Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn hu...

Tài liệu Thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn huyện nghĩa hưng, tỉnh nam định

.PDF
86
500
114

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN XUÂN YÊM THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU TỪ THỰC TIỄN HUYỆN NGHĨA HƯNG, TỈNH NAM ĐỊNH Chuyên ngành : Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60.38.01.04 luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS CAO THỊ OANH Hµ néi - 2017 LỜI CAM ĐOAN Luận văn thạc sĩ Luật học thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định là sự nghiên cứu cố gắng tích cực của bản thân. Vậy tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Trần Xuân Yêm MỤC LỤC MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU ..........................................7 1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu... 7 1.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu ... 16 1.3. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát với Cơ quan điều tra trong điều tra trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu ......................... 18 1.4. Cơ sở pháp lý của thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu ............................................................................................................................ 19 1.5. Nội dung thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu .... 20 Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN NGHĨA HƯNG, TỈNH NAM ĐỊNH..................................................................33 2.1. Tình hình, đặc điểm có liên quan đến thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu tại Viện KSND huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định ...... 33 2.2. Những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của công tác thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu của Viện KSND huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định ...................................................................................................................... 36 Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN NGHĨA HƯNG, TỈNH NAM ĐỊNH . 60 3.1. Quan điểm nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu của Viện KSND huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định 60 3.2. Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu của Viện KSND huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định ..... 61 KẾT LUẬN .................................................................................................................. 78 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự ĐTV : Điều tra viên KSV : Kiểm sát viên QCT : Quyền công tố THQCT : Thực hành quyền công tố VKS : Viện kiểm sát VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân Tối Cao VKSND : Viện kiểm sát nhân dân CQCSĐT : Cơ quan cảnh sát điều tra CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng NTHTT : Người tiến hành tố tụng MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Viện kiểm sát nhân dân là một cơ quan trong hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân được quy định tại Điều 107- Hiến pháp năm 2013: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”. Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp của Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm thực hiện chức năng Hiến định của ngành kiểm sát nhân dân. Đây là hoạt động thể hiện quyền lực Nhà nước, một trong những biện pháp hữu hiệu của Nhà nước dùng để đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời thể hiện quan điểm đường lối của Đảng, Nhà nước ta trong việc đảm bảo điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị nêu rõ nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới là : “Viện kiểm sát nhân dân các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng, nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ…”. Nghị quyết số 49/NQTW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.Trong Nghị quyết 49 chỉ rõ: “Tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra”. 1 Trong những năm qua công tác của ngành Kiểm sát đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền con người, bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân… Hoạt động thực hành quyền công tố được đổi mới, nâng cao về chất lượng đã hạn chế tình trạng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, góp phần quan trọng trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Tuy nhiên công tác thực hành quyền công tố trong điều tra án hình sự cũng bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót như việc tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Một số Kiểm sát viên chưa thực hiện kiểm sát điều tra ngay từ đầu đối với các vụ án hình sự, việc đề ra yêu cầu điều tra vụ án hình sự sơ sài, chưa toàn diện cụ thể, tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, việc bắt tạm giữ hình sự sau phải xử lý hành chính còn xảy ra. Một số hạn chế thiếu sót nêu trên do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nguyên nhân cơ bản là nhận thức về thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát thiếu đầy đủ toàn diện. Nhận thức về hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự chưa được nghiên cứu có hệ thống, đầy đủ toàn diện. Thực tiễn công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự nói chung và án xâm phạm sở hữu nói riêng chưa được tổng kết rút kinh nghiệm thường xuyên. Tình hình vi phạm, tội phạm về xâm phạm sở hữu trên địa bàn cả nước, địa bàn tỉnh Nam Định nói chung và địa bàn huyện Nghĩa Hưng nói riêng có diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng, tính chất mức độ ngày càng nguy hiểm hơn. Trong những năm gần đây xảy ra nhiều vụ án giết người cướp tài sản đặc biệt nghiêm trọng tại một số tỉnh thành trong toàn quốc. Tại địa bàn huyện Nghĩa Hưng tội phạm về xâm phạm sở hữu xảy ra nhiều nhất trong các loại tội phạm, chiếm 39% gồm các tội cướp tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, tội trộm cắp tài sản, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tội 2 hủy hoại tài sản. Trong những năm qua, công tác thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghĩa Hưng đã đạt được những kết quả nhất định, hạn chế việc bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, góp phần quan trọng trong đấu tranh phòng chống tội phạm ở địa phương. Tuy nhiên công tác thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghĩa Hưng có lúc, có một số vụ còn hạn chế, tồn tại chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp. Xuất phát từ những lý do nêu trên nên học viên lựa chọn đề tài: “ Thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định” làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ luật học là cần thiết, nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu tại huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thực hành quyền công tố là một trong những chức năng quan trọng của Viện kiểm sát, nên trong nhiều năm qua đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, có nhiều bài viết liên quan đến hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong điều tra các vụ án hình sự, cụ thể như: - Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp góp phần đẩy mạnh cải cách tư pháp của Hà Mạnh Trí, đăng trên Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 1/2003. - Viện kiểm sát nhân dân các cấp cần tập trung làm tốt việc tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra của Tiến sỹ Trần Công Phàn, đăng trên Tạp chí kiểm sát, số 8/2012. - Bàn về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra của Tiến sỹ Nguyễn Tiến Sơn, đăng trên Tạp chí kiểm sát, số 9/2013. - Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra của Tiến sỹ Lê Hữu Thể chủ biên và đồng tác giả, Nhà xuất bản tư pháp Hà Nội năm 2008. - Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực hành quyền công tố ở Việt Nam từ những năm 1945 đến nay, của Viện kiểm sát nhân dân Tối Cao (năm 1999). 3 - Quy chế về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008-VTC ngày 02/01/2008. Tại tỉnh Nam Định đã có một số luận văn thạc sỹ liên quan đến hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân, nhưng chưa có luận văn nào nghiên cứu đề tài thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu. Trong phạm vi nghiên cứu, luận văn tập trung làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu tại huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.Trên cơ sở thực tiễn của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghĩa Hưng trong 05 năm, từ năm 2012 – 2016, luận văn tiến hành phân tích, đánh giá việc thực hiện hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghĩa Hưng, tìm ra các hạn chế, thiếu sót từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong thời gian tới. Qua đó, góp phần nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án hình sự đảm bảo việc truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hạn chế đến mức thấp nhất việc bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không để xảy ra oan sai. Với cách tiếp cận và thể hiện như vậy, nội dung của luận văn không trùng với bất cứ công trình nào đã được công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích của luận văn: Làm rõ những vấn đề về lý luận và thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu của Viện kiểm sát huyện Nghĩa Hưng, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong thời gian tới. Góp phần đấu tranh, phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. - Nhiệm vụ của luận văn: Nghiên cứu làm sáng tỏ lý luận về chức năng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. 4 Tổng kết, phân tích, đánh giá thực trạng thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu của Viện kiểm sát huyện Nghĩa Hưng trong 05 năm, từ năm 2012 – 2016. Đề xuất phương hướng, xây dựng các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong thời gian tới đồng thời khẳng định vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động bảo vệ pháp luật. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát huyện Nghĩa Hưng trong điều tra các tội xâm phạm sở hữu theo quy định của pháp luật hiện hành. - Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Nghiên cứu vấn đề thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát huyện Nghĩa Hưng trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu trong 05 năm giai đoạn từ ngày 01/12/2011 đến 30/11/2016. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình cải cách tư pháp. - Phương pháp nghiên cứu của luận văn được sử dụng bao gồm phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh và trao đổi khoa học. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận chuyên ngành luật tố tụng hình sự về chức năng thực hành quyền công tố. - Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn nâng cao hiệu quả công tác thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát huyện Nghĩa Hưng trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu. Xuất phát từ những lý do trên học viên thấy việc nghiên cứu làm sáng tỏ các lý luận về thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự là cần thiết, phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta. Trên cơ sở thực tiễn áp dụng pháp luật để tìm ra những hạn chế, thiết sót từ đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu. Thông qua đó giúp Viện 5 kiểm sát ngày một nâng cao hơn vị thế của mình trong hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu. Chương 2: Thực tiễn thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu của Viện kiểm sát huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU 1.1- Khái niệm thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu 1.1.1- Khái niệm quyền công tố Theo Đại từ điển tiếng Việt “Công” có nghĩa là “Thuộc về Nhà nước, tập thể, trái với tư” còn “Tố” có nghĩa là “nói về những sai phạm, tội lỗi của người khác một cách công khai trước người có thẩm quyền hoặc trước nhiều người”, “Công tố” có nghĩa là “điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Toà án” [11]. Như vậy theo Đại từ điển tiếng Việt thì công tố được hiểu với nhiều nội dung khác nhau: Điều tra, truy tố, buộc tội, phát biểu ý kiến trước Toà án. Ở nước ta, quá trình xây dựng và tổ chức thực thi quyền công tố gắn liền với quá trình xây dựng nền tư pháp và hệ thống tư pháp. Trong Hiến pháp năm 1980, văn bản pháp lý cao nhất đầu tiên của Nhà nước ta thuật ngữ “thực hành quyền công tố” mới được đưa ra, khi đề cập đến chức năng của Viện kiểm sát nhân dân (Điều 138). Thuật ngữ này được Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981, năm 2002 nhắc lại (Điều 1 và Điều 3). Như vậy, trong các hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân bên cạnh khái niệm truyền thống “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật” đã xuất hiện khái niệm “quyền công tố” và “thực hành quyền công tố”. Hiến pháp năm 2013 đã được Quốc hội khoá XIII thông qua tại kỳ họp thứ 6 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân sửa đổi bổ sung năm 2014 được Quốc Hội thông qua ngày 24/11/2014 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/6/2015 tiếp tục khẳng định chức năng của Viện kiểm sát nhân dân là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Nhận thức đúng vấn đề này giúp cho chúng ta xác định chính xác vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống cơ quan Nhà nước. Tuy vậy, cho đến nay, quyền công tố đang là vấn đề phức tạp, tồn tại nhiều ý kiến khác nhau, đòi hỏi cần được tiếp tục nghiên cứu. Có thể khái quát một số quan điểm như sau: 7 - Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đều là thực hành quyền công tố” [ 12, tr.17]. Đây là quan điểm khá phổ biến, đặc biệt là trong ngành Kiểm sát từ năm 1980 cho đến khi Luật tổ chức VKSND năm 1992 (sửa đổi bổ sung vào năm 2002) được ban hành. Như vậy quan điểm này đã đồng nhất hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật với thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân. Theo tác giả luận văn thì hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp và thực hành quyền công tố là hai hoạt động khác nhau, với mục đích khác nhau. Điều này thể hiện như sau: + Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân là đảm bảo cho pháp luật được thực hiện, được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất còn thực hành quyền công tố là nhằm phát hiện, điều tra, truy tố, buộc tội chính xác, nhanh chóng, kịp thời những hành vi phạm tội, đảm bảo không để xảy ra oan sai hay bỏ lọt tội phạm. + Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật là hoạt động kiểm sát quyền lực, thực hành quyền công tố là hoạt động thực thi quyền lực (quyền truy cứu trách nhiệm hình sự của Nhà nước) + Hoạt động kiểm sát việc tuân theo có phạm vi rộng hơn thực hành quyền công tố. Thực hành quyền công tố chỉ giới hạn trong lĩnh vực tố tụng hình sự. - Quan điểm thứ hai cho rằng: “Quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước đưa các vụ việc vi phạm pháp luật ra Toà án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nước, xã hội, công dân, bảo vệ trật tự pháp luật” [ 21, tr.84]. Theo quan điểm này thì Quyền công tố thuộc về Nhà nước, chỉ Nhà nước mới có quyền này. Nhà nước cáo buộc đối với cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật, vi phạm pháp luật có thể về hành chính, dân sự, kinh tế và luật hình sự… Đây là quan điểm phổ biến của ngành Kiểm sát những năm 1990 và được đưa vào chương trình giảng dạy chính thức tại trường Cao đẳng kiểm sát. - Quan điểm thứ ba cho rằng: “Quyền công tố là quyền của Nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan (ở Việt Nam là cơ quan Viện kiểm sát) thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để làm được điều này, cơ quan công tố có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đủ tài liệu, chứng cứ để xác 8 định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó truy tố bị can ra trước Toà án và bảo vệ sự buộc tội trước phiên toà” [17, tr.40]. Theo quan điểm này thì Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát, Viện kiểm sát chỉ có một vai trò duy nhất trong tố tụng hình sự là thực hiện quyền công tố và cũng chỉ ở một giai đoạn duy nhất của tố tụng hình sự là giai đoạn xét xử sơ thẩm. Như vậy quan điểm này đã thu hẹp chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự, không phù hợp với quy định của Hiến pháp và pháp luật tố tụng hình sự. Từ những phân tích nêu trên tác giả luận văn cho rằng: Quyền công tố là quyền thuộc về Nhà nước, được Nhà nước giao cho Viện kiểm sát thực hiện nhằm phát hiện tội phạm, truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên tòa. - Đối tượng của Quyền công tố: Từ ba quan điểm về Quyền công tố nêu trên nên cũng có ba quan điểm khác nhau về đối tượng Quyền công tố. Quan điểm thứ nhất cho rằng tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật đều là thực hành quyền công tố thì đối tượng của quyền công tố là sự tuân thủ pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân cả cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Về bản chất quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật là hoàn toàn khác nhau. Bản chất của quyền công tố là buộc tội người có hành vi phạm tội phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Bản chất của kiểm sát việc tuân theo pháp luật là kiểm tra giám sát tính có căn cứ và tính hợp pháp những hành vi của các chủ thể. Quan điểm thứ hai cho rằng Quyền công tố là đại diện cho Nhà nước để đưa các vụ việc vi phạm pháp luật ra trước Tòa án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nước, bảo vệ lợi ích chung, bảo vệ lợi ích cá nhân và bảo vệ trật tự xã hội thì đối tượng của Quyền công tố là các hành vi vi phạm pháp luật. Theo quan điểm này thì đối tượng quyền công tố rất rộng và không cụ thể, vì các hành vi vi phạm pháp luật trong thực tế rất đa dạng, phong phú và không chỉ có lĩnh vực hình sự mà còn cả trong các lĩnh vực khác. Quan điểm thứ ba cho rằng Quyền công tố là quyền của Nhà nước thực hiện sự buộc tội (thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự) đối với người phạm tội và bảo vệ sự buộc tội đó thì đối tượng của Quyền công tố là tội phạm và người phạm 9 tội. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, là hành vi vi phạm pháp luật nguy hiểm nhất, xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc gia nên Nhà nước phải đại diện xã hội trừng trị người phạm tội. Như đã phân tích ở trên, tác giả có cùng quan điểm với quan điểm thứ ba về khái niệm Quyền công tố, như vậy đối tượng của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội. - Nội dung quyền công tố: Xuất phát từ bản chất Quyền công tố là quyền của Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với người phạm tội nên tác giả cho rằng nội dung của quyền công tố là sự buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội. - Phạm vi quyền công tố: Hiện nay còn nhiều ý kiến khác nhau về phạm vi quyền công tố cả về thời gian và không gian. Phạm vi không gian: Có nhiều quan điểm cho rằng Quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự, nhưng bên cạnh đó còn không ít những quan điểm cho rằng Quyền công tố còn trong các lĩnh vực khác như tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động. Xuất phát từ quan điểm Quyền công tố là quyền của Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với người phạm tội nên tác giả cho rằng Quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự. Phạm vi thời gian (về thời gian bắt đầu và kết thúc của Quyền công tố), phạm vi Quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện và kết thúc bằng bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị. 1.1.2- Khái niệm thực hành quyền công tố Từ khái niệm Quyền công tố là quyền thay mặt Nhà nước nhằm phát hiện tội phạm, truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó tại Tòa nên tác giả luận văn cho rằng Thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát nhân dân sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung Quyền công tố để thực hiện quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì: 10 “ Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện quyền buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”. Theo quy định của khoản 2 Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, mục đích của thực hành quyền công tố là đảm bảo mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội; không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái pháp luật. - Chủ thể thực hành quyền công tố: Chủ thể duy nhất có thẩm quyền thực hành quyền công tố ở nước ta là Viện kiểm sát nhân dân. Việc này đã được khẳng định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013: “ Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Cụ thể Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định tại Điều 2: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan được thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy chức năng thực hành quyền công tố là chức năng hiến định quan trọng riêng của Viện kiểm sát nhân dân. Chức năng thực hành quyền công tố không phải chức năng phát sinh từ kiểm sát, công tố độc lập với kiểm sát hoạt động tư pháp. Tuy nhiên việc phát động Quyền công tố không chỉ Viện kiểm sát nhân dân mà Cơ quan điều tra và Tòa án trong một số trường hợp cũng tham gia vào việc phát động quyền công tố. Các quyết định khởi tố của Cơ quan điều tra chỉ thực sự có giá trị pháp lý phát động quyền công tố sau khi được Viện kiểm sát xem xét tính có căn cứ và hợp pháp, nếu quyết định khởi tố hoặc không khởi tố của Cơ quan điều tra không có căn cứ và trái pháp luật thì Viện kiểm sát có quyền hủy bỏ. Tòa án có quyền khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử phát hiện tội phạm bị bỏ lọt, quyết định khởi tố vụ án hình sự của Tòa án phải gửi cho Viện kiểm sát xem xét, nếu không có căn cứ và trái pháp luật thì Viện kiểm sát sẽ kháng nghị. Như vậy về mặt 11 pháp lý chỉ có Viện kiểm sát là cơ quan có thẩm quyền độc lập phát động quyền công tố mà không chịu sự can thiệp của bất kỳ cơ quan Nhà nước nào. Giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Cơ quan điều tra có quyền đề nghị việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn còn việc quyết định là do Viện kiểm sát. Cơ quan điều tra có quyền độc lập thu thập chứng cứ, tài liệu nhưng Viện kiểm sát thấy chưa có đủ cơ sở để buộc tội thì Viện kiểm sát yêu cầu cơ quan điều tra bổ sung tài liệu, chứng cứ. Viện kiểm sát thấy có đủ căn cứ chứng minh hành vi phạm tội và cần thấy phải xét xử người đó trước Tòa án thì Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can ra trước Tòa. - Phạm vi thực hành quyền công tố: Thực hành quyền công tố được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Hoạt động thực hành quyền công tố chấm dứt khi bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo kháng nghị hoặc vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật. Yêu cầu của Bộ luật tố tụng hình sự là mọi tội phạm xảy ra đều phải được phát hiện và xử lý theo pháp luật. Về nguyên tắc khi có tội phạm xảy ra đòi hỏi Quyền công tố được phát động. Để có cơ sở phát động quyền công tố phải có một giai đoạn thu thập tài liệu, chứng cứ về tội phạm. Một số hoạt động điều tra ban đầu như khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại… Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành thì khởi tố vụ án hình sự được thực hiện khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định tội phạm dựa trên cơ sở của tố giác, tin báo về tội phạm (Điều 100 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003). Như vậy thực hành quyền công tố ngay từ khi giải quyết tin báo tố giác về tội phạm. Không phải mọi trường hợp quyền công tố được kéo dài đến khi bản án của Tòa phát sinh hiệu lực pháp luật mà nó có thể bị triệt tiêu ở giai đoạn tố tụng sớm hơn và khi quyền công tố bị triệt tiêu thì không còn hoạt động thực hành quyền công tố. Đó là những trường hợp không được khởi tố vụ án hình sự quy định tại Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 hoặc trong những trường hợp có căn cứ được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự. 12 - Nội dung Thực hành quyền công tố: Theo quy định tại Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì thực hành quyền công tố là toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội. Về bản chất đây là việc sử dụng tất cả các quyền năng tố tụng nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật; không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn trong quá trình tố tụng hình sự, nội dung thực hành quyền công tố được thực hiện bằng các biện pháp khác nhau. Cụ thể là: + Giai đoạn tiếp nhận giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; những hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn này là việc phê chuẩn hay không phê chuẩn việc bắt người khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân; hủy bỏ quyết định tạm giữ và các quyết định khác trái pháp luật của cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; khi cần thiết ra yêu cầu kiểm tra, xác minh…(Điều 12 Luật tổ chức VKSND năm 2014). + Trong giai đoạn khởi tố điều tra thì hoạt động thực hành quyền công tố là khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; Hủy bỏ các quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can trái pháp luật; Trực tiếp khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định; Phê chuẩn hoặc không phê chuẩn việc bắt, tạm giữ, tạm giam; Trực tiếp áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn… (Điều 14 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014). + Trong giai đoạn truy tố, ngoài các hoạt động thực hành quyền công tố đã được thực hiện ở giai đoạn khởi tố điều tra thì giai đoạn này Viện kiểm sát thực hành quyền công tố thông qua việc yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu liên quan đến vụ án. Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra; Quyết định gia hạn, không gia hạn thời hạn truy tố; quyết định truy tố hoặc không truy tố 13 bị can, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ, phục hồi đối với vụ án, bị can… (Điều 16 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014). + Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự Viện kiểm sát thực hành quyền công tố thông qua việc công bố Cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn; xét hỏi, luận tội, tranh luận, phát biểu quan điểm, kháng nghị bản án…(Điều 18 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014). Từ sự phân tích về chủ thể, phạm vi, nội dung thực hành quyền công tố như đã trình bày ở trên, tác giả luận văn đưa ra khái niệm thực hành quyền công tố trong điều ra các vụ án xâm phạm sở hữu như sau: Thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu là việc Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tổng hợp các quyền năng pháp lý được Nhà nước trao cho để truy cứu trách nhiệm hình sự người có hành vi cố ý hoặc vô ý xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác từ khi giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố đến khi kết thúc điều tra đề nghị truy tố bị can hoặc vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật. So với các giai đoạn tố tụng khác như truy tố, xét xử thì thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án hình sự nói chung và thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu nói riêng đều có những đặc điểm riêng về phạm vi, nội dung và biện pháp thực hiện. Cụ thể là: + Phạm vi: Thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu bắt đầu từ khi tiếp nhận giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm xâm phạm sở hữu và kết thúc khi Cơ quan điều ra kết thúc điều ra bằng một bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật. + Nội dung: Thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu là toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát được quy định tại Điều 112 của Bộ luật tố tụng hình sự và các điều 12, 14 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 để thực hiện việc buộc tội đối với người phạm tội xâm phạm sở hữu. + Biện pháp thực hiện: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu được thông qua các hành vi tố tụng (nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng) như: Phê chuẩn hay không phê chuẩn bắt người trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, khởi tố vụ án, khởi tố bị can; hủy bỏ các quyết định khởi tố; 14 quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; đề ra yêu cầu điều tra… 1.1.3- Khái niệm điều tra vụ án hình sự Tác giả luận văn cho rằng khi nghiên cứu khái niệm thực hành quyền công tố thì không thể không nghiên cứu đến khái niệm điều tra vụ án hình sự, theo tác giả thì điều tra vụ án hình sự là hoạt động phát hiện, thu thập chứng cứ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định cho Cơ quan điều tra và một số cơ quan được giao nhiệm vụ điều tra tiến hành trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. Đặc điểm của hoạt động điều tra: Hoạt động điều tra vụ án hình sự được tiến hành công khai theo các trình tự, thủ tục và theo những biện pháp do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Đặc điểm này phân biệt với những biện pháp điều tra khác như trinh sát là hoạt động nghiệp vụ được tổ chức và tiến hành dưới hình thức bí mật để thu thập thông tin về tội phạm nhằm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và nhanh chóng khám phá vụ án. Hoạt động điều tra thường ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền con người bị nghi thực hiện tội phạm thường phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế như bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét… Nếu hoạt động điều tra không tuân thủ pháp luật sẽ tiềm ẩn nguy cơ xâm phạm các quyền cơ bản của công dân. Hoạt động điều tra là bộ phận hợp thành chức năng buộc tội của Nhà nước, hỗ trợ cho cơ quan công tố thực hiện biện pháp buộc tội và đưa vụ án ra Tòa án xét xử. Hoạt động điều tra được tiến hành rất sớm, ngay từ khi tội phạm xảy ra, do vậy nếu chủ động, tích cực, chính xác ngay từ đầu sẽ góp phần đảm bảo cho hoạt động công tố, xét xử có căn cứ và ngược lại, nếu hoạt động điều tra thụ động, chậm trễ, thiếu sót sẽ kéo theo những sai lầm của hoạt động công tố, xét xử. Hoạt động truy tố, xét xử vụ án hình sự được thực hiện trên cơ sở đã có hồ sơ, tài liệu phản ánh về tội phạm và người phạm tội, còn hoạt động điều tra bắt đầu khi mới bắt đầu tìm kiếm tài liệu, chứng cứ. Do vậy hoạt động điều tra có vị trí, vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình tìm kiếm chứng cứ buộc tội, nếu không nhận thức đầy đủ về đặc điểm này, rất dễ dẫn đến bỏ lọt tội phạm. 15 1.2- Đặc điểm thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu Thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu là hoạt động áp dụng pháp luật vào thực tế nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi cố ý xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Hoạt động này chỉ do Viện kiểm sát tiến hành, Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất đại diện cho Nhà nước thực hiện chức năng thực hành quyền công tố. Bộ luật tố tụng hình sự và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân quy định cho Viện kiểm sát rất nhiều quyền năng pháp lý để thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong đó có những quyền chỉ Viện kiểm sát được thực hiện, điển hình như quyền truy tố bị can. Pháp luật quy định, Viện kiểm sát thực hiện quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đồng thời cũng là trách nhiệm phải đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp của tất cả các Lệnh, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra về việc xử lý vụ án, bị can, trong đó có một số quyết định bắt buộc phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát mới có giá trị pháp lý. Hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu mang tính công khai và được thực hiện theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Đặc điểm này nhằm đảm bảo cho hoạt động của Viện kiểm sát được thực hiện một cách độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, không có bất cứ sự can thiệp nào vào hoạt động của Viện kiểm sát nhưng đồng thời, hoạt động của Viện kiểm sát cũng được giám sát bởi nhiều chủ thể khác nhau ở trong và ngoài tố tụng hình sự. Hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu là hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự thường đối lập với hoạt động bào chữa nhưng đều có mục đích chung là tìm đến sự thật và đảm bảo công lý, công bằng, lẽ phải. Trong khi hoạt động công tố phải đảm bảo tính toàn diện, không những tập trung vào việc tìm kiếm củng cố các bằng chứng buộc tội khách quan và chính xác hơn, thì hoạt động bào chữa lại chủ yếu hướng vào việc tìm kiếm những bằng chứng gỡ tội. Thực hành quyền công tố là hoạt động mang tính Nhà nước đối với người phạm tội, còn bào chữa là hoạt động để thực hiện quyền bào chữa của công dân được pháp luật quy định, nên có sự khác biệt về nội dung và phương pháp thực hiện. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan