Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA MỘT SỐ CÂY BÚT NỮ THỜI KỲ 1986-2006 ( NGUYỄN THỊ THU...

Tài liệu THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA MỘT SỐ CÂY BÚT NỮ THỜI KỲ 1986-2006 ( NGUYỄN THỊ THU HUỆ, NGUYỄN NGỌC TƯ, ĐỖ BÍCH THÚY)

.DOCX
104
366
75

Mô tả:

THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA MỘT SỐ CÂY BÚT NỮ THỜI KỲ 1986-2006 ( NGUYỄN THỊ THU HUỆ, NGUYỄN NGỌC TƯ, ĐỖ BÍCH THÚY)
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------- NGUYỄN THANH HỒNG TÌM HIỂU MỘT SỐ CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA MỘT SỐ CÂY BÚT NỮ THỜI KỲ 1986-2006 ( NGUYỄN THỊ THU HUỆ, NGUYỄN NGỌC TƯ, ĐỖ BÍCH THÚY) LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC HÀ NỘI – 10/2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------- NGUYỄN THANH HỒNG TÌM HIỂU MỘT SỐ CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA MỘT SỐ CÂY BÚT NỮ THỜI KỲ 1986-2006 ( NGUYỄN THỊ THU HUỆ, NGUYỄN NGỌC TƯ, ĐỖ BÍCH THÚY) CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS HÀ VĂN ĐỨC Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng MỤC LỤC MỤC LỤC.............................................................................................................................1 PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................................2 1. MỤC ĐÍCH Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI........................................................................2 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ.......................................................................................................3 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU..........................................................12 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.............................................................................13 5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN...........................................................................................14 PHẦN NỘI DUNG............................................................................................................. 15 CHƯƠNG 1: NHỮNG ĐỔI MỚI VỀ CỐT TRUYỆN VÀ KẾT CẤU.....................15 1.1. Cốt truyện và sự mở rộng dung lượng hiện thực.............................................. 15 1.1.1. Cốt truyện đan xen nhiều mạch truyện........................................................19 1.1.2. Cốt truyện giàu chi tiết sự kiện.....................................................................23 1.1.3. Cốt truyện có cấu trúc lỏng:......................................................................... 27 1.2. Những đổi mới trong kết cấu truyện ngắn........................................................30 1.2.1. Kết cấu đảo lộn thời gian của sự kiện..........................................................33 1.2.2. Kết cấu tâm lí.................................................................................................41 1.2.3. Kết cấu mở (Kiểu kết thúc để ngỏ)............................................................... 45 CHƯƠNG 2: NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT................................................................................................................................. 48 2.1. Sự phong phú của thế giới nhân vật:.................................................................51 2.1.1. Nhân vật lý tưởng...........................................................................................51 2.1.2. Nhân vật tha hóa............................................................................................ 56 2.1.3. Nhân vật bi kịch............................................................................................ 58 2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật...........................................................................63 2.2.1. Không gian nghệ thuật trong việc khắc họa tính cách nhân vật.................63 2.2.2. Đối thoại và độc thoại nội tâm......................................................................67 2.2.3. Nghệ thuật miêu tả tâm lý..............................................................................72 CHƯƠNG 3: NHỮNG CÁCH TÂN TRÊN PHƯƠNG DIỆN GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN NGỮ....................................................................................................................77 3.1. Giọng điệu:...........................................................................................................77 3.1.1. Giọng hài hước, châm biếm, mỉa mai:..........................................................78 3.1.2. Giọng trữ tình, suy tư, chiêm nghiệm........................................................... 80 3.2.Ngôn ngữ:..............................................................................................................82 3.2.1. Những đặc trưng nghệ thuật trong ngôn ngữ của Nguyễn Ngọc Tư..........82 3.2.1.1. Ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ:...................................................................82 3.2.1.2. Tính nhip điệu trong văn Nguyễn Ngọc Tư..............................................84 3.2.2. Những đặc trưng nghệ thuật trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Thị Thu Huệ............................................................................................................87 3.2.2.1. Ngôn ngữ đời thường............................................................................... 87 3.2.2.2. Ngôn ngữ có tính cá thể hóa cao độ........................................................88 3.2.3. Những đặc trưng nghệ thuật trong cách sử dụng ngôn ngữ của Đỗ Bích Thúy .........................................................................................................................91 3.2.3.1. Ngôn ngữ mang đậm bản sắc của người dân tộc.....................................91 3.2.3.2. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu chất thơ................................................... 94 PHẦN KẾT LUẬN.............................................................................................................98 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. MỤC ĐÍCH Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Sau năm 1986, văn học Việt Nam đã có những khởi sắc đặc biệt. Không giống như ở thời kỳ trước, văn học thời kỳ này đã phản ánh hiện thực theo cách mới, quan niệm mới. Không chỉ mở rộng đề tài theo hướng tiếp cận gần gũi hơn với hiện thực đời sống sinh hoạt, đời sống văn hóa, quan điểm của các nhà văn về một số vấn đề của lịch sử Việt Nam cũng mang những sắc thái thẩm mỹ mới. Cảm hứng sử thi của giai đoạn trước được thay thế bằng cảm hứng đời tư, thế sự. Xu hướng ngợi ca được thay thế bằng cái nhìn phê phán hiện thực. Thói quen nhìn cuộc sống ở khía cạnh lạc quan, tươi đẹp được thay bằng sự khai thác trực diện những tồn đọng của xã hội, những khát vọng của đời sống cá nhân con người. Văn học giai đoạn này vì thế đa giọng điệu, đa sắc màu và gây nhiều tranh cãi hơn. Với đặc thù là một thể loại nhỏ gọn và cơ động, truyện ngắn bắt nhịp rất nhanh với những vấn đề của đời sống. Truyện ngắn nhanh nhạy len lỏi vào mọi ngõ ngách của xã hội, phản chiếu mọi tâm điểm nóng bỏng của hiện thực. Nhà nghiên cứu Nguyên Ngọc nhận xét: “Đây có thể coi là một thời kỳ có nhiều truyện ngắn hay trong văn học Việt Nam, tiếp theo “vụ được mùa truyện ngắn” những năm 1960 và một vụ mùa khác, trong chiến tranh”. Tuy nhiên, truyện ngắn lần này có những nét khác biệt rõ rệt. “Những năm 1960 từng để lại nhiều truyện ngắn đẹp như thơ, trong veo, trữ tình. Truyện ngắn thời chiến tranh thì vạm vỡ, chắc chắn. Đặc điểm nổi bật lần này là cầm cái truyện ngắn trong tay có thể cảm thấy cái dung lượng của nó nặng trĩu. Có những truyện ngắn chỉ mươi, mười lăm trang thôi mà sức nặng có vẻ còn hơn cả một cuốn tiểu thuyết trường thiên”. [Tr7, 71] Vì vậy, khi tiến hành thực hiện đề tài: “Tìm hiểu một số cách tân nghệ thuật của một số cây bút nữ thời kỳ 1986 -2006 (Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy) chúng tôi muốn bước đầu nhận diện một số cách tân của thể loại truyện ngắn, qua đó có những nhìn nhận chung về tiến trình đổi mới của văn học nước nhà. 1.2. Lâu nay, văn học Việt Nam đa số là văn học của nam giới. Người phụ nữ cũng xuất hiện trong lực lượng sáng tác nhưng nó còn rất mờ nhạt và chưa tạo được dấu ấn riêng. Bước vào thời kỳ đổi mới sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, các cây bút nữ ngày càng thể hiện rõ thế mạnh của mình trong lĩnh vực văn chương. Bên cạnh các cây bút sáng tác từ trước 1975, các gương mặt nữ như Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Lý Lan, Phan Thị Vàng Anh, Trần Thùy Mai, Võ Thị Xuân Hà, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy đã xuất hiện….Nhiều tác phẩm của họ vừa ra đời đã gây được sự chú ý của dư luận, tạo được dấu ấn trong đời sống văn học như Hậu thiên đường (Nguyễn Thị Thu Huệ), Bức thư gửi mẹ Âu Cơ (Y Ban), Kịch câm, Hoa muộn (Phan Thị Vàng Anh), Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tư)…Nhiều tác giả đoạt giải cao trong các cuộc thi truyện ngắn như báo Văn nghệ, tạp chí Văn nghệ quân đội, cùng với đó là hàng loạt những tuyển tập bước đầu định hình những phong cách khiến độc giả không thể không ghi nhận và hi vọng về tương lai văn học của những cây bút này. Ở góc độ của người phụ nữ sáng tác văn học, từ quan niệm về nghề, quan niệm về thiên chức của người cầm bút các nhà văn nữ thời kỳ này đã đem đến cho văn chương những cảm hứng và giọng điệu mới. Trong các sáng tác của các nhà văn nữ, ta luôn tìm thấy những âm hưởng của thời đại chúng ta đang sống. Họ tỏ ra áp sát hiện thực đời sống một cách trực diện và thẳng thắn khi nhìn nhận mặt trái của hiện thực. Có thể nhận thấy sự sắc sảo và sâu sắc khi khái quát và tiếp nhận đề tài thế sự đời tư với nỗi đau nhân tình thế thái bằng lối viết “dịu dàng, bén ngọt, riết róng và đồng cảm chia sẻ với những thân phận, những người sống quanh mình”. Tìm hiểu những cách tân nghệ thuật của một số cây bút nữ, chúng tôi muốn khẳng định giá trị của dòng văn học “tính nữ” (chữ dùng của nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng) trong sự phát triển của văn học Việt Nam đương đại. 1.3. Trong nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy chưa hẳn đã là những đại diện tiêu biểu nhất. Nhưng họ là những phong cách riêng rất độc đáo không thể trộn lẫn. Nguyễn Thị Thu Huệ là nhà văn nữ với chất giọng trầm tiêu biểu cho sự đổi mới của văn xuôi miền Bắc, Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn trẻ của mảnh đất phương Nam xa xôi và Đỗ Bích Thúy là đứa con của đại ngàn Tây bắc. Mỗi nhà văn đã đóng góp cho văn học Việt Nam một tiếng nói riêng. Chính vì thế, lựa chọn đề tài: Tìm hiểu một số cách tân nghệ thuật của một số cây bút nữ thời kỳ 1986 – 2006 (Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy), chúng tôi muốn bước đầu khám phá những thể nghiệm nghệ thuật của một số tác giả nữ để từ đó, bước đầu định hình được chỗ đứng của văn học Việt Nam trên tiến trình vận động để hội nhập với văn chương và rộng lớn hơn là văn hóa tiến bộ của thế giới. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 2.1. Tình hình nghiên cứu khái quát về văn học và truyện ngắn Việt Nam thời kỳ 1986 – 2006. * Tình hình nghiên cứu văn học Sự đổi mới quan niệm và ý thức nghệ thuật của văn học sau 1986 được đánh giá là nhân tố đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng chi phối mọi thể loại, trong đó có truyện ngắn. Các tác giả nghiên cứu về văn học thời kỳ này đã khẳng định, văn học đương đại phát triển theo hướng dân chủ hóa, có ý nghĩa bổ sung, hoàn thiện những quan niệm hiện thực về con người cho văn học giai đoạn trước. Trong chuyên luận Văn học Việt Nam hiện đại – Nhận thức và thẩm định, tác giả Vũ Tuấn Anh viết: “Nếu như cách nhìn sử thi là thích hợp cho việc thể hiện tầm rộng lớn của những vấn đề lịch sử xã hội và cộng đồng thì cách nhìn tiểu thuyết là cái nhìn tập trung, xoáy sâu vào những vấn đề của con người cá nhân cũng như mối quan hệ cá nhân – xã hội trên hành trình tìm kiếm và khẳng định giá trị nhân văn [tr54,4]. Nhà nghiên cứư Nguyễn Thị Bình cũng cùng chung nhận định: “Văn xuôi sau 1975 phát triển trong bối cảnh đất nước chuyển đổi kinh tế, giao lưu văn hóa nhiều chiều. Ý thức cá nhân được sự cổ vũ của cơ chế thị trường trỗi dậy mạnh mẽ. Nhu cầu thức tỉnh gắn liền với cảm hứng khám phá, nghiền ngẫm hiện thực, nhu cầu công bố tư tưởng riêng trong thái độ nhập cuộc của nhà văn. Trong bài viết Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới tại cuộc hội thảo quốc tế Văn học Việt Nam trong bối cảnh giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế, nhà lí luận Lê Ngọc Trà nêu ra 3 đặc điểm của văn học sau 1986. Đặc điểm nổi bật theo ông là tính chất phê phán. Đặc điểm thứ hai là tinh thần phân tích xã hội và sự chiêm nghiệm lại lịch sử. Đặc điểm thứ ba là sự trở lại với đời thường, với những số phận riêng. Có thể nói, các nhà nghiên cứu đã có sự thống nhất khá cao về những đặc điểm nội dung của giai đoạn văn học 1986 – 2006. Về đổi mới thi pháp. Tuy chưa đi sâu vào nghiên cứu một cách sâu rộng các vấn đề thi pháp của văn xuôi sau 1986, song các bài nghiên cứu gần đây đã nhấn mạnh vào một số hình thức biểu đạt của tác phẩm như: Sự suy giảm vai trò cốt truyện, sự đa dạng trong hình thức kết cấu tác phẩm, tính chất đa thanh trong nghệ thuật trần thuật, những khám phá về hệ thống nhân vật…Từ đó các nhà nghiên cứu bước đầu đi đến kết luận về khả năng mở rộng, gia tăng tính đối thoại của tự sự đương đại trước các vấn đề hiện thực và lịch sử. * Tình hình nghiên cứu truyện ngắn 1986 – 2006 Không được coi là thể loại chủ đạo trong đời sống văn học như tiểu thuyết, nhưng khả năng khái quát hiện thực của truyện ngắn giai đoạn 2006 không hề thua kém phương thức tự sự cỡ lớn này. Trước sự chín muồi của đội ngũ các cây bút đã có thành tựu và sự nở rộ của lớp các nhà văn mới 1986 – 2006 được coi là một trong những giai đoạn hoàng kim của lịch sử truyện ngắn Việt Nam. Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng khẳng định: “Nhìn tổng thể, truyện ngắn 1975 – 2000 vượt trội so với thơ và kịch vì nhiều lí do, trong đó phải kể đến sự ưu ái của đời sống là mảnh đất màu mỡ cho các thể của văn xuôi phát triển. Nếu có so sánh thì truyện ngắn Việt Nam trong thế kỷ 20 có hai thời hoàng kim của nó: 1930 – 1945 và 1986 – 2000 [tr113, 34]. Nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên trong bài Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay đánh giá: “Truyện ngắn hôm nay tiếp xúc, xới lật các mảng hiện thực ở cả hai chiều quá khứ và hiện tại để mong đóng góp một tiếng nói định vị cho người đọc, một thái độ nhìn nhận đánh giá những việc, những người của bây giờ, nơi đây [Tr 10, 67]. Chỉ rõ sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng của thể loại này, nhà nghiên cứu Lý Hoài Thu viết: “Cùng với sự gia tăng của những tên tuổi mới và số lượng tác phẩm, truyện ngắn thời kỳ này đã mở ra nhiều tìm tòi cả trong tiếp nhận về sự cô đơn của thân phận con người, là sự đan cài giữa cái ảo và cái thực, giữa chất thơ và văn xuôi [tr182, 36]. Còn trong bài viết “Từ một góc nhìn về sự vận động của truyện ngắn chiến tranh”, tác giả Tôn Phương Lan lý giải chi tiết hơn: “Những truyện ngắn đã khai thác yếu tố tâm linh và tạo ra những chi tiết, cảnh huống, li kì, hấp dẫn, đem lại cho các truyện này một vóc dáng hiện thực mới khiến người đọc không chỉ cảm mà còn thấy”. Những đổi mới về nội dung tất yếu dẫ đén sự thay đổi về hình thức thể loại truyện ngắn. Nhà phê bình Bùi Việt Thắng nhận xét: “Về khía cạnh thi pháp, truyện ngắn 1986 – 2006 đã trở nên phong phú về hình thức, phong cách và bút pháp. Đã có thể tách bạch ra những dòng phong cách chủ yếu sau: phong cách cổ điển (ứng với lớp nhà văn như Nguyễn Thành Long, Nguyên Ngọc, Nguyễn Kiên, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Hồng Nhu…), phong cách trữ tình (ứng với Y Ban, Phạm Ngọc Tiến, Nguyễn Thị Thu Huệ…). Về hình thức, truyện ngắn giai đoạn này khá đa dạng, có thể nói đến một kiểu truyền kỳ hiện đại (Bến trần gian của Lưu Sơn Minh, Hai người đàn bà xóm trại của Nguyễn Quang Thiều), kiểu truyện giả cổ tích (Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp), truyện ngắn kịch (Kịch câm của Phan Thị Vàng Anh), truyện rất ngắn (Vùng lặng của Phạm Sông Hồng), truyện ngắn triết luận (Tâm tưởng của Bùi Hiển, Sống mãi với cây xanh của Nguyễn Minh Châu…). Trong tiến trình phát triển của lịch sử văn học nói chung và thể loại truyện ngắn nói riêng, truyện ngắn nữ cũng có những thành tựu đáng ghi nhận[34]. 2. 2.Truyện ngắn nữ Việt Nam sau 1986 Văn học Việt Nam thời kỳ phong kiến, dường như ít thấy xuất hiện bóng dáng của các cây bút nữ. Một trong những nguyên nhân quan trọng là do điều kiện lịch sử, dưới chế độ phong kiến hà khắc, người phụ nữ bị bó buộc bới luật tam tòng tứ đức, bị phụ thuộc vào gia đình. Vì vậy, người phụ nữ chủ yếu quẩn quanh với các công việc của gia đình mà không có cơ hội được tiếp xúc và tham gia các hoạt động xã hội. Điều đó đã hạn chế sáng tác của nữ giới và khiến họ vắng bóng trên văn đàn dân tộc. Bước sang thế kỷ XX, người phụ nữ bắt đầu có tiếng nói trên các diễn đàn và báo chí như Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm…tuy nhiên sáng tác của các chị còn rất thưa thớt, chủ yếu là ở lĩnh vực thơ ca. Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra một thời kỳ mới. Từ đây bắt đầu xuất hiện các cây bút nữ: Thanh Hương, Lê Minh, Nguyễn Thị Như Trang, Minh …Đội ngũ các nhà văn nữ tiếp tục phát triển qua thời kỳ kháng chiến chống Mỹ: Vũ Thị Thường, Nguyễn Ngọc Tú, Lê Minh Khuê, …Tuy nhiên, dường như tiếng nói của họ chưa thực sự lớn mạnh. Những năm sau chiến tranh, đặc biệt là thời kỳ đổi mới, văn học Việt Nam khởi sắc với sự xuất hiện của hàng loạt cây bút nữ. Ngày càng nhiều những gương mặt nữ xuất hiện và chiếm ưu thế đã tạo nên sự mới mẻ, hấp dẫn. Các giải thưởng truyện ngắn liên tiếp được trao cho các cây bút bữ là bằng chứng rõ nét nhất về điều đó. Y Ban với Bức thư gửi mẹ Âu Cơ và Chuyện một người đàn bà giành giải nhất cuộc thi năm 1990. Kết thúc cuộc thi năm 1992-1994 của tạp chí Văn nghệ Quân đội, Nguyễn Thị Thu Huệ đã giành giải nhất với Hậu thiên đường và Mùa đông ấm áp. Liên tiếp trong những năm 1996, 1999, 2000,2002 các tác gải nữ đã nhận được danh hiệu cao quý nhất: Trần Thanh Hà, Đỗ Bích Thúy, Thùy Linh… Sau 1986, trong nền văn học đương đại Việt Nam đã xuất hiện cụm từ “nữ khuynh”( Chữ dùng của các tác giả trong bài Chúng tôi phỏng vấn bốn cây bút nữTạp chí Văn nghệ quân đội 3/1993) trong văn học. Có thể nói, sự xuất hiện ồ ạt của các cây bút nữ cũng như số lượng khổng lồ các tác phẩm của họ trình làng (Lê Minh Khuê hiện nay đã có 7 tập truyện ngắn in riêng, Nguyễn Thị Thu Huệ 6 tập, Võ Thị Hảo 4 tập…) và hơn hết là chất lượng các sản phẩm mà họ tạo ra có thể khẳng định, đây là thời đại mà văn chương của phái nữ đang chiếm ưu thế. Đã hết rồi cái thời mà văn học gần như là sáng tác độc tôn của giới mày râu. Đến bây giờ, có nhà nghiên cứu văn học đã phải thốt lên rằng: “Đã hình thành một tỷ lệ giữa phái yếu và phái mạnh là 2/3- một tỉ lệ đáng gờm bởi nhìn vào đó sẽ thấy truyện ngắn trẻ hôm nay (và văn chương nói chung) mang gương mặt nữ” [34]. Các cây bút nữ thực sự khẳng định được tài năng và bản lĩnh nghệ thuật của mình. Với sự tinh tế nhạy cảm vốn có, “Dường như phụ nữ bắt mạch thời đại nhanh hơn nam giới. Họ luôn gần gũi với cái lỉnh kỉnh, dở dang của đời sống.”[68]. Nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào đã chỉ ra đặc điểm riêng, những đóng góp riêng của các nhà văn nữ vào nền văn học đương đại của nước nhà: “Phụ nữ thường mạnh ở chỗ họ đưa tất cả cuộc đời và tâm hồn họ vào trang sách, hoặc nói như Tây, họ tự ăn mình”. Vì thế mà “Các cây bút nữ hôm nay mở cuộc tìm tòi trên một cái diện rất rộng và họ đạt đến hiệu quả ngay” (Ngô Thế Oanh). Sáng tác của các cây bút nữ thường đi sâu vào bi kịch, những nỗi đau với sự trải nghiệm sâu sắc. Các chị đã đem đến cho văn chương một diện mạo mới “đằm thắm, tinh tế và khoan dung hơn”. Hiện thực cuộc sống với sự tha hóa đạo đức, những xói mòn về nhân cách được thể hiện khá rõ nét. Nội tâm nhân vật được được đào sâu khai thác với cái nhìn đa chiều, sấu sắc: Hậu thiên đường (Nguyễn Thị Thu Huệ), Bức thư gửi mẹ Âu Cơ (Y ban)… Không chỉ có những khám phá mới về nội dung mà các cây bút nữ còn có những cố gắng trong tìm tòi nghệ thuật nhằm xây dựng cho mình một phong cách riêng: Y Ban với chất giọng nữ trầm trong văn chương, Võ Thị Hảo có lối viết pha màu sắc huyền thoại, Nguyễn Ngọc Tư với lối viết văn đậm màu sắc Nam Bộ, Đỗ Bích Thúy với những tác phẩm văn chương đậm tính chất vùng miền…Tất cả đã tạo nên diện mạo của truyện ngắn đương đại với những tác phẩm rất tiêu biểu của nữ giới. 2.3 .Tình hình nghiên cứu về các tác giả Trong nền văn học Việt Nam thời kỳ 1986-2006, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy là những cây bút có tên tuổi. Số lượng các bài viết, những công trình nghiên cứu về các tác giả này rất nhiều. Những công trình đó đã đánh giá được tài năng cũng như những đóng góp của họ trong nền văn học dân tộc. 2.3.1. Nguyễn Thị Thu Huệ Nguyễn Thị Thu Huệ sinh ngày 12/8/1966. Quê quán: Xã Thạch Phong, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. Trú quán: Hà Nội. Tốt nghiệp đại học tổng hợp Hà Nội, khoa ngữ văn. Chị là một trong số những tác giả nữ gặt hái được rất nhiều thành công khi tuổi đời còn khá trẻ: - Giải thưởng truyện ngắn Hội văn học nghệ thuật Hà Nội 1986 - Giải nhì cuộc thi truyện ngắn Tác phẩm tuổi xanh báo Tiền Phong 1993 - Giải nhất cuộc thi truyện ngắn Tạp chí văn nghệ quân đội 1994 - Tặng thưởng Hội nhà văn 1994 Tác phẩm: Đến nay, Nguyễn Thị Thu Huệ đã ra mắt bạn đọc bốn tập truyện ngắn: Cát đợi, Hậu thiên đường,Phù thủy, Nào ta cùng lãng quên. Xuất hiện không lâu, Nguyễn Thị Thu Huệ đã gây một tiếng vang lớn khi giành giải nhất cuộc thi truyện ngắn lần thứ 5 (1992-1994) do Tạp chí văn nghệ quân đội tổ chức với hai truyện ngắn Hậu thiên đường và Mùa đông ấm áp. Không dừng lại ở các giải thưởng, chị tiếp tục khẳng định mình bằng một loạt các sáng tác có giá trị khác. Nghiên cứu thế giới nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, đặc biệt là khám phá những cách tân, đổi mới trong các tác phẩm của chị, nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng đã phát hiện trong tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ “một sự vật vã khắc khoải canh cánh trong mỗi nhân vật, đặc biệt là nhân vật nữ[33]. Ông chỉ rõ: “Cây bút này tỏ rõ sự chia sẻ, cảm thông với phụ nữ vì anh cũng mang khuôn mặt con gái”. Sau gần một thập kỷ, khi phác thảo chân dung Thu Huệ trong lời giới thiệu về bốn cây bút nữ vào năm 2003, Bùi Việt Thắng lại một lần nữa khẳng định đối tượng mà Thu Huệ quan tâm hướng ngòi bút tới là “những thiên đường và hậu thiên đường của đời sống con người đặc biệt là người phụ nữ[34].Không chỉ có sự cách tân, mới lạ ở điểm nhìn nghệ thuật, Nguyễn Thị Thu Huệ còn có những cách tân trong quá trình xây dựng tác phẩm. Phạm Hoa trong bài giới thiệu tập Cát đợi đã chỉ rõ hai kiểu xây dựng nhân vật của Nguyễn Thị Thu Huệ: “Một là truyện truyền thống (Có chuyện), hai là truyện không có chuyện (cốt truyện theo dòng tâm trạng) (Phạm Hoa).Nguyễn Thị Thu Huệ là người rất nghiêm túc trong lao động sáng tạo nghệ thuật. Chị đã từng tâm sự rằng, truyện của chị giống như một thùng nước sôi, nó sôi lên ùng ục đến khi hết sôi là hết. Vì thế, trong sáng tác, chị đã cố gắng sử dụng những phương tiện nghệ thuật để diễn tả cho hết, cho sâu những tâm tư trong lòng mình. Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng trong Năm truyện ngắn dự thi của một cây bút trẻ [33] và Tứ tử trình làng ( Lời giới thiệu Tuyển tập truyện ngắn bốn cây bút nữ), ông đã chỉ rõ cả bề rộng lẫn bề sâu trong sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ: “Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ hấp dẫn rộng rãi người đọc trước hết là vì giàu chất đời” và “Những truyện ngắn hay của Thu Huệ là nhờ người viết bứt lên được trên cái có thực đến tận cùng, để tìm cái gì đó cao hơn của con người, đó là đời sống tâm hồn vốn rất không rõ ràng, mạch lạc, vốn bí ẩn, khó giải thích rạch ròi bằng lí trí”. Tác giả còn chỉ rõ những phương diện nghệ thuật khác trong truyện ngắn Thu Huệ, đó là tình huống “ tuy hẹp nhưng đặc sắc, ngôn ngữ có độ căng của nhịp điệu, câu thường ngắn, cấu trúc đơn giản, thông tin cao, hoạt động trong giọng điệu….Đồng thời, ông cũng nhận thấy hạn chế trong văn Thu Huệ: Cây bút này hơi tham, chưa dám gạt bỏ, còn muốn nói nhiều, nói hết trong truyện”.Ngoài ra, các tác giả khác cũng có những bài nghiên cứu sâu sắc đến hiện tượng văn học này như: Những truyện ngắn hay (Lý Hoài Thu- Tạp chí văn nghệ quân đội 12/1993), Một nửa nhân loại qua truyện ngắn dự thi của một cây bút nữ (Dương Quỳnh Trang- tạp chí văn nghệ quân đội,6/1994), Đọc hồi ức binh nhì và Bến trần gian (Kim Dung- Tạp chí Văn nghệ quân đội, 11/1994), Những ngôi sao nước mắt (Đoàn Thị Đặng Hương- Văn nghệ trẻ, 25/3/1996), Thi pháp truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ (Hồ Sỹ Vịnh-Báo Văn nghệ, 8/2002)…Nhìn chung, qua các bài viết, Nguyễn Thị Thu Huệ được đánh giá là một cây bút có tài năng trong việc khám phá và nắm bắt hiện thực một cách nhạy bén, có giọng văn linh hoạt, uyển chuyển. 2.3.2. Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976 tại huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau trong một gia đình nghèo. Nguyễn Ngọc Tư bắt đầu nghiệp viết văn khá sớm tại làng quê và gặt hái nhiều thành công trong nghề viết của mình. Chị đã lập gia đình với một thợ kim hoàn. Hiện, cùng chồng con cư ngụ tại thành phố Cà Mau, làm phóng viên cho tạp chí Văn nghệ bán đảo Cà Mau và Hội văn học nghệ thuật Cà Mau. Trong đời thường, Nguyễn Ngọc Tư có vẻ ngoan hiền, thích cuộc sống đơn giản, nhưng lại có một cuộc sống nội tâm khá phong phú và bí ẩn. Trong văn chương, Nguyễn Ngọc Tư thường ví truyện của mình như trái sầu riêng, nhiều người thích nhưng cũng có nhiều người lại dị ứng. Tác phẩm chính đã xuất bản: - Ngọn đèn không tắt (Tập truyện. NXB Trẻ-2000) - Ông ngoại (Tập truyện thiếu nhi. NXB Trẻ. 2001) - Giao thừa (Tập truyện trẻ.2003) - Biển người mênh mông (Tập Truyện. NXB Kim Đồng.2003) - Nước chảy mây trôi (Tập truyện và kí. NXB Văn nghệ. TPHCM) - Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (Tập truyện và ký. NXB Văn hóa Sài Gòn.2005) - Cánh đồng bất tận (NXB Trẻ. 2005) Giải thưởng: - Giải nhất cuộc vận động sáng tác văn học lần thứ 20, tác phẩm Ngọn đèn không tắt năm 2000 - Giải B hội nhà văn Việt Nam, tập truyện Ngọn đèn không tắt,năm 2000 - Giải B hội nhà văn Việt Nam, tập truyện Ngọn đèn không tắt, năm 2001 - Tặng thưởng dành cho tác giả trẻ, Ủy ban toàn quốc liên hiệp các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Một trong mười gương mặt trẻ tiêu biểu năm 2003 do T.W đoàn trao tặng. Cho đến nay, mặc dù đã xuất hiện trên văn đàn khá lâu, Nguyễn Ngọc Tư vẫn được coi là hiện tượng. Hàng loạt những công trình nghiên cứu, những bài báo, bài viết, những lời nhận xét khen có, chê có đã khiến Nguyễn Ngọc Tư trở thành nhà văn nữ đựợc tìm kiếm nhiều nhất trên mạng Internet và trên các phương tiện thông tin đại chúng. Lí do cô được tìm kiếm nhiều bởi người đọc nhận thấy ở tác phẩm của cô có những phát hiện mới lạ và rất độc đáo. Trên diễn đàn tháng 2/2004 có bài Nguyễn Ngọc Tư- Đặc sản miền nam của giáo sư kinh tế Trần Hữu Dũng, một Việt kiều tại Mỹ. Bài viết đã đánh giá một cách tổng hợp về nghệ thuật viết truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư từ những điều giản dị của ngôn ngữ, giai điệu đến nhân vật, cấu trúc câu. Đặc biệt, Trần Hữu Dũng đã chỉ ra điểm khác biệt của Nguyễn Ngọc Tư với các nhà văn khác: “ Cái mới trong văn Nguyễn Ngọc Tư chính là cái cũ, cái lạ ở cô là tài khui mở những sinh hoạt thân thuộc trước mắt. Nguyễn Ngọc Tư không “vén màn” cho người đọc thấy cái hay từng có, cô không dẫn ta khám phá những ngóc ngách của nội tâm mà ta chưa từng biết. Cô đưa ra một tấm gương rất trong, thật sáng. Và qua đó, lạ thay, như một tiếng đàn cộng hưởng, ta khám phá cái phong phú của chính đời ta [54]. Báo Tiền phong, ra ngày 31/1/2006 có bài đánh giá về văn Nguyễn Ngọc Tư: Văn phong giản dị, ngôn ngữ truyện cứ như được kê vào từ đời thường, nhưng chính những nỗi đau của những kiếp người, những số phận nhỏ bé ở một vùng quê nghèo và triểt lý nhân quả của cuộc đời làm nên sức ám ảnh lớn cho truyện (Phan Lâm). Báo tuổi trẻ, số ra ngày 30/1/2005với bài viết Im lặng thế đấy, tác giả Đỗ Hồng Ngọc đã nhận xét: Người đọc bất ngờ trước những kiếp người, phận người hôm nay, tại đây như trong truyện kể, và bất ngờ trước một văn bút khác lạ của người viết truyện. Nguyễn Ngọc Tư đã bắt đầu chạm vào những vỉa tầng cuộc sống của những vùng đất cô sống và viết văn. Dữ dội và nhân tình, văn Tư bắt đầu là như thế. Trong bài Hỏi chuyện nhà văn Dạ Ngân: Nguyễn Ngọc Tư, điềm đạm mà thấu đáo, nhà văn Dạ Ngân đã không tiếc lời khen ngợi khả năng vận dụng ngôn ngữ của Nguyễn Ngọc Tư: “Cái cách tu từ của Tư là tuyệt vời. Tôi thấy phương ngữ mà Ngọc Tư đưa vào truyện bao giờ cũng có sự cân nhắc cho sự đóng góp vào vốn liếng chung của ngôn ngữ quốc gia. Những người bẩm sinh có tài năng lớn thì họ mới làm được cái đó chứ! Nó tự nhiên như không thôi! Thả cái chữ ra thì đúng là cái chữ đó thôi không phải cái chữ nào khác”. Như vậy, theo đánh giá của nhà văn Dạ Ngân, Nguyễn Ngọc Tư không chỉ biết trân trọng, vận dụng những giá trị văn hóa đặc trưng đã có của vùng miền, của dân tộc, chị còn chủ động sáng tạo và đóng góp một cách có ý thức những giá trị văn hóa mới, những cách dùng ngôn ngữ mới, làm giàu thêm cho nền văn hóa dân tộc. Ở góc độ ngôn ngữ, tác giả Văn Công Hùng phần nào cũng chung cảm nhận với nhà văn Dạ Ngân khi viết: “Các câu thoại cũng thế. Đầy bất ngờ và lí thú, đậm đặc bản sắc Nam Bộ. Đậm đặc tới mức dẫu chưa một lần tới Nam Bộ cũng thấy rõ nó hiện ra mồn một khi đọc văn Nguyễn Ngọc Tư. Chất Nam Bộ ấy ẩn chứa trong tâm hồn những con người sống ở nơi tận cùng của Tổ quốc, phóng khoáng và nhân hậu, thẳng thắn, trung thực hết mình trong đời sống…Số phận cột họ vào mảnh đất này và sống chết với nó một cách dung dị, cương trực”[tr15, 62] 2.3.3. Đỗ Bích Thúy Nhà văn Đỗ Bích Thuý sinh ngày 13.4.1975 tại Hà Giang. Lớn lên chị học tập, lập gia đình và sinh sống tại Hà Nội. Đỗ Bích Thuý đã tốt nghiệp Phân viện Báo chí – tuyên truyền Hà Nội và hiện là Phó tổng biên tập tạp chí Văn Nghệ Quân Đội. Cô gái trẻ này từng đạt giải nhất cuộc thi viết truyện ngắn của tạp chí Văn nghệ quân đội năm 19981999. Nhiều truyện ngắn của chị đã được chuyển thể thành phim. Những tác phẩm của chị thường có đề tài về cuộc sống người dân miền núi: tập truyện ngắn Những buổi chiều ngang qua cuộc đời, tiểu thuyết Dưới bóng cây sồi, kịch bản Cô gái xinh đẹp. Tiếng đàn môi sau bờ rào đá là truyện ngắn đã được đạo diễn Ngô Quang Hải chuyển thể thành kịch bản phim Chuyện của Pao. Bộ phim này vừa qua đã đoạt giải Cánh diều vàng 2005 cho phim truyện nhựa xuất sắc nhất. Giống như Nguyễn Ngọc Tư, ngay từ đầu, Đỗ Bích Thúy đã buộc người ta phải nhớ tới chị qua một văn phong riêng đậm chất miền núi, tác giả Điệp Anh đã cảm nhận: “Thế mạnh của Đỗ Bích Thúy là đời sống người Tây Bắc với những không gian vừa quen vừa lạ, với những phong tục tập quán đặc thù, khiến người đọc luôn thấy tò mò và bị cuốn hút. Trong truyện của Đỗ Bích Thúy, không gian Tây Bắc hiện lên đậm nét, để lại dư vị khó quên trong lòng độc giả, dù người đọc vẫn chưa thể hết quyến luyến với những áng văn thơ dặt dìu tiếng sáo, tiếng khèn, la đà với rượu nồng bếp lửa của núi rừng Tây Bắc trong các sáng tác của các bậc tiền bối như Tô Hoài, Chế Lan Viên, Tố Hữu…” [Tr3, 49]. Cảm nhận đó còn thuyết phục hơn khi Trung Trung Đỉnh, một nhà văn chuyên viết về đề tài miền núi đã viết: “Đỗ Bích Thúy có khả năng viết truyện về cảnh sinh hoạt truyền thống của người miền cao một cách tài tình. Không truyện nào là không kể về cách sống, lối sinh hoạt, nết ăn ở và cả quang cảnh sinh hoạt lễ hội, phong tục tập quán. Truyện nào cũng hay cũng mới, cũng lạ mặc dù tác giả không hề cố ý đưa vào chi tiết lạ. Thế mà đọc đến đâu ta cũng sững sờ và bị chinh phục bở những chi tiết rất đặc sắc chỉ người miền cao mới có.[tr8,58] Cái lạ mà Trung Trung Đỉnh cảm nhận thấy cũng rất gần gũi với cảm giác về cái lạ mà nhà văn Chu Lai khi đọc văn Đỗ Bích Thúy. Trong bài Cái duyên và sức gợi của hai giọng văn trẻ, nhà nghiên cứu Chu Lai viết: “Đọc Thúy, người ta có cảm giác như được ăn một món ăn lạ, được sống trong một mảnh đất lạ mà ở đó tràn ngập những cái rất riêng đậm đặc chất dân gian của hương vị núi rừng, của con suối chảy ra từ khe đá lạnh, của mây trời đặc sánh “như một bầy trăn trắng đang quấn quyện vào nhau”, của mùi ngải đắng, mần tang, của những nét ăn, nét ở, phong tục tập quán còn giữ nguyên vẻ hoang sơ, thuần phác, của ánh trăng “giữa mùa cứ rọi vào nhà cả đêm, trăng đi một vòng cửa trước ra cửa sau”, của những trái tim con gái vật vã, cháy bùng theo tiếng khèn gọi tình dưới thung xa, của bếp lửa nhà sàn và tiếng mõ trâu gõ vào khuya khoắt, của những kiếp sống nhọc nhằn và con bìm bịp say thuốc, say rượu ngủ khì bên chân chủ…” [Tr102,65] Nhà phê bình Nguyễn Hoàng Linh Giang khi nghiên cứu tìm hiểu tiểu thuyết Bóng của cây sồi đã nhận thấy những nét đặc sắc trong văn phong của Đỗ Bích Thúy: Tính xã hội, tính nhân văn, lòng trắc ẩn và khao khát của nhà văn đã được gửi gắm vào từng trang viết. Nó đã được nói qua nhân vật, qua giọng kể không mới lạ nhưng đằm lắng và nhiều cảm xúc của Đỗ Bích Thúy. Hiện tại, quá khứ, chuyện mới, chuyện cũ đan xen, cài quấn nhau như dòng chảy của cuộc sống muôn đời nay tiếp nối, tiếp nối không dứt. Lối dẫn chuyện tự nhiên và không gò bó, cách miêu tả thiên nhiên và đời sống của miền đất cực bắc đất nước khá sinh động là ưu điểm nổi trội của tiểu thuyết này. Trong văn chương, Đỗ Bích Thúy cũng không quá ồn ào, những câu văn của chị như những dòng chảy ký ức, mãnh liệt và bản năng *Tóm lại: Chúng tôi nhận thấy có nhiều ý kiến phê bình, nghiên cứu về những đổi mới, những cách tân nghệ thuật trong tác phẩm truyện ngắn của các tác giả Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy. Những công trình nghiên cứu về các tác giả trên một mặt có nhiều quan điểm khác nhau, mặt khác đều chưa hoặc chỉ phần nào chạm tới những đổi mới nghệ thuật. Người viết chưa thấy công trình nào quan tâm nghiên cứu từng bước tìm tòi sáng tạo nghệ thuật truyện ngắn của các tác giả trên một cách đầy đủ và có hệ thống tính đến thời điểm hiện tại. Trên cơ sở những ý kiến đã có, chúng tôi muốn phân tích, bổ sung thêm một số vấn đề. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1. Tìm hiểu một số cách tân nghệ thuật của một số cây bút nữ thời kỳ đổi mới có thể đem lại cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc trước sự vận động, chuyển biến của một tư duy văn học mới về con người thời kỳ đổi mới. Với một số lượng nhà văn nữ đông đảo như hiện nay thì việc tìm hiểu những phong cách nghệ thuật của từng nhà văn để đi đến cái nhìn chung thống nhất về diện mạo của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới là một vấn đề khá phức tạp. Vì thế, trong phạm vi đề tài luận văn chúng tôi chỉ dừng lại tìm hiểu một số nhà văn nữ tiêu biểu đã tạo dấu ấn riêng trong truyện ngắn thời kỳ đổi mới cũng như đã giành được sự đón nhận nhiệt tình của công chúng độc giả, đặc biệt là nữ giới, đó là: Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thuý. Trên cơ sở đó, chúng tôi tiến hành khảo sát để có cái nhìn hệ thống hơn về quá trình sáng tác của các tác giả nữ trên xét trên phương diện thể loại vào đời sống văn học nước ta thời kỳ 1986-2006 qua đó sẽ chỉ ra được một số dấu hiệu cơ bản trong sự vận động của thể loại truyện ngắn. Chúng tôi cũng cố gắng thử kiến giải một số vấn đề về xu hướng vận động của thể loại truyện ngắn từ phương diện quan niệm nghệ thuật đến góc độ thi pháp thể loại. Chúng tôi không bỏ qua những truyện ngắn về người phụ nữ của các tác giả nam để có sự so sánh đánh giá toàn diện nhất về hình tượng người phụ nữ trong truyện ngắn thời kỳ đổi mới. Chúng tôi cũng quan tâm nhiều đến các bài nghiên cứu của các tác giả trong lĩnh vực lí luận văn học: lý luận về truyện ngắn, lý luận về hình tượng như Phan Cự Đệ, Phương Lựu, Bùi Việt Thắng…góp phần tạo dựng cơ sở khoa học cho vấn đề này. 3.2. Chọn đề tài Tìm hiểu một số cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn của một số cây bút nữ thời kỳ 1986-2006 ( Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thuý), chúng tôi tìm hiểu ở ba phương diện: - Những cách tân nghệ thuật trên phương diện kết cấu và tính huống truyện - Sự đổi mới trong cách xây dựng nhân vật - Sự đổi mới về nghệ thuật trần thuật ( Ngôn ngữ và giọng điệu) 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã phối hợp vận dụng các phương pháp sau: 4.1. Phương pháp hệ thống: Những cách tân nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, Đỗ Bích Thuý trên các phương diện: quan niệm nghệ thuật, cốt truyện, kết cấu, nhân vật, trần thuật…cần được nhìn nhận một cách hệ thống. Mỗi phương diện là một tiểu hệ thống riêng nằm trong hệ thống lớn là toàn bộ sáng tác của các tác giả nữ trên. Đồng thời, phải đặt sáng tác của các tác giả nữ ấy trong hệ thống chung của văn học Việt Nam để thấy vị trí và đóng góp riêng của các tác giả trong tiến trình đổi mới, hiện đại hoá văn học nước nhà. 4.2. Phương pháp so sánh: Chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu để thấy được sự đổi mới nghệ thuật qua từng chặng đường truyện ngắn của các tác giả Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thuý. Đồng thời, chúng tôi tiến hành so sanh tác phẩm của các tác giả nữ đó với nhau và với các nhà văn khác trong cùng thời kỳ để ghi nhận đóng góp của họ cho sự phát triển của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. 4.3. Phương pháp phân tích tổng hợp, khái quát Phân tích tổng hợp là phương pháp quan trọng.Thông qua đó, ta thấy được sự cảm nhận riêng của từng nhà văn về con người và cuộc sống. Bên cạnh đó, mọi biểu hiện sinh động trong sáng tác cần được soi chiếu bằng nhiều góc nhìn dưới con mắt phân tích. Từ đó chúng tôi tổng hợp khái quát các kết quả phân tích để đi đến kết luận minh chứng cho những luận điểm mà luận văn đưa ra. 5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu và phần kết luận và phần thư mục tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm ba chương như sau: Chương 1: Những đổi mới về cốt truyện và kết cấu Chương 2: Những đổi mới trên phương diện nhân vật Chương 3:Những cách tân trên phương diện ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: NHỮNG ĐỔI MỚI VỀ CỐT TRUYỆN VÀ KẾT CẤU 1.1. Cốt truyện và sự mở rộng dung lượng hiện thực Nếu tác phẩm trữ tình phản ánh hiện thực trong sự cảm nhận chủ quan về nó, thì tác phẩm tự sự lại tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan của nó. Tác phẩm tự sự phản ánh hiện thực qua bức tranh mở rộng của đời sống trong không gian, thời gian, qua các sự kiện, biến cố xảy ra trong cuộc đời con người”[Tr385,13]. Phương thức phản ánh hiện thực qua các sự kiện, biến cố và hành vi con người làm cho tác phẩm tự sự trở thành một câu chuyện về ai đó hay về một cái gì đó. Cho nên, tác phẩm tự sự bao giờ cũng có cốt truyện. Điểm khác biệt cơ bản giữa tác phẩm tự sự và tác phẩm trữ tình chính là yếu tố cốt truyện. Vì vậy, ta có thể khẳng định cốt truyện trong tác phẩm tự sự chiếm một vị trí vô cùng quan trọng góp phần hình thành nên đặc trưng của thể lọai. Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì “cốt truyện là hệ thống các sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch [13]. Có thể tìm thấy qua một cốt truyện hai phương diện gắn bó hữu cơ. Một mặt, cốt truyện là một phương diện bộc lộ nhân vật, nhờ cốt truyện, nhà văn thể hiện sự tác động qua lại giữa các tính cách nhân vật, mặt khác, cốt truyện còn là phương tiện để nhà văn tái hiện các xung đột xã hội. Cốt truyện vừa góp phần bộc lộ có hiệu quả đặc điểm mỗi tính cách, tổ chức tốt hệ thống tính cách, lại vừa trình bày một hệ thống sự kiện phản ánh chân thực xung đột xã hội, có sức mạnh hấp dẫn và lôi cuốn người đọc. Cốt truyện là một hiện tượng phức tạp. Trong thực tế văn học, cốt truyện các tác phẩm hết sức đa dạng, kết tinh truyền thống dân tộc, phản ánh những thành tựu văn học của mỗi thời kỳ lịch sử, thể hiện phong cách, tài năng nghệ thuật của nhà văn [Tr100. 13]. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân lại đưa ra quan niệm khác về cốt truyện: “Cốt truyện là một phương diện của lĩnh vực hình thức nghệ thuật, nó chỉ lớp biến cố của hình thức tác phẩm. Chính hệ thống biến cố tạo ra sự vận động của nội dung cuộc sống được miêu tả trong tác phẩm. Cốt truyện là một phẩm chất có giá trị quan trọng của văn học, sân khấu, điện ảnh và các nghệ thuật cùng loại. Trong các thể loại văn học, các cốt truyện là thành phần quan trọng thiết yếu của tự sự và kịch, nhưng thường không có mặt trong các tác phẩm trữ tình” [Tr 114, 5] Dẫn luận nghiên cứu văn học do G.N. Pôpêlốp chủ biên nêu khái quát về cốt truyện: “Các tác phẩm tự sự và kịch, miêu tả các sự kiện, hành động trong đời sống nhân vật diễn ra trong không gian và thời gian. Phương diện này của sáng tác nghệ thuật được gọi bằng thuật ngữ cốt truyện.[Tr 229,25] Vậy ta có thể đi đến kết luận về cốt truyện: Cốt truyện là một hệ thống các sự kiện, biến cố phản ánh những diễn biến của cuộc sống một cách nghệ thuật làm cho tính cách của nhân vật hình thành và phát triển. Đồng thời, cốt truyện còn là phương tiện để nhà văn tái hiện các xung đột xã hội nhằm làm sáng tỏ chủ đề - tư tưởng của tác phẩm, qua đó thể hiện phong cách tài năng nghệ thuật của nhà văn. Cốt truyện là thành phần quan trọng thiết yếu của tự sự và kịch. Nó thường trải qua một tiến trình có vận động, hình thành, phát triển và kết thúc. Tuy vậy, ở những cốt truyện cụ thể không phải bao giờ cũng có đầy đủ các thành phần đã nêu. Và để một cốt truyện hay, hấp dẫn phụ thuộc rất nhiều vào hiện thực cuộc sống với những quy luật phát triển tất yếu của nó và phụ thuộc vào năng lực, phẩm chất sáng tạo, đặc biệt là ý đồ tư tưởng của tác giả. Bởi vậy, mỗi nhà văn trên con đường sáng tạo nghệ thuật đều phải nỗ lực tìm tòi những cốt truyện phù hợp để biểu hiện tư tưởng một cách sâu sắc. Tìm hiểu về cốt truyện chính là một góc độ để nắm bắt chủ đề tư tưởng, cũng như giá trị thẩm mỹ của tác phẩm, đồng thời cho ta thấy được tài năng và sự sáng tạo không ngừng nghỉ của người nghệ sỹ. Tác phẩm tự sự phản ánh đời sống qua việc lựa chọn, trình bày hệ thống những sự kiện, chi tiết, tình tiết khác nhau. Nghĩ về truyện ngắn, Nguyễn Minh Châu hình dung “Truyện ngắn như mặt cắt giữa một thân cây cổ thụ: chỉ liếc qua những đường vân trên cái khoanh gỗ tròn tròn kia, dù sau trăm năm vẫn thấy cả cuộc đời của thảo mộc [Tr332, 9]. Hay nói một cách cụ thể hơn: “Khác với tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong sự đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường hướng tới việc khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh, trong đời sống tâm hồn con người”[Tr31, 18]. Do vậy, hướng tiếp cận và cách thức lựa chọn, xây dựng cốt truyện của truyện ngắn cũng có những đặc trưng riêng. Được quan niệm “là một hệ thống các sự kiện phản ánh những diễn biến của cuộc sống và nhất là các xung đột xã hội một cách nghệ thuật, qua đó các tính cách hình thành và phát triển trong những mối quan hệ qua lại của chúng nhằm làm sáng tỏ chủ đề tư tưởng của tác phẩm[33], cốt truyện truyện ngắn có nhiều biểu hiện đa dạng và phong phú thể hiện những chức năng, giá trị khác nhau trong từng giai đoạn phát triển cụ thể của thể loại. Nguyễn Minh Châu đã nhấn mạnh vai trò của cốt truyện: “Trong những truyện ngắn hay, bao giờ người viết cũng biết lợi dụng cốt truyện để tạo độ căng” [Tr 230, 34]. Nhà văn Ma Văn Kháng khi viết truyện ngắn có nhận xét: “Với tôi, theo một thói quen đã trở thành thông lệ, trước hết hiển nhiên là phải có được một cốt truyện”.. Gớt cũng đã đề cao vai trò của cốt truyện trong sáng tạo truyện ngắn: “Đúng vậy, còn gì quan trọng hơn cốt truyện và nếu thiếu nó cả nền lí luận nghệ thuật sẽ còn ra gì nữa? Nếu cốt truyện không dùng được thì tài năng cũng sẽ lãng phí vô ích. Và chính vì nghệ sỹ hiện nay không có những cốt truyện xứng đáng nên tình hình nghệ thuật hiện đại mới bi đát như thế. Để tạo nên sức sống bền lâu cho thể loại, nhà văn phải luôn có ý thức cách tân và sáng tạo trong lao động nghệ thuật, công việc đó, “xét đến cùng là sự cải tạo các phương thức tổ chức nghệ thuật của tác phẩm, phản ánh những thay đổi trong phạm vi và tính chất của mối quan hệ con người – thực tại[6]. Hơn nữa, trong văn học thời kỳ đổi mới, cả nhà văn và độc giả đều có nhu cầu cao hơn trong sáng tạo và cảm thụ nghệ thuật, muốn nhận thức, khám phá cuộc sống “ở bề chưa thấy, ở cái bề sâu, ở cái bề sau, ở cái bề xa (Chế Lan Viên). Cho nên, với vai trò là “Phương tiện bộc lộ tính cách” đa dạng và “Phương tiện để nhà văn thể hiện các xung đột xã hội” ngày càng trở nên phức tạp và biến hóa hơn, truyện ngắn giai đoạn này thực sự lên ngôi khi tạo ra nhiều cốt truyện hay, độc đáo và có khả năng chuyển tải nhiều nội dung xã hội sâu sắc. Vì thế, giá trị chủ yếu của cốt truyện không đơn thuần ở chỗ có hay không có cốt truyện mà ở chiều sâu nội dung tư tưởng mà nó dung chứa được. Cốt truyện do vậy không chỉ là tổng hợp giản đơn các chi tiết, biến cố mà được tổ chức một cách hệ thống những sự kiện, tình huống đa dạng, hàm chứa sự dồn nén tích tụ nhiều trạng thái của đời sống. Cốt truyện theo xu hướng hiện nay không chỉ thực hiện chức năng phản ánh, tái hiện đời sống, xây dựng tính cách nhân vật mà còn là sự khám phá, lí giải sâu sắc hiện thực xã hội và những số phận cá nhân. Điều đó cho thấy “ Truyện ngắn thời kỳ này đã mở ra nhiều hướng tìm tòi cả trong tiếp nhận hiện thực lẫn thi pháp thể loại” [Tr57, 36]. Thực chất của việc tạo nên nhiều cốt truyện hay, có chiều sâu là cách thức tạo nên hiệu quả nghệ thuật cao trong một hình thức nhỏ, là “Khả năng ôm trùm bao quát hiện thực, là sức chứa chất liệu đời sống” hay khả năng của nội dung phản ánh hiện thực[34]. Vấn đề của một số truyện ngắn hiện nay là vấn đề dung lượng hiện thực và khả năng phản ánh cuộc sống. Xu hướng “Tiểu thuyết hóa” thể loại truyện ngắn được nhà văn Nguyên Ngọc đánh giá xác đáng “Dung lượng truyện ngắn ngày nay rất lớn, trong độ ba trang mấy nghìn chữ mà rõ một cuộc đời, một kiếp người, một thời đại. Các truyện ngắn bây giờ rất nặng. Dung lượng của nó là dung lượng của cả cuốn tiểu thuyết [34].Cho nên, “Hầu hết mỗi truyện ngắn là cả một cuộc đời, một số phận thậm chí một thời đại’ [34]. Sự thâm nhập mạnh mẽ của tư duy tiểu thuyết tạo cho truyện ngắn giai đoạn này “Một sức chứa lớn hơn nhiều so với bản thân chúng và mở rộng khả năng thể loại đến độ ngạc nhiên [Tr4,4]. Trước năm 1975, cốt truyện ít nhiều chịu “áp lực của sử thi”. Truyện ngắn chú ý tạo dựng những cốt truyện chặt chẽ với tình huống gay cấn, căng thẳng. Âm hưởng chủ đạo là ngợi ca, khẳng định. Truyện ngắn giai đoạn này cũng đã hướng tới cốt truyện tâm lý, phản ánh vẻ đẹp nội tâm của con người nhưng chưa có nhiều trang thể hiện sâu sắc diễn biến tâm lý và cái tôi nội cảm của nhân vật. Sau 1975, nhất là trong những năm gần đây, thực tiễn văn học đã chứng minh cái tạo nên sức hấp dẫ lôi cuốn của truyện ngắn không chỉ là “những cốt truyện rạch ròi, những sự kiện trọng đại, những tình huống căng thẳng, những xung đột bên ngoài, mà còn là những cảnh ngộ đời thường, những tính cách nhân vật giàu tâm trạng và nhận thức cá nhân với cuộc đời và những người sống bên mình”[73]. Cốt truyện đã vận động đổi thay trong sự phát triển của thể loại. Xuất hiện những cốt truyện đầy kịch tính, những cốt truyện giàu tâm trạng, cốt truyện có đầu có cuối, cốt truyện “vô hậu”, phi kết cấu, có cốt truyện phản ánh hiện thực đương đại, có cốt truyện ảo, cổ tích. Với khả năng biến hóa linh hoạt trong cách xây dựng cốt truyện, truyện ngắn là thể loại thuận lợi để biểu đạt một cách tự nhiên, cụ thể những nỗi niềm, những tâm sự thầm kín, đầy bí ẩn của con người. Truyện ngắn phát triển đa dạng cùng với sự nổi trội hình thức như truyện ngắn kỳ ảo, giả lịch sử, nhại cổ tích, truyện ngắn dòng ý thức. Truyện ngắn kỳ ảo là đi sâu khám phá thế giới tinh thần hết sức trừu tượng khó nắm bắt của con người để từ đó thấu hiểu con người ở phần nhân tính mơ hồ huyền diệu ấy. Truyện ngắn giả lịch sử là dùng chất liệu lịch sử làm cái vỏ nghệ thuật để truyền những thông điệp về hiện tại. Truyện ngắn dòng ý thức (tâm trạng) với đặc điểm phi cốt truyện: Truyện ngắn không kể lại được bởi không có cốt truyện tiêu biểu, nếu có là cốt truyện bên trong, cốt truyện tâm lý phản ánh trạng thái tâm lý điển hình của nhân vật. Bằng cách diễn đạt khác với những phương thức thể hiện đa dạng vừa truyền thống vừa hiện đại, truyện ngắn trong một thời gian không dài đã làm được nhiều vấn đề mà tiểu thuyết chưa kịp làm. Truyện ngắn đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong xây dựng cốt truyện, trong cách nhìn nghệ thuật về con người và trong sáng tạo ngôn từ. Tiểu thuyết là cái nhìn tập trung xoáy sâu vào những vấn đề của con người cá nhân cũng như mối quan hệ của cá nhân và xã hội trên hành trình tìm kiếm và khẳng định những giá trị nhân bản, nhà văn chú ý vào số phận, tính cách của nhân vật mà soi chiếu lại lịch sử xã hội để khơi gợi những vấn đề triết lý nhân sinh. Trái lại, trong truyện ngắn, nhà văn chú trọng vào việc xây dựng tình huống truyện: “Quan trọng nhất của truyện ngắn là tạo ra một tình huống nào đó từ tình huống nổi bật của tính cách nhân vật” (Nguyễn Đăng Mạnh). Nhà văn Nguyễn Kiên tâm đắc: “Điều quan trọng đối với truyện ngắn là phải lựa chọn cho được cái
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan