xử lại theo hướng có tội - những vấn về lý luận và thực tiễn” của tác giả Đinh Văn Quế trên Tạp chí TAND số 8/2013; “Một số vướng mắc khi áp dụng các quy định của pháp luật trong xét xử PT vụ án hình sự” của tác giả Dương Thị Diệu Hiền trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 3/2014... Đặc biệt trong giai đoạn nghiên cứu xây dựng BLTTHS 2015 có khá nhiều bài viết góp ý vào các dự thảo như “Góp ý một số quy định về xét xử PT trong 13 Dự thảo BLTTHS (sửa đổi)” của tác giả Mai Thị Thanh Thảo trên Tạp chí Kiểm sát số 6/2015; “Bình luận một số quy định về xét xử sơ thẩm và PT trong Dự thảo BLTTHS (sửa đổi)” của tác giả Phạm Công Hùng trên Tạp chí Kiểm sát số 10/2015; “Không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo và đương sự trong xét xử PT” của tác giả Mai Thanh Hiếu trên Tạp chí Luật học số 10/2015; “Một số vấn đề về các quy định chung trong thủ tục xét xử PT” của tác giả Duy Kiên trên Tạp chí Kiểm sát số Tân Xuân/2015; ... * Nhóm các công trình liên quan đến nội dung THQCT và KSXX PT, GĐT, TT của KSV Bên cạnh nhóm công trình liên quan đến hoạt động xét xử PT, GĐT, TT, mà thực chất trong đó đã có đề cập đến hoạt động THQCT và KSXX, còn có không ít nghiên cứu chuyên sâu, đề cập trực diện đến THQCT và KSXX của KSV trong giai đoạn này. Liên quan đến nội dung này có thể kể đến một số công trình như cuốn “Kỹ năng THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS” của Học viện tư pháp (2005), “Tranh luận tại phiên tòa PT”, “Kỹ năng THQCT và KSXX vụ án hình sự theo thủ tục GĐT và TT”của TS Dương Thanh Biểu (2008, 2010). Cùng với việc phân tích tính chất của giai đoạn xét xử PT, GĐT và TT, vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của KSV trong giai đoạn này theo quy định của luật thực định ở nước ta cũng như quan điểm của một số nước khác; các cuốn sách cũng đã tổng kết từ thực tiễn, nêu ra được khá phong phú, sinh động những kỹ năng, những hoạt động KSV phải thực hiện khi THQCT và KSXX trước khi mở phiên tòa, tại phiên tòa, sau khi kết thúc phiên tòa trong các giai đoạn này... Những nội dung quan trọng nhất của THQCT và KSXX của KSV đã được pháp luật TTHS và luật tổ chức VKSND quy định, điều chỉnh. Do vậy, các tài liệu nghiên cứu về các ngành luật này có giá trị quan trọng trong việc làm sáng tỏ nội dung THQCT và KSXX. Thuộc nhóm này có thể kể đến Bình luận khoa học BLTTHS do PGS, TS Võ Khánh Vinh chủ biên (NXB Công an nhân dân 2004), Giáo trình luật tố tụng hình sự của Trường đại học luật Hà Nội (NXB 14 Công an nhân dân, 2007), Bình luận khoa học BLTTHS 2003 do PGS, TS Nguyễn Ngọc Anh chủ biên (NXB Chính trị quốc gia 2009). Đặc biệt, sau khi BLTTHS 2015 ra đời đã có những nghiên cứu kịp thời các quy định mới của pháp luật như cuốn “Những nội dung mới trong BLTTHS năm 2015” do PGS, TS Nguyễn Hòa Bình chủ biên (NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2016), Giáo trình luật tố tụng hình sự của Trường đại học luật Hà Nội (NXB Công an nhân dân, 2016), Bình luận khoa học BLTTHS năm 2015 do TS Phạm Mạnh Hùng chủ biên (NXB Lao động, 2018), Bình luận khoa học BLTTHS năm 2015 do GS, TS Nguyễn Ngọc Anh và Luật sư, TS Phan Trung Hoài đồng chủ biên (NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2018),... Kháng nghị PT là thẩm quyền quan trọng được quy định trong BLTTHS, để VKS nói chung, VKS cấp cao nói riêng thực hiện chức năng THQCT và KSXX. Nghiên cứu về thẩm quyền này có thể kể đến Luận án tiến sĩ: “Chế định kháng nghị PT hình sự, những vấn đề lý luận và thực tiễn” Nguyễn Huy Tiến (2015). Trong luận án của mình tác giả đã có những nghiên cứu rất sâu sắc về nguồn gốc, bản chất, ý nghĩa, nguyên tắc của kháng nghị PT; phân tích các quy định về kháng nghị PT trong pháp luật thực định ở nước ta và một số nước qua các thời kỳ, thực tiến áp dụng chế định kháng nghị PT của VKS các cấp trong giai đoạn hiện nay... do đó công trình rất có ý nghĩa tham khảo khi nghiên cứu về vấn đề THQCT và KSXX PT của VKS. Trong các vấn đề về THQCT và KSXX của KSV, tranh tụng là nội dung được quan tâm nghiên cứu trong những năm gần đây. Nghiên cứu về vấn đề này có thể kể đến Luận án tiến sỹ luật học “Nguyên tắc tranh tụng trong TTHS việt nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Văn Hiển (2010), Đề tài khoa học cấp bộ “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử và những vấn đề đặt ra đối với việc sửa đổi BLTTHS” của VKSND tối cao (2015). Trong công trình của mình, các tác giả khằng định, sự tồn tại khách quan của hai chức năng buộc tội và gỡ tội làm xuất hiện nhu cầu đối chất, tranh tụng giữa hai nhóm chủ thể có quyền và lợi ích đối chọi nhau nhằm bảo vệ quan điểm của mình và phủ định, 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan