Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy từ thực ...

Tài liệu Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy từ thực tiễn huyện văn chấn, tỉnh yên bái

.PDF
78
182
110

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HÀ MINH LOAN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN VĂN CHẤN, TỈNH YÊN BÁI Chuyên ngành : Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN VĂN HUYÊN HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả trong luận văn chưa được công bố trong bất kì công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện khoa học xã hội Hà Nội. NGƯỜI CAM ĐOAN Hà Minh Loan MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY ............................... 6 1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy .. 6 1.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy .... 15 1.3. Những hoạt động của VKS khi THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm ma túy 17 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN VĂN CHẤN, TỈNH YÊN BÁI...................................................................... 22 2.1. Quy định của pháp luật tó tụng hình sự về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra ..................................................................................................................... 22 2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy trên địa bàn huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái ..................................................................... 33 Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN VĂN CHẤN, TỈNH YÊN BÁI ............................................................................................................... 55 3.1. Các yêu cầu nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái ..... 55 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy trên địa bàn huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái ....................... 56 KẾT LUẬN ............................................................................................................................... 68 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN BLHS : Bộ luật hình sự BLTHS : Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra ĐTV : Điều tra viên TNHS : Trách nhiệm hình sự KTVAHS : Khởi tố vụ án hình sự KTBC : Khởi tố bị can TTHS : Tố tụng hình sự VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân KSV : Kiểm sát viên KSHĐTP : Kiểm sát hoạt động tư pháp KSVTTP : Kiểm sát việc tuân theo pháp luật THQCT : Thực hành quyền công tố TAND : Tòa án nhân dân HĐND : Hội đồng nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực hiện nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, trong những năm qua hoạt động thực hành quyền công tố (THQCT) và Kiểm sát hoạt động tư pháp (KSHĐTP) được đổi mới, nâng cao về chất lượng, đã hạn chế được tình trạng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội cũng như làm oan người vô tội, đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, góp phần không nhỏ trong công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân mà hoạt động THQCT ở các giai đoạn tố tụng, trong đó có hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự còn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót như: Việc tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra chưa thưc sự đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm; một số KSV chưa thực sự chủ động trong hoạt động kiểm sát điều tra ngay từ giai đoạn đầu, việc đề ra yêu cầu điều tra còn sơ sài chưa cụ thể nên việc định hướng cho hoạt động điều tra còn hạn chế; còn để xảy ra tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, việc bắt, tạm giữ sau đó phải xử lý hành chính; việc phát hiện những vi phạm trong hoạt động điều tra của CQĐT chưa thường xuyên, kiên quyết, còn hiện tượng nể nang làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công tác điều tra. Thực tế ở Việt Nam cho thấy tình hình vi phạm, tội phạm về ma túy có diễn biến phức tạp trên hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước, đặc biệt là ở các tỉnh miền núi phía Bắc, trong đó có huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái; phương thức hoạt động ngày càng tinh vi, có chiều hướng gia tăng về số vụ, về tính chất nguy hiểm và hậu quả gây ra ngày càng nghiêm trọng. Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước đã quan tâm chỉ đạo kiên quyết đấu tranh nhằm từng bước ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn này ra khỏi đời sống xã hội bằng việc ban hành Luật và nhiều văn bản Pháp luật tạo thành một hệ thống Pháp luật về phòng chống Ma túy. Tuy nhiên, thực tế cho thấy đấu tranh với loại tội phạm này rất khó khăn vì tội phạm về ma túy thường đem lại lợi nhuận cao, đối 1 tượng phạm tội liều lĩnh, thủ đoạn phạm tội tinh vi xảo quyệt, khi bị phát giác sẵn sàng chống trả quyết liệt gây thiệt hại về sức khỏe đôi khi là cả tính mạng cho những chiến sĩ, cán bộ trực tiếp đấu tranh phòng chống loại tội phạm này, gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố và xét xử. Xét thấy đây là vấn đề cần được tập trung nghiên cứu bởi công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ma tuý ngoài đặc điểm chung thì ở mỗi địa phương, mỗi loại đối tượng lại có những đặc điểm riêng như địa lý, kinh tế, xã hội, tập quán, lối sống, phương thức, thủ đoạn phạm tội. Hơn nữa, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái có thể được coi là nơi địa bàn nóng, phức tạp về tội phạm ma túy và hiện quá trình giải quyết các vụ án về tội phạm ma túy tiếp tục nảy sinh những vấn đề vướng mắc mới. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài sẽ có ý nghĩa thiết thực trong công tác phòng, chống tội phạm ma túy và tiếp tục nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn điều tra đối các tội phạm về ma túy của VKSND huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Những hạn chế tồn tại nêu trên do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong đó nguyên nhân cơ bản là nhận thức về công tác THQCT và KSĐT của VKSND còn thiếu đầy đủ và chưa thống nhất. Lý luận về hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự chưa được nghiên cứu có hệ thống, đầy đủ và toàn diện. Thực tiễn công tác THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự nói chung và án ma túy nói riêng chưa được tổng kết rút kinh nghiệm thường xuyên. Để tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được và hạn chế những yếu kém nêu trên, trong giai đoạn tiếp theo, toàn ngành Kiểm sát nhân dân nói chung và VKSND huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái nói riêng tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 49/NQ-TW; đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực hoạt động tư pháp; bảo đảm triển khai và thực hiện có hiệu quả Luật tổ chức VKSND sửa đổi được Quốc hội thông qua ngày 24/11/2014 và chuẩn bị thực hiện BLTTHS năm 2015 sửa đổi bổ sung để nâng cao chất lượng THQCT và KSHĐTP; tăng cường hợp tác quốc tế trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, tội phạm ma túy. Trong đó tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 26/3/2008 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới”; Kế hoạch số 88/KH-VKSTC ngày 13/9/2012 của VKSND Tối cao về “Chiến lược quốc gia phòng, chống và kiểm soát ma túy ở Việt 2 Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 trong ngành Kiểm sát nhân dân”. Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 của VKSND Tối cao về “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm”. Từ những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài "Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy từ thực tiễn huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái" là luận văn tốt nghiệp Cao học chuyên ngành Tố tụng hình sự của mình; nhằm đáp ứng cả về phương diện lý luận và thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm ma túy của VKSND huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề THQCT và vấn đề về ma túy. Cụ thể: - Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực hành quyền công tố ở Việt Nam từ 1945 đến nay, của VKSND Tối cao (năm 1999). - Công tác THQCT và kiểm sát điều tra án ma túy của TS Dương Thanh Biểu – Phó viện trưởng VKSND Tối cao (năm 2001). - Hiểm họa ma túy và cuộc chiến mới của PGS.TS Nguyễn Xuân Yêm và TS Trần Văn Luyện (năm 2002). - Luận văn thạc sỹ của tác giả Lê Quốc Cường về Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh (năm 2015). - Luận văn thạc sỹ của tác giả Đặng Thị Thảo Lan về Đấu tranh phòng chống tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt các chất ma túy ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam (năm 2005). Ngoài ra còn nhiều bài viết của các tác giả đăng trên tạp chí ngành và nhiều chuyên đề nghiệp vụ như: Tổng hợp kinh nghiệm trong công tác THQCT, KSĐT, Kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án ma túy lớn của Vụ 2 - VKSND tối cao năm 2004; VKSND các cấp cần tập trung làm tốt việc tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra của TS Trần Công Phàn, đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 8/2012; Những điểm mới về THQCT trong giai đoạn điều tra các 3 VAHS của VKS theo quy định của BLTTHS năm 2015, đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 01/2016. Các nghiên cứu, bài viết và chuyên đề nêu trên đề cập đến những khía cạnh nhất định hoặc những vấn đề chung nhất. Từ trước đến nay, trên địa bàn tỉnh Yên Bái cũng đã có một số luận văn cao học, luận văn tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị về các tội phạm về ma túy, nhưng chưa có luận văn tốt nghiệp nào về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy trên địa bàn huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Do đó việc nghiên cứu THQCT trong giai đoạn điều tra của luận văn không bị trùng lặp. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Về mục đích nghiên cứu: Luận văn phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm ma túy. Đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp bảo đảm, nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm ma túy của VKSND huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Về nhiệm vụ nghiên cứu: Phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố, THQCT trong giai đoạn điều tra của VKSND như khái niệm, đối tượng, phạm vi, nội dung của quyền công tố và THQCT trong giai đoạn điều tra. Đặc điểm và các giai đoạn THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm ma túy. Đánh giá thực trạng THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm ma túy của VKSND huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái, nêu lên những thành quả đạt được, những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân để từ đó đưa ra các quan điểm, giải pháp nhằm đảm bảo đảm, nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm ma túy của VKSND huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm ma túy trên địa bàn huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu việc THQCT trong giai đoạn điều tra đối với các tội phạm ma túy xảy ra trên địa bàn huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái trong 05 năm, từ ngày 01/12/ 2011 đến ngày 30/11/2016. 4 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật; các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và ngành Kiểm sát nhân dân về đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy; đặc biệt là quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu đề tài, luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu của Triết học Mác – Lênin và các khoa học chuyên ngành khác, trong đó đặc biệt chú trọng đến phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. 6. Những đóng góp mới và ý nghĩa của đề tài Những đóng góp mới của luận văn: Làm rõ thêm khái niệm, đối tượng, phạm vi và nội dung của Quyền công tố và THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm ma túy của VKSND; Phân tích đánh giá ưu điểm, hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của việc THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm ma túy trên địa bàn huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái; đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm ma túy của VKSND huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái trong thời gian tới. Ý nghĩa của luận văn: Góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm ma túy của VKSND; Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục từ viết tắt, nội dung của luận văn gồm 03 chương. Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy. Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy và thực tiễn áp dụng tại VKSND huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng THQCT của VKSND huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. 5 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY 1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy Theo Đại từ điển tiếng Việt, “Công” có nghĩa là “thuộc về Nhà nước, tập thể, trái với tư”; còn “Tố” có nghĩa là “nói về những sai phạm, tội lỗi của người khác một cách công khai trước người có thẩm quyền hoặc trước nhiều người”;“Công tố” có nghĩa là “điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Tòa án”. Như vậy công tố có mối liên hệ chặt chẽ với Pháp luật, đặc biệt là Pháp luật hình sự. Bất kỳ Nhà nước nào cũng hết sức quan tâm đến lĩnh vực hình sự, bởi chính Pháp luật hình sự là phương tiện cai trị hữu hiệu nhất. Khi một hành vi bị coi là tội phạm được thực hiện sẽ làm phát sinh một quan hệ pháp luật giữa một bên là Nhà nước và bên kia là người phạm tội. Trong mối quan hệ này, Nhà nước là chủ thể quyền lực (quyền lực công), là người thực hiện sự buộc tội; còn đối tượng bị Nhà nước cáo buộc là người đã thực hiện hành vi tội phạm. Vì thế, công tố được hiểu là sự buộc tội nhân danh công quyền (Nhà nước) đối với người đã thực hiện hành vi bị coi là tội phạm trước Tòa án. Ở Việt Nam, quyền công tố và THQCT được nhắc đến nhiều khi đề cập đến chức năng của VKSND các cấp. Hiến pháp năm 1980 là văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước ta đưa ra thuật ngữ Thực hành quyền công tố (Điều 138) và được nhắc lại ở cùng Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 1981; năm 2002 và năm 2014. Hiến pháp năm 2013 đã được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 6 và Luật tổ chức VSKND sửa đổi bổ sung năm 2014 được Quốc hội thông qua ngày 24/11/2014, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/6/2015 tiếp tục khẳng định chức năng của VKSND là THQCT và KSHĐTP. Như vậy, trong các hoạt động của VKSND, bên cạnh khái niệm “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật” đã xuất hiện khái niệm “Quyền công tố và THQCT”. Song từ đó cho đến nay khái niệm về Quyền công tố còn có nhiều quan điểm khác nhau: Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước đưa các vụ việc vi phạm pháp luật ra Tòa án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nước, xã 6 hội, công dân, bảo vệ trật tự pháp luật” [29, tr.84]. Theo đó, quyền công tố được xác định trên cơ sở các khái niệm công tố Nhà nước và công tố xã hội. Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho VKS thực hiện theo luật định. Nội dung quyền công tố là tổng hợp các biện pháp pháp lý đặc trưng theo luật định được tiến hành với sự liên kết chặt chẽ với nhau mà VKS có trách nhiệm thực hiện trong hoạt động tố tụng tư pháp. Quyền công tố là một quyền năng nhằm thực hiện chức năng KSVTTPL. Xét về nội dung THQCT là KSVTTPL trong lĩnh vực hình sự, dân sự và các lĩnh vực tố tụng khác nhằm đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật, hành vi phạm tội đều bị phát hiện, điều tra xử lý theo pháp luật, tăng cường pháp chế thống nhất. Quan điểm này đã quá mở rộng khái niệm, nội dung và phạm vi của quyền công tố, dẫn đến xóa nhòa ranh giới và tính đặc thù của tố tụng hình sự và các lĩnh vực tố tụng khác. Tuy nhiên, quan điểm này cũng đã thể hiện được sự đồng nhất giữa khái niệm quyền công tố Nhà nước với khái niệm thẩm quyền của VKS trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, dân sự và các loại án khác. Quan điểm thứ hai cho rằng: “Tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đều là thực hành quyền công tố” [15, tr.17] . Quan điểm này lại đánh đồng quyền công tố với KSVTTPL của VKS. Theo đó, công tố không phải là một chức năng độc lập của VKS mà chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng KSVTTPL. Cơ sở lập luận của quan điểm này chủ yếu dựa vào Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 1981. Nếu hiểu quyền công tố như vậy là quá rộng và chưa chính xác, vì chức năng công tố và chức năng KSVTTPL là hai chức năng hoàn toàn độc lập của VKS. Trong thực tiễn hoạt động của VKS thì hai chức năng này có những nội dung đan xen, liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau, nhưng không phải vì thế mà phủ nhận được tính độc lập của hai chức năng này cả về nội dung và phạm vi áp dụng. Quan điểm thứ ba cho rằng: “Quyền công tố là quyền của Nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan (ở Việt nam là cơ quan VKS) thực hiện việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Để làm được điều này, cơ quan công tố có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội trước phiên tòa” [25, tr40]. Theo quan điểm này, quyền công tố là quyền buộc tội nhân danh Nhà nước đối với người phạm tội. Quyền công tố chỉ được xem xét trong mối liên hệ với lĩnh vực pháp luật đã gắn 7 liền không thể tách với việc nhân danh Nhà nước chống lại hình thức vi phạm pháp luật nghiêm trọng (tội phạm), đó là lĩnh vực tố tụng hình sự. Do vậy, quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự mà không có trong các lĩnh vực khác. Với nhận thức của bản thân, tác giả ủng hộ quan điểm thứ ba bởi: Quan điểm đã khẳng định được quyền công tố là quyền của Nhà nước, nhân danh Nhà nước để buộc tội đối với người có hành vi vi phạm mà pháp luật hình sự bị coi là tội phạm và nó chỉ có trong lĩnh vực hình sự; quan điểm cũng thừa nhận quyền công tố gắn liền với quyền tài phán của Tòa án. Đó là quyền truy cứu TNHS đối với người phạm tội ra tòa và bảo vệ sự buộc tội trước phiên tòa. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức rằng, không có nghĩa cứ phải đưa được người phạm tội ra tòa mới là THQCT. Trên thực tế, quyền công tố có thể bị triệt tiêu bất cứ lúc nào khi sự việc là đối tượng tác động của quyền công tố có đủ căn cứ để triệt tiêu; quan điểm cũng thừa nhận quyền công tố chỉ có thể do một cơ quan thực hiện và độc lập với cơ quan tài phán (ở Việt Nam thực hiện quyền này là cơ quan VKS); quan điểm này cũng phù hợp với quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp hiện tại. Như vậy Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trên cơ sở phát hiện tội phạm, bảo đảm thu thập đầy đủ chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội từ đó quyết định việc truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ việc buộc tội đó trước Tòa án. Đối tượng của quyền công tố: Với quan điểm về quyền công tố nêu trên, thì đối tượng của quyền công tố là người thực hiện hành vi phạm tội. Nội dung của quyền công tố: Xuất phát từ quan điểm về bản chất của quyền công tố là sự buộc tội nhân danh Nhà nước và đối tượng của quyền công tố là tội phạm và người bị nghi thực hiện hành vi phạm tội, tác giả đồng tình với quan điểm cho rằng: “ Nội dung của quyền công tố chính là sự buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi tội phạm” [25, tr.40]. Phạm vi quyền công tố: Về phạm vi không gian: Có nhiều quan điểm cho rằng quyền công tố không những có trong lĩnh vực tố tung hình sự mà còn trong các lĩnh vực khác như tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động. Xuất phát từ quan điểm coi 8 quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với người thực hiện hành vi phạm tội, tác giả đồng tình với quan điểm cho rằng, quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Về phạm vi thời gian (tức thời điểm bắt đầu và kết thúc của quyền công tố): Hiện nay còn nhiều quan điểm nhưng tác giả đồng tình với quan điểm: “Phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật” [25, tr40]. Bởi quyền công tố là quyền của Nhà nước truy cứu TNHS đối với người thực hiện hành vi phạm tội, thì quyền này phải phát sinh từ khi tội phạm xảy ra và nó trừng phạt người đó một cách công khai bằng con đường đưa vụ án ra Tòa án xét xử. Cho nên khi phát hiện có hành vi phạm tội được thực hiện, nhiệm vụ của cơ quan công tố là phải (có quyền) tiến hành ngay các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật để từ đó xác định người phạm tội và các căn cứ để kết tội họ. Đến khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị, tức là quyền công tố cũng kết thúc. Trong khoa học luật TTHS, việc xác định quyền công tố và theo đó là THQCT có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn. Trong nhận thức của không ít người làm công tác nghiên cứu và thực tiễn trong cũng như ngoài ngành Kiểm sát đã nhầm lẫn giữa quyền công tố và THQCT trên các phương diện như: đối tượng, nội dung, phạm vi. Họ luôn gắn quyền công tố chỉ với VKS, coi đó là quyền của VKS. Do đó không lý giải được nhiều vấn đề như việc CQĐT, Tòa án … sử dụng các quyền năng pháp luật quy định để khởi tố vụ án, bị can, ra quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn… thì có phải các cơ quan này cũng THQCT hay không? Những hành vi nào là THQCT, hành vi nào là thực hiện chức năng KSHĐTP? Việc quy định cơ quan THQCT ở mỗi nước khác nhau. Ở nước ta, nhà nước giao cho VKS thực hiện chức năng này, cho nên chỉ VKS mới có chức năng THQCT mà không có cơ quan nào có được. Theo Từ điển Hán - Việt thì "Công tố": "Thay mặt Nhà nước thực hiện buộc tội, cơ quan thực hiện việc này là Viện kiểm sát"; theo Từ điển tiếng Việt: "Truy tố, buộc bị cáo và phát biểu ý kiến trước Tòa án"; còn theo Thuật ngữ pháp lý phổ thông là: "Hoạt động của Kiểm sát viên và những người khác được luật định (công tố viên xã hội) có nhiệm vụ chỉ ra hành vi phạm tội, xác định căn cứ để kết tội và đề nghị áp 9 dụng hình phạt đối với người phạm tội...". Như vậy, hoạt động THQCT gắn liền với việc truy cứu TNHS đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Khi nghiên cứu về THQCT, trong giới luật học hiện nay còn tồn tại hai xu hướng khác nhau. Một là, họ gắn việc THQCT với việc thực hiện những nhiệm vụ khác của công tố viên trong TTHS. Hai là, họ chỉ nêu ra một số biện pháp pháp lý như: Lập cáo trạng và luận tội trước phiên tòa sơ thẩm hình sự và coi đó là THQCT. Thậm chí có người còn cho ràng công tố chỉ là sự buộc tội trước phiên tòa sơ thẩm. Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành, VKS là cơ quan duy nhất được giao nhiệm vụ THQCT “Không có cơ quan nhà nước nào có thể thay thế ngành kiểm sát để sử dụng quyền công tố; bắt, giam, tha, điều tra, truy tố, xét xử có đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hay không ngoài cơ quan VKS” [9, tr.10]. Bởi: 1.VKS là cơ quan duy nhất về mặt pháp lý có quyền độc lập phát động QCT; 2. VKS có quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, CQĐT chỉ có quyền đề nghị; 3. Trong quá trình điều tra VAHS, VKS có trách nhiệm đảm bảo đủ các chứng cứ để truy tố bị can; 4. Khi có đủ chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội và xét thấy cần thiết phải xử lý người phạm tội trước pháp luật VKS quyết định truy tố bị can ra Tòa. Tại phiên tòa, VKS có trách nhiệm bảo đảm việc truy tố, buộc tội bị cáo theo những căn cứ và quy định của pháp luật. Bản án kết tội của Tòa án chính là việc chấp nhận lời buộc tội của VKS đối với người phạm tội. Từ đó, ta có thể đưa ra khái niệm THQCT trong TTHS như sau: Thực hành quyền công tố trong TTHS là hoạt động của VKS để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó; đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đúng người đúng tội, đúng pháp luật; không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Điều 107 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp". Điều 1 Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định: "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật". Điều 23 BLTTHS cũng quy định: “Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người 10 phạm tội ra trước Tòa án. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, việc khởi tố điều tra, truy tố, xét xử thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội”. Điều 13 BLTTHS quy định VKS được áp dụng các biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và xử lý người thực hiện hành vi phạm tội. Điều 3 và Điều 4 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định rõ các chức năng cơ bản của VKSND là chức năng THQCT và chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp; xác định rõ phạm trù của “thực hành quyền công tố” và “kiểm sát hoạt động tư pháp”. Theo đó, THQCT là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội. Ở nước ta hiện nay có nhiều quan điểm về việc phân chia các giai đoạn TTHS. Có quan điểm cho rằng quá trình TTHS gồm 05 giai đoạn: KTVAHS, điều tra vụ án hình sự, truy tố người phạm tội, xét xử và thi hành án [2, tr11]. Bên cạnh đó cũng tồn tại quan điểm quá trình TTHS gồm 07 giai đoạn: KTVAHS, điều tra VAHS, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, xét xử phúc thẩm VAHS, thi hành án và giai đoạn đặc biệt (giám đốc thẩm và tái thẩm) [30, tr10]. Dù có nhiều quan điểm khác nhau về việc phân chia các giai đoạn TTHS, điều tra vụ án hình sự vẫn là giai đoạn không thể thiếu, điều tra là giai đoạn TTHS trong đó cơ quan có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật TTHS quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án. Nhiệm vụ ở giai đoạn điều tra là thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm và người phạm tội, làm cơ sở cho việc truy tố và xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; xác định thiệt hại do tội phạm gây ra, nhân thân người phạm tội tạo điều kiện cần thiết cho việc giải quyết vụ án; tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và phòng ngừa tội phạm; góp phần phổ biến và giáo dục ý thức pháp luật cho quần chúng nhân dân. Do giai đoạn điều tra có vị trí, vai trò quan trọng như nêu trên nên việc xác định đúng phạm vi THQCT của VKS trong giai đoạn này là rất cần thiết. Theo điều 112 BLTTHS quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT trong giai đoạn điều tra, bên cạnh việc thực hiện những hoạt động của giai đoạn điều tra, 11 VKS còn thực hiện những hoạt động của giai đoạn khởi tố (quyết định khởi tố) và giai đoạn truy tố (quyết định truy tố bị can, đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án). Theo đó phạm vi THQCT của VKS trong giai đoạn điều tra bao trùm lên hoạt động khởi tố, điều tra và quyết định việc truy tố. Trong giai đoạn điều tra, với các quyền năng cụ thể của mình khi THQCT, VKS đã hình thành mối quan hệ vừa phối hợp vừa chế ước với CQĐT được biểu hiện qua những hoạt động như: VKS đề ra Yêu cầu điều tra mà CQĐT phải thực hiện để làm sáng tỏ vấn đề; Áp dụng, thay đổi, hủy bỏ một số biện pháp ngăn chặn nhất định; Yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi Quyết định khởi tố VAHS, KTBC theo quy định của pháp luật nhằm mục đích điều tra xử lý tội phạm một cách nhanh chóng, có hiệu quả, tránh bỏ lọt tội phạm hoặc oan sai người vô tội. Tội phạm về ma túy là hành vi cố ý xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước dưới mọi hình thức. Do là một loại tội phạm, nên tội phạm về ma tuý cũng có những đặc điểm chung như các tội phạm khác đó là: Tính nguy hiểm cho xã hội, tính trái pháp luật, tính có lỗi và tính chịu hình phạt. Tuy nhiên, đối với tội phạm về ma tuý có những đặc điểm riêng mà các tội phạm khác không có như: Tội phạm về ma túy là hành vi cố ý xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước chứ không phải của một cá nhân hay tổ chức như các tội danh khác. Các tội phạm về ma túy đều có chung đối tượng là các chất ma túy và tiền chất ma túy được quy định trong Nghị định 82/2013/NĐ-CP do Chính phủ ban hành có hiệu lực từ ngày 15/9/2013 bao gồm 234 chất ma túy và 24 tiền chất để sản xuất ra chất ma túy. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm về ma tuý thể hiện ở sự đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe và sự phát triển bình thường của con người cũng như đến hạnh phúc gia đình và trật tự công cộng. Tính nguy hiểm của loại tội phạm này cao hơn so với các tội phạm khác được quy định trong BLHS (trừ các tội xâm phạm an ninh quốc gia), trong số 10 tội danh về ma túy thì có 3 tội có mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình (khoản 4 các Điều 193; Điều 194; Điều 197); 2 tội có mức cao nhất của khung hình phạt là chung thân (khoản 4 các Điều 195; 200; 201); có 12 trường hợp là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (khoản 3, khoản 4 các Điều 193; 194; 195; 197; 200; 201); và chỉ có 2 trường hợp là tội phạm ít nghiêm trọng (khoản 1 Điều 12 192; khoản 1 Điều 199); các trường hợp còn lại đều là tội nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng. Điều đó phản ánh mức độ nguy hiểm của loại tội phạm này đối với xã hội là rất lớn, khác với các loại tội phạm thông thường khác nên được Nhà nước kiên quyết bài trừ, trừng phạt nghiêm minh. Đối với các vụ án mua bán, vận chuyển chất ma tuý với quy mô lớn, thường được người phạm tội tổ chức rất chặt chẽ và bí mật thành những đường dây lớn nhưng lại không được tổ chức như các vụ án có tổ chức khác (không có người cầm đầu, chỉ huy), có vụ có rất đông người tham gia nhưng họ lại không biết hết được mọi thành phần trong đường dây. Đối với những hành vi mua bán có tính chất tiêu thụ, người phạm tội thường chia ma tuý thành những gói nhỏ (tép, chỉ...) mỗi gói là một liều để bán cho các con nghiện nên khi bắt quả tang, thường chỉ thu được một phần nhỏ số ma túy hoặc bị chúng phi tang tang vật ngay lập tức và tẩu thoát dễ dàng. Nếu chỉ dựa vào lời khai của người sử dụng chất ma túy, cũng rất khó để bắt được người bán trái phép chất ma túy. Vì vậy, trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy, vai trò THQCT của VKS là rất quan trọng, cần nắm bắt tình hình kịp thời, vận dụng tối đa nghiệp vụ của mình để thu thập, đánh giá chứng cứ một cách chính xác để truy tìm tội phạm đến cùng, không để lọt tội phạm tiếp tục gây hại ngoài xã hội. Không phải ngẫu nhiên nhà làm luật Việt Nam xây dựng riêng một chương "Các tội phạm về ma túy" trong BLHS và qua mỗi lần sửa đổi bổ sung, chương tội phạm về ma túy được chú trọng xây dựng hoàn thiện, quan tâm hơn trong khâu lập pháp và hành pháp. Như vậy, THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy là việc VKS sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu TNHS đối với người thực hiện hành vi phạm tội về ma túy trong giai đoạn điều tra. Chủ thể thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra: Như đã trình bày ở trên, quyền công tố là quyền của Nhà nước thực hiện truy cứu TNHS đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Quyền này được Nhà nước trao choc ơ quan VKS thực hiện, do đó VKS cũng là chủ thể THQCT trong giai đoạn điều tra. 13 Đối tượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra: là hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra tác động vào nhằm đạt được mục tiêu cụ thể nào đó như bảo vệ lợi ích chung của xã hội, bảo đảm trật tự xã hội và pháp luật, trừng trị người phạm tội. Từ nhận thức đó thì đối tượng của THQCT trong giai đoạn điều tra chính là việc truy cứu TNHS đối với người thực hiện hành vi phạm tội về ma túy. Nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra là việc VKS sử dụng tất cả những quyền năng tố tụng nhằm bảo đảm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Theo đó nội dung THQCT bao gồm: Thứ nhất, những hoạt động phát động THQCT như KTVA, KTBC. Thứ hai, hoạt động THQCT được thực hiện bởi VKS trong giai đoạn điều tra như yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định KTVAHS, KTBC; Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra; khi cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra; yêu cầu Thủ trưởng CQĐT thay đổi ĐTV; Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; Phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của CQĐT; Hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT; Quyết định việc truy tố bị can hoặc đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra: Để xác định được chính xác phạm vi THQCT, thì không thể không xem xét đến phạm vi của quyền công tố. Xét về mặt nguyên tắc thì chúng đồng nhất với nhau, nhưng trên thực tế thì giữa hai phạm vi này còn có một khoảng cách. Như đã trình bày ở trên, phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi xác định có hành vi phạm tội được thực hiện và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật (trừ trường hợp có căn cứ do pháp luật quy định làm quyền công tố bị triệt tiêu trước khi bản án có hiệu lực pháp luật). Do đó, ngay từ khi có dấu hiệu tội phạm xảy ra là đòi hỏi quyền công tố phải được phát động. Cho nên ngay từ ở thời điểm này, hoạt động điều tra của CQĐT cũng như hoạt động THQCT của VKS đã được sử dụng ngay từ giai đoạn giải quyết tin báo, tố giác tội phạm. Còn trong giai đoạn điều tra, THQCT sẽ bắt đầu từ khi có QĐ KTVAHS và kết thúc khi CQĐT ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra VAHS. 14 1.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy - THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy là một hoạt động áp dụng pháp luật vào thực tế nhằm truy cứu TNHS đối với người thực hiện hành vi phạm tội về ma túy. Hoạt động được tiến hành bởi VKS là cơ quan duy nhất đại diện Nhà nước thực hiện chức năng THQCT. Để thực hiện chức năng công tố BLTTHS và Luật tổ chức VKSND quy định cho VKS một hệ thống các quyền năng pháp lý rộng lớn, trong đó có những quyền chỉ VKS được thực hiện, điển hình như quyền truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử. Các CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng được pháp luật giao cho một số quyền năng pháp lý cụ thể như: KTVA, KTBC, bắt, tạm giữ, tạm giam… nhưng đó chỉ là một số quyền năng tố tụng thuộc nội dung quyền công tố. Không cơ quan nào có quyền năng cơ bản của quyền công tố là quyền truy cứu TNHS đối với người thực hiện hành vi phạm tội ra trước Tòa án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên tòa ngoài cơ quan VKS. Mặt khác để thực hiện quyền truy cứu TNHS của mình, VKS được pháp luật quy định quyền hạn đồng thời cũng là trách nhiệm phải đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp của tất cả các lệnh, quyết định tố tụng của CQĐT liên quan đến việc xử lý vụ án, bị can. Trong đó có một số quyết định bắt buộc phải có sự phê chuẩn của VKS mới có giá trị. Trong giai đoạn điều tra thông thường VKS không trực tiếp tiến hành điều tra vụ án nhưng với tư cách là cơ quan duy nhất được giao THQCT, VKS được sử dụng mọi quyền năng pháp lý do pháp luật quy định kể cả quyền trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm đảm bảo tính có căn cứ khi truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Xét trong khía cạnh THQCT, CQĐT chỉ là chủ thể thực hiện các thủ tục pháp lý theo luật định để hỗ trợ cho VKS đưa vụ án ra Tòa án xét xử. Còn các hoạt động công tố nhằm thực thi quyền truy cứu TNHS, quyết định buộc tội, quyết định hạn chế các quyền công dân như bị bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác, quyết định việc truy tố hay đình chỉ vụ án là thuộc thẩm quyền của VKS. - Hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm ma túy của VKS bao gồm các hành vi và các quyết định tố tụng mang tính công khai theo một trình tự, thủ tục, thẩm quyền chặt chẽ nhất định được quy định trong BLTTHS. Mục đích của hoạt động 15 THQCT là nhằm truy cứu TNHS đối với người thực hiện hành vi phạm tội, buộc họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi do chế tài pháp luật hình sự đặt ra. Do vậy quá trình này phải đảm bảo tính chặt chẽ, có căn cứ và mang tính công khai. Các quyết định công tố của VKS thể hiện dưới dạng văn bản của người có thẩm quyền như quyết định KTVA, KTBC, quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn các lệnh, quyết định của CQĐT, Cáo trạng… đều mang tính công khai và phải được gửi cho các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng. - Hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy của VKS chủ yếu được tiến hành do truy xét, thu giữ vật chứng, bắt quả tang khi thực hiện hành vi phạm tội… bởi tính chất đặc thù của loại tội phạm này nên việc đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu giám định hàm lượng chất ma túy được chú trọng hơn cả. Khi thực hiện chức năng THQCT, quyền hạn của VKS chính là trách nhiệm pháp lý mà VKS phải thực hiện nhằm đảm bảo việc thu thập tài liệu, đánh giá chứng cứ nhằm xác định tội phạm và truy cứu TNHS. Do vậy đối với mỗi vụ án về ma túy cần xác định có hay không có hành vi phạm tội; Có tính đồng phạm hay không, phạm tội có tổ chức hay theo đường dây kết nối như thế nào; Khối lượng ma túy là bao nhiêu; Hình thức phạm tội ra sao; Xác định tội danh phạm phải và theo điều khoản nào của BLHS, năng lực chịu TNHS ra sao, nhân thân người phạm tội như thế nào… Nếu giải quyết tốt được những vấn đề trên cũng là đã đạt được mục đích của việc đề ra yêu cầu điều tra, giúp cho việc THQCT được thực hiện một cách nhanh chóng, chính xác và có hiệu quả hơn. - Trong giai đoạn điều tra với các quyền năng cụ thể của VKS khi THQCT đã hình thành mối quan hệ vừa phối hợp vừa chế ước với CQĐT. Hoạt động của CQĐT và của VKS được quy định trong luật TTHS đều có mục đích nhằm phát hiện và điều tra, xử lý tội phạm một cách nhanh chóng, hiệu quả và đúng pháp luật. Mối quan hệ chế ước của VKS với CQĐT thể hiện qua việc: yêu cầu CQĐT tiến hành các hoạt động điều tra; yêu cầu thủ trưởng CQĐT thay đổi ĐTV nếu hành vi của ĐTV có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự; yêu cầu truy nã; phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định của CQĐT; hủy bỏ các quyết định trái pháp luật. Sự phối hợp giữa VKS với CQĐT không phải là VKS làm thay CQĐT mà sự phối hợp đó được biểu hiện qua những hoạt động sau: VKS đề ra yêu cầu điều tra giúp cho việc điều tra được 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan