Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh nam định...

Tài liệu Thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh nam định

.PDF
83
52
88

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC TRONG HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ…… ................................ 6 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự. .6 1.2. Một số thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự……............................ 11 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự ................................................................................................................ 34 Kết luận chương 1 ........................................................................................... ..39 Chương 2: THỰC TRẠNG THỦ TỤC TRONG HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ QUA THỰC TIỄN TẠI TỈNH NAM ĐỊNH .......................... 41 2.1. Thực trạng pháp luật về thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự......... 41 2.2. Thực trạng thực hiện thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự qua thực tiễn tại tỉnh Nam Định ....................................................................................... 53 2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập thực hiện thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự............................................................................................. .61 Kết luận chương 2 ............................................................................................ .66 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỦ TỤC TRONG HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ...................................... 67 3.1. Quan điểm về hoàn thiện thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự ...... 67 3.2. Giải pháp hoàn thiện thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự ............ .70 Kết luận chương 3 ............................................................................................ .75 KẾT LUẬN………… ..................................................................................... .77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... ...79 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BA, QĐ : Bản án, quyết định BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự CHV : Chấp hành viên CQTHADS : Cơ quan thi hành án dân sự LTHADS : Luật thi hành án dân sự NHNN : Ngân hàng nhà nước PLTHADS : Pháp lệnh thi hành án dân sự TAND : Tòa án nhân dân TCTD : Tổ chức tín dụng THA : Thi hành án THADS : Thi hành án dân sự UBND : Ủy ban nhân dân VKSND : Viện kiểm sát nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thi hành án dân sự có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án nói riêng và trong hoạt động tư pháp nói chung. Bản án, quyết định của Tòa án sẽ chỉ là phán quyết trên giấy, nếu nó không được thực thi trên thực tế. Hoạt động THA nói chung và THADS nói riêng có hiệu quả sẽ góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Trong những năm qua, công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Nam Định đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận; nhiều vụ việc phức tạp, tồn đọng lâu năm đã được tổ chức thi hành dứt điểm; một số án lớn, tính chất phức tạp, ảnh hưởng lớn về kinh tế, trật tự an toàn xã hội cũng đã được chính quyền các cấp quan tâm chỉ đạo. Kết quả đạt được nói trên phản ánh sự cố gắng, nỗ lực của đội ngũ cán bộ thi hành án dân sự nói riêng, sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương; sự phối hợp chặt chẽ của các ngành hữu quan trong việc thực hiện pháp luật thi hành án dân sự. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, cũng như nhiều huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh, thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án dân sự ở tỉnh Nam Định vẫn còn nhiều bức xúc, bộc lộ nhiều tồn tại, yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Lượng án tồn đọng qua các năm vẫn còn nhiều. Nhiều bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa được tổ chức thi hành. Tình trạng trên có nhiều nguyên nhân khác như: Pháp luật thi hành án dân sự hiện hành còn thiếu tính khả thi, nhiều điểm còn chưa rõ ràng, bất cập, quy định của pháp luật không còn phù hợp với thực tiễn, tạo ra trở lực cho quá trình thi hành án và chưa thực sự bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự 2008 đã có hiệu lực thi hành 01/7/2015, có nhiều điểm mới về thủ tục thi hành án dân sự. 1 Chính vì lẽ đó mà tác giả lựa chọn đề tài “Thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Nam Định” để nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trước khi Luật thi hành án dân sự năm 2008, THADS đã được quan tâm nghiên cứu trong các công trình như Luận văn Thạc sĩ “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Thanh Thủy năm 2001; Luận văn Thạc sĩ “ Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam” của tác giả Lê Anh Tuấn năm 2004… Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, “Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật Thi hành án dân sự” của Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2004, Công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ, “Bình luận PLTHADS năm 2004” của Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp năm 2006… và rất nhiều công trình nghiên cứu khác. Từ khi Luật thi hành án dân sự năm 2008 có hiệu lực pháp luật đến nay, việc nghiên cứu về THADS đã được quan tâm đáng kể hơn nữa. Năm 2011 có Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường về “Những điểm mới của Luật THADS năm 2008” của Trường đại học Luật Hà Nội do Tiến sỹ Bùi Thị Huyền làm chủ nhiệm. Ngoài ra trên sách báo pháp lý, các diễn đàn pháp luật từ năm 2009 đến nay cũng có rất nhiều bài nghiên cứu, trao đổi về THADS, trong đó có thủ tục thi hành án dân sự. Cũng có thể kể đến những nghiên cứu khác như cuốn sách tham khảo “Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật THADS Việt Nam” – tác giả Tiến sỹ Lê Thu Hà – học viện Tư pháp viết, xuất bản năm 2011, hay các bài viết trên tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề về thi hành án dân sự các tháng 2/2012, tháng 4/2012, tháng 12/2012, tháng 03/2014; số chuyên đề tháng 6/2012 về thi THADS tồn đọng; số chuyên đề tháng 12/2013 về thực hiện Luật Thi hành án dân sự…và rất nhiều các bài viết khác trong các sách báo, tạp chí nghiên cứu về thủ tục thi hành án dân sự như Tạp chí nghề luật của Học viện Tư pháp, Tạp chí nghiên cứu lập pháp… 2 Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp, Bộ Tư pháp đã ban hành dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự 2008. Luật đã được Quốc hội thảo luận, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 7 (tháng 5/2014) và được biểu quyết thông qua và kỳ họp thứ 8 ngày 25/11/2014 và có hiệu lực thi hành từ 01/7/2015. Trên cơ sở các nghiên cứu trước đó, luận văn của tác giả sẽ tiếp thu những vấn đề cần thiết đưa vào nội dung nghiên cứu và nghiên cứu sâu hơn về thủ tục thi hành án dân sự, với việc đưa khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và đặc biệt là phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng thủ tục thi hành án dân sự tại tỉnh Nam Định từ khi Luật thi hành án dân sự năm 2008 ra đời cho đến nay, chỉ ra những bất cập, đề xuất những đóng góp cho quá trình sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Dựa trên kết quả nghiên cứu, mục đích của Luận văn là phân tích, đánh giá một số thủ tục thi hành án dân sự, nêu ra những hạn chế, bất cập và đề xuất quan điểm hoàn thiện pháp luật về thủ tục thi hành án dân sự: - Phân tích được những vấn đề lý luận và thực tiễn của thủ tục THADS. - Đánh giá thực trạng, hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự tỉnh Nam Định. - Đưa ra các quan điểm cá nhân đánh giá Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự năm 2014 cũng như đề xuất các giải pháp có tính khả thi cao nhằm bảo đảm việc thực thi pháp luật thi hành án, nâng cao hiệu quả công tác THADS. - Đưa ra các quan điểm cá nhân về việc sửa đổi, bổ sung pháp luật về thủ tục thi hành án dân sự, góp ý về một số vấn đề liên quan đến thủ tục thi hành án dân sự trong Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014; cũng như đề xuất các giải pháp có tính khả thi cao nhằm bảo đảm thực thi pháp luật thi hành án dân sự, nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự. 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Những vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự, pháp luật về thi hành án dân sự thực tiễn áp dụng thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh Nam Định hiện nay và các giải pháp hoàn thiện pháp luật. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Thủ tục thi hành án bao gồm rất nhiều thủ tục khác nhau, cho nên phạm vi của đề tài rất rộng, với phạm vi của một luận văn thạc sỹ, tác giả không đi sâu vào tìm hiểu hết tất cả các thủ tục thi hành án dân sự mà chỉ đi sâu vào một số thủ tục cụ thể, nổi bật theo Luật thi hành án dân sự năm 2008 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014 đó là các thủ tục: Thủ tục ra quyết định thi hành án theo đơn và thủ tục thi hành án chủ động của cơ quan thi hành án dân sự; thủ tục xác minh thi hành án; thủ tục ủy thác thi hành án. Về phạm vi địa giới: tỉnh Nam Định. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Các phương pháp cụ thể được sử dụng kết hợp đó là: Phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp so sách, phương pháp thống kê tổng hợp. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ phương diện lý luận, làm cơ sở cho việc tiếp tục hoàn thiện thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự. Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn để giúp cho cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong việc triển khai và thực hiện có hiệu quả thủ tục thi hành án dân sự. Ngoài ra, những kiến thức khoa học trong luận văn sẽ có giá trị làm tài liệu tham khảo cho cán bộ, chấp hành viên tỉnh Nam Định vận dụng trong thực tiễn. 4 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1- Những vấn đề lý luận và pháp luật về thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự Chương 2- Thực trạng thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự qua thực tiễn tại tỉnh Nam Định. Chương 3- Quan điểm, giải pháp hoàn thiện thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Nam Định. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC TRONG HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự Thủ tục thi hành án dân sự là phương thức, cách thức giải quyết công việc theo một trình tự nhất định, một thể lệ thống nhất, gồm một loạt nhiệm vụ liên quan chặt chẽ với nhau nhằm thi hành các BA, QĐ về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định về hình sự, hành chính và quyết định khác do cơ quan, tổ chức THADS thực hiện theo quy định pháp luật. “Thủ tục” xét về mặt ngôn ngữ có nghĩa là “những việc cụ thể phải làm theo một trình tự đã được quy định, để tiến hành một công việc có tính chất chính thức” [14, tr.905]. Trình tự là “sự sắp xếp thứ tự trước sau” [14, tr.934]. “Thi hành án” Trong khoa học pháp lý được hiểu là việc đưa các BA, QĐ của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế. Bản án, Quyết định của Tòa án là văn bản pháp lý của Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên tại phiên tòa, giải quyết về các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính… Có thể nói, THA được coi là một trong những hoạt động quan trọng của Nhà nước. Bởi lẽ, thi hành án một mặt bảo đảm việc thực hiện quyền lực của Nhà nước, mặt khác lại là công cụ hữu hiệu để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi bị xâm hại. Trong các công trình nghiên cứu khoa học về thi hành án, có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm THA: Có quan điểm xem thi hành án là một giai đoạn tố tụng, đây là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử không thể thiếu trong quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự. Quan điểm cho rằng thi hành án là giai đoạn kết thúc của tố tụng mà 6 trong đó cơ quan thi hành án đưa các Bản án, Quyết định đã có hiệu lực thi hành ra thi hành nhằm bảo vệ quyền lợi của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Có quan điểm lại cho rằng thi hành án là một hoạt động mang tính chấp hành và điều hành Quyết định của Tòa án – cơ quan tư pháp – mang tính chất của hoạt động quản lý hành chính – tư pháp. Hoạt động thi hành án là hoạt động đặc thù mà chủ thể thực thi không phải là Tòa án. Các thủ tục trong quá trình thi hành án mang tính hành chính – tư pháp hơn (đặc biệt là trong thi hành án kinh tế, tuyên bố phá sản doanh nghiệp, lao động và một phần của thi hành án hình sự đối với loại hình phạt không phải hình phạt tù…). Quan điểm của tác giả đồng nhất với quan điểm cho rằng:“Thi hành án là thủ tục tố tụng tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành để thi hành Bản án, Quyết định của Tòa án hoặc Quyết định của cơ quan Nhà nước, tổ chức khác do pháp luật quy định, nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cả các cơ quan, tổ chức và cá nhân.” [25, tr.14]. Thi hành án bao gồm thi hành án hình sự và thi hành án dân sự. Trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn về thủ tục thi hành án dân sự, các quan điểm trên về thi hành án đều có những điểm hợp lý, song dù theo quan điểm nào thì thủ tục thi hành án dân sự có đặc điểm sau: Thi hành án dân sự là cách thức, trình tự tổ chức thi hành BA, QĐ dân sự có hiệu lực thi hành được pháp luật quy định, bao gồm nhiều thủ tục khác nhau. Thủ tục thi hành án dân sự do pháp luật quy định, quá trình THADS thực hiện thông qua nhiều thủ tục và theo một trình tự nhất định. Thủ tục thi hành án dân sự bao gồm nhiều bước để đưa một Bản án, Quyết định của Tòa án ra thi hành. Đầu tiên là thủ tục cấp Bản án, Quyết định của Tòa án cho đương sự và chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự để thi hành; tiếp theo đến thủ tục yêu cầu thi hành án của đương sự, nộp đơn yêu cầu thi hành án, thủ tục nhận hoặc từ chối nhận đơn của cơ quan thi hành án dân sự; thủ tục ra Quyết định 7 thi hành án của thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, trong quá trình thi hành án có thể phát sinh các thủ tục như xác minh… cho đến chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án, nộp phí thi hành án…rồi cuối cùng kết thúc thi hành án. Trong quá trình thi hành án dân sự, ở mỗi giai đoạn thực hiện từng thủ tục là khác nhau và các thủ tục này liên kết toàn bộ quá trình thi hành án dân sự. Thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự là thủ tục nhằm thi hành phán quyết của các cơ quan như Tòa án, Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Thi hành án dân sự gắn liền với hoạt động xét xử, xét xử chính là tiền đề của THADS. Hoạt động thi hành án được tiến hành dựa trên nội dung bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Nói cách khác, căn cứ pháp lý để thi hành án là bản án, quyết định của các cơ quan nói trên đã có hiệu lực pháp luật. Ngược lại, THADS tiếp nối với xét xử làm bản án, quyết định được thực hiện trên thực tế. Sau khi có bản án, quyết định của tòa án, trọng tài, hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh trên cơ sở của bản án, quyết định do tòa án và các cơ quan này chuyển giao hoặc đơn yêu cầu THA của đương sự, cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành và thụ lý, tổ chức việc thực hiện thi hành án. Tuy nhiên THA lại có tính độc lập tương đối thể hiện ở chỗ hoạt động này được bắt đầu bằng quyết định của Thủ trưởng cơ quan THADS đối với THADS. Những quyết định này mang tính bắt buộc chấp hành đối với tất cả các chủ thể có trách nhiệm và nghĩa vụ liên quan đến việc THA. Các cơ quan, tổ chức, công dân trong phạm vi trách nhiệm của mình có nghĩa vụ chấp hành và phối hợp thực hiện để thi hành án đạt hiệu quả. Nhằm bảo đảm hiệu lực thi hành của các bản án, quyết định của các cơ quan Tòa án, Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, hiện nay nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan này được quy định tại các Điều từ Điều 465 đến 467 Bộ luật TTDS năm 2015, Điều 66 và 67 Luật trọng tài thương mại, từ Điều 134 đến Điều 135 Nghị định số 8 116/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật cạnh tranh và các Điều 26, 27, 28, 48, 49 và 179 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014. Thi hành án dân sự ở Việt Nam giao cho cơ quan thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp thực hiện. Mặc dù có sự lệ thuộc và chịu sự chi phối vào giai đoạn xét xử, nhưng THA cũng mang tính độc lập. Ở giai đoạn THA, tính chất tố tụng đã chấm dứt, bởi vì khi Bản án, Quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì có nghĩa là chức năng xét xử đã hoàn thành, có tội hay vô tội, đúng hay sai đã được phân xử rõ ràng. Để đảm bảo hiệu quả của THADS thì cơ quan THADS và chấp hành viên phải thực hiện thủ tục THA một cách độc lập và không cá nhân, cơ quan, tổ chức nào được can thiệp trái pháp luật vào quá trình thi hành án dân sự. Cơ quan, tổ chức THA phải tuân thủ đúng thủ tục THA trong quá trình tổ chức việc THA. Cơ sở của hoạt động THA là các Bản án, quyết định có hiệu lực thi hành; bản án, quyết định do các cơ quan như Tòa án, Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh sau khi được tuyên sẽ được cơ quan THADS thi hành. Ở Việt Nam, ngoài cơ quan THADS của Nhà nước còn có tổ chức Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại TP Hồ Chí Minh và hiện nay được nhân rộng ra phạm vi các nước theo Nghị định số 107 ngày 26/11/2015, thì một số thủ tục THADS do Văn phòng thừa phát lại thực hiện như: Thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu của Tòa án hoặc cơ quan THADS; xác minh điều kiện THA theo yêu cầu của đương sự; trực tiếp tổ chức THA các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự. Thừa phát lại không tổ chức THA các Bản án, quyết định thuộc diện Thủ trưởng cơ quan THADS chủ động ra quyết định THA. Tòa án có trách nhiệm gửi bản án, quyết định tới cơ quan THADS và Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm. Thủ tục THA do cơ quan THADS thực hiện từ việc ra quyết định thi hành án, hoãn, tạm đình chỉ THA, việc cưỡng chế THA, …cho đến khi kết thúc THA. Cơ quan THA là cơ 9 quan chuyên trách để thực thi các Bản án, quyết định có hiệu lực thi hành trên thực tế. Việc ra quyết định THA để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của đương sự do Thủ trưởng cơ quan THADS đảm nhiệm. Trước đây, pháp lệnh THADS 1989 việc ra quyết định THA còn do Chánh án Tòa án sơ thẩm xét xử vụ án, điều này dẫn đến việc chồng chéo và gánh nặng cho Tòa án, từ pháp lệnh năm 1993, pháp lệnh THADS 2004 và Luật THADS năm 2008 hiện nay, việc THA chỉ do cơ quan chuyên trách thi hành án thực hiện, đảm bảo tính công bằng, khách quan. Ý nghĩa của việc xây dựng thủ tục thi hành án dân sự. Thứ nhất, thủ tục THADS là cơ sở pháp lý đảm bảo thi hành BA, QĐ có hiệu lực thi hành và thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật. Kết quả của quá trình xét xử là giải quyết các tranh chấp và đưa ra các BA, QĐ có hiệu lực thi hành. Nhưng những bản án, quyết định đó, nếu không được đưa ra thi hành thì chỉ là phán quyết trên giấy tờ, không có giá trị pháp lý ràng buộc các bên trong quan hệ THADS, không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các đơn sự. Cho nên pháp luật quy định về thủ tục THADS là cần thiết và đảm bảo cho việc thực thi các bản án, quyết định trên thực tế, thể hiện sự tôn trọng các phán quyết của tòa án, sự nghiêm minh của pháp luật. Vì nếu không thực thi các phán quyết trên thực tế thì quá trình xét xử, giải quyết của Tòa án, Trọng tài cũng như Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh là vô nghĩa. Thứ hai, thủ tục thi hành án còn là cơ sở bảo đảm cho hoạt động THA được tuân thủ đúng pháp luật. Thủ tục thi hành án dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm việc thi hành án của chấp hành viên, cán bộ cơ quan thi hành án dân sự theo đúng pháp luật, hạn chế tình trạng lạm quyền để thi hành những bản án, quyết định không thuộc thẩm quyền thi hành của mình, đồng thời ngăn chặn việc cơ quan thi hành án dân sự từ chối, đùn đẩy trách nhiệm thi hành bản án những bản án, quyết định mà cơ quan mình có trách nhiệm phải thi hánh án. Bên 10 cạnh đó, việc luật hóa các thủ tục thi hành án trong pháp luật THADS còn là cơ sở pháp lý cho chấp hành viên, cán bộ cơ quan thi hành án căn cứ vào đó để thực hiện, bảo vệ quá trình thi hành án, bảo vệ quan điểm cũng như uy tín, danh dự của chính mình. Nếu làm được như vậy mới tạo được niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào pháp luật, vào nhà nước. Thứ ba, thủ tục THADS cơ sở bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Việc thực hiện THA đúng thủ tục do pháp luật quy định, đảm bảo bản án, quyết định có hiệu lực thi hành theo thủ tục THADS kịp thời thì lợi ích của cá nhân và tổ chức sẽ được bảo vệ, kỉ cương phép nước được tôn trọng, trật tự xã hội được củng cố. Thủ tục thi hành án dân sự không được quy định hoặc quy định không rõ ràng, thiếu khoa học sẽ không có căn cứ pháp lí hoặc dẫn đến áp dụng pháp luật không đúng, không đầy đủ, làm phức tạp quá trình thi hành án, gây tốn kém kinh phí, không đáp ứng kịp thời hoặc không bảo đảm được lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. 1.2. Một số thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự 1.2.1. Thủ tục thi hành án dân sự theo đơn yêu cầu Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã đưa ra các quy định về thi hành án dân sự theo đơn yêu cầu chuyển lên trước quy định về thi hành án dân sự chủ động nhằm thể hiện rõ sự tôn trọng và đảm bảo quyền con người, quyền cơ bản của công dân theo Hiến pháp năm 2013. Với thủ tục này, thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự sẽ ra Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu của đương sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân người được thi hành án. Quy định này xuất phát từ việc người được thi hành án muốn buộc người phải thi hành án thi hành cho mình hoặc người phải thi hành án muốn được tự nguyện thi hành nghĩa vụ thông qua cơ quan thi hành án dân sự thì phải yêu cầu thi hành án. Theo đó, khi đã có Bản án, Quyết định thì người được hưởng quyền và lợi ích theo Bản án, Quyết định hoàn toàn có 11 thể quyết định có làm đơn yêu cầu thi hành án hay không, yêu cầu thi hành án vào thời điểm nào, yêu cầu thi hành những gì, đã có những thỏa thuận gì với bên phải thi hành án,… Cho nên pháp luật giành quyền quyết định cho người được thi hành án thể hiện ý chí của mình bằng việc yêu cầu thi hành án. Ngoài ra, để khuyến khích tính tự giác chấp hành nghĩa vụ trong Bản án, Quyết định của người phải thi hành án, nhằm bảo đảm quyền lợi của họ, không chỉ người được thi hành án mà cả người phải thi hành án cũng có quyền làm đơn yêu cầu thi hành án.Trong thi hành án theo yêu cầu, thủ tục bao gồm: Thủ tục nhận đơn yêu cầu thì hành án dân sự Khi nhận đơn yêu cầu thi hành án của đương sự, cơ quan thi hành án dân sự phải kiểm tra nội dung của đơn và các tài liệu kèm theo. Quy định tại khoản 1 Điều 31 Luật Thi hành án dân sự 2008 về đơn yêu cầu thi hành án phải có “thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án”, và nếu đơn yêu cầu thi hành án không có đầy đủ các nội dung quy định và người được thi hành án không yêu cầu xác minh thì cơ quan thi hành án dân sự thực hiện theo khoản 2 Điều 4 Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ “thông báo để đương sự bổ sung nội dung đơn yêu cầu thi hành án trước khi ra quyết định thi hành án”. Khoản 2 Điều 4 Nghị định 125/2013/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 58/2009/NĐ-CP còn bổ sung thêm quy định: “trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, nếu người được thi hành án không bổ sung hoặc không đúng nội dung quy định tại Điều 31 Luật Thi hành án dân sự thì cơ quan thi hành án dân sự không thụ lý đơn yêu cầu thi hành án và có văn bản trả lời cho đương sự biết, trừ trường hợp do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan”. Quy định này đã gây ra không ít trở ngại, khó khăn cho người được thi hành án. Chính vì vậy, Khoản 2 Điều 31 Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án đã sửa lại một trong các nội dung của đơn yêu cầu thi hành 12 án là: “thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, nếu có”. Đây là một trong những điểm mới tháo gỡ những vướng mắc, gây khó khăn, bất lợi cho các đương sự nhiều năm qua. Bởi việc có thông tin về tài sản hoặc điều kiện của người phải thi hành án để đưa vào nội dung đơn yêu cầu thi hành án là điều không dễ dàng trong nhiều trường hợp. Theo quy định tại Khoản 4 Điều 31 Luật sửa đổi bổ sung: “ khi tiếp nhận yêu cầu thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự phải kiểm tra nội dung yêu cầu và các tài liệu kèm theo, vào sổ nhận yêu cầu thi hành án và thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu”. Ngay sau khi nhận được đơn thì cơ quan thi hành án dân sự phải cấp hoặc gửi bằng đường bưu điện giấy biên nhận cho người nộp đơn. Luật sửa đổi, bổ sung năm 2014 còn quy định rõ việc cơ quan THADS phải thông báo bằng văn bản về việc tiếp nhận yêu cầu; việc từ chối yêu cầu thi hành án cho người yêu cầu. Thủ tục từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án dân sự Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã bổ sung quy định về việc từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án so với pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004. Theo khoản 1 Điều 34 Luật Thi hành án dân sự cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án. Đó là những trường hợp việc yêu cầu thi hành án không đáp ứng đủ những điều kiện yêu cầu thi hành án: người yêu cầu thi hành án không có quyền yêu cầu thi hành án; nội dung đơn yêu cầu thi hành án không liên quan đến nội dung Bản án, Quyết định; cơ quan thi hành án dân sự được yêu cầu không có thẩm quyền thi hành án; thời hiệu yêu cầu thi hành án đã hết. Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 đã gộp thủ tục từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án vào Điều 31 quy định về tiếp nhận và từ chối yêu cầu thi hành án. Thêm nữa, tại khoản 5 Điều 31 Luật sửa đổi bổ sung Luật Thi hành án dân sự bổ sung thêm quy định về thời hạn thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu nếu cơ quan thi hành án dân sự từ chối yêu cầu thi 13 hành án của họ là 05 ngày làm việc. Thời hạn này đã được quy định tại khoản 3 Điều 4 Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự, tuy nhiên đến nay được quy định chi tiết và rõ ràng trong Luật, nhằm bảo vệ quyền lợi cho người dân, đặc biệt là người có quyền yêu cầu thi hành án. Luật sửa đổi, bổ sung cũng bổ sung một căn cứ mới để từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án tại điểm a, khoản 5, Điều 31: “… Bản án, Quyết định không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các đương sự theo quy định của Luật này” vì thực tiễn thi hành án cho thấy có trường hợp Bản án, Quyết định của Tòa án được yêu cầu thi hành không xác định được nội dung cần thi hành là gì. Thủ tục thi hành án theo đơn thì chủ thể yêu cầu là ai? Chủ thể yêu cầu thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến thi hành án. Người làm đơn yêu cầu thi hành án có thể là người phải THA, người được thi hành án. Người phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện các nghĩa vụ còn người được thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng quyền, lợi ích theo nội dung quyết định bản án có hiệu lực pháp luật. Do đó dưới góc độ của mỗi chủ thể làm đơn yêu cầu thi hành án thì có ý nghĩa khác nhau trong quá trình tổ chức thi hành án. Chủ thể là người phải thi hành án có đơn yêu cầu thì thủ tục thi hành án dứt điểm bản án thuận lợi rất nhiều gồm các thủ tục chính sau: Kiểm tra nội dung yêu cầu có phù hợp với nội dung bản án, nếu phù hợp thì ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu và yêu cầu người có đơn phải thực hiện các nghĩa vụ theo đơn, báo gọi người được thi hành án lên chi trả hoặc giao nhận như vậy hồ sơ thi hành án kết thúc. Chủ thể là người được THA có đơn yêu cầu thi hành án ngoài thủ tục kiểm tra nội dung đơn, bản án…ấn định thời gian tự nguyện, xác minh điều kiện thi hành án nếu có điều kiện mà không tự nguyện thi hành án thì Chấp hành viên xây dựng phương án cưỡng chế, báo cáo Ban chỉ đạo 14 thi hành án, gửi phương án cưỡng chế đến Viện kiểm sát nhân dân, Công an cùng cấp, Công an xây dựng phương án bảo vệ cưỡng chế…thủ tục thi hành án nói chung trong đó thủ tục thi hành án theo đơn, bị chi phối bởi nhiều yếu tố như: Người phải thi hành án chây ỳ; không hợp tác với cơ quan thi hành án; chống đối quyết liệt, tẩu tán tài sản; chế tài chưa đủ sức răn đe đối với người phải thi hành án; khi tổ chức cưỡng chế cơ quan THADS không chủ động làm được mà phụ thuộc rất nhiều sự phối hợp của các cơ quan khác, mất nhiều thời gian, tiền của nhiều khi không đạt kết quả. 1.2.2. Thủ tục thi hành án dân sự chủ động Chủ động ra quyết định thi hành án là trường hợp sau khi nhận được Bản án, Quyết định do Tòa án chuyển giao thì cơ quan thi hành án dân sự tự mình ra quyết định thi hành án mà không cần phải chờ có đơn yêu cầu của đương sự. Theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự thì cơ quan THADS chủ động ra quyết định THADS đối với phần Bản án, Quyết định mà việc thi hành án mang lại lợi ích cho Nhà nước và cá nhân. Cụ thể, theo khoản 2 Điều 36 Luật THADS năm 2014 thì Thủ trưởng cơ quan THADS có thẩm quyền chủ động ra quyết định thi hành án đối với phần Bản án, Quyết định hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, lệ phí Tòa án; trả lại tiền, tài sản cho đương sự, tịch thu sung quỹ Nhà nước; tịch thu tiêu hủy vật chứng tài sản; các khoản thu khác cho Nhà nước; thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ Nhà nước; quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và quyết định của Tòa án giải quyết phá sản. Sở dĩ những vụ việc này được pháp luật cho phép cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định chủ động thi hành là bởi vì: Một phần đây là những loại việc mà Bản án, Quyết định tuyên người được hưởng quyền lợi là Nhà nước nên cơ quan thi hành án phải có trách nhiệm quan tâm, bảo vệ bằng cách chủ động đưa ra thi hành sớm để thu hồi lại tài sản, đảm bảo tài sản cho Nhà nước, cũng nhằm mục đích đảm bảo quyền và lợi ích công, lợi ích của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 15 Bên cạnh đó, quy định về những khoản của Bản án, Quyết định tuyên trả lại tiền, tài sản cho đương sự cũng thuộc diện cơ quan thi hành chủ động thi hành bởi xuất phát từ quan niệm rằng, việc tạm giữ, thu giữ những tài sản đó là do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trước đó với mục đích phục vụ cho việc điều tra, truy tố, xét xử, bảo đảm thi hành án, nay theo quy định của pháp luật được tuyên trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp thì Nhà nước phải chủ động trả lại mà không đợi đương sự phải yêu cầu, hoặc khoản vật chứng, tài sản bị Tòa án tuyên tịch thu tiêu hủy thì không còn phụ thuộc quyền quyết định của đương sự nên cũng giao cơ quan thi hành án chủ động thực hiện việc tiêu hủy. Ngoài ra, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng là nhằm mục đích đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án, đảm bảo hiệu quả của việc thi hành án, cao hơn thế, là đảm bảo hiệu lực của Bản án, Quyết định của Tòa án, của pháp luật và do tính chất khẩn cấp của việc áp dụng mà nhà nước cần chủ động thực hiện để phù hợp với mục đích của việc ban hành quyết định đó. Luật sửa đổi bổ sung năm 2014 bổ sung thêm trường hợp để cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án chủ động đó là “quyết định của Tòa án giải quyết phá sản”, quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ, cũng chính là những người được thi hành án. Bản chất của quyết định chủ động thi hành án là việc cơ quan thi hành án dân sự tự đưa ra Bản án, Quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành mà không cần có đơn yêu cầu của đương sự. Luật sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã quy định thời hạn ra quyết định thi hành án và phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành đối với một số trường hợp cụ thể: Đối với quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời thì cơ quan thi hành án dân sự phải ra ngay quyết định thi hành án; đối với quyết định của Tòa án giải quyết phá sản thì cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định thi hành án trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định; 16 đối với các quyết định còn lại thì thời hạn vẫn là 05 ngày làm việc. Thêm nữa, Luật còn bổ sung khoản 3, 4 Điều 36: “3. Quyết định thi hành án phải ghi rõ họ, tên, chức vụ của người ra quyết định; số, ngày, tháng, năm, tên cơ quan, tổ chức ban hành Bản án, Quyết định; tên, địa chỉ của người phải thi hành án, người được thi hành án; phần nghĩa vụ phải thi hành án; thời hạn tự nguyện thi hành án; 4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này”. Tại khoản 1, 2, 3 Điều 6 Nghị định 62/2015/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết một số điều Luật Thi hành án dân sự quy định: Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra một quyết định thi hành án chung cho các khoản thuộc diện chủ động thi hành trong một Bản án, Quyết định, trừ trường hợp: Một là: Trong một Bản án, Quyết định có khoản chủ động về trả lại tiền, tài sản thì ra một quyết định thi hành đối với mỗi người được thi hành án; Hai là: Trong một Bản án, Quyết định có nhiều người phải thi hành nhiều khoản chủ động khác nhau thì ra một quyết định thi hành án chung cho các khoản thuộc diện chủ động thi hành án đối với mỗi người phải thi hành án. Trường hợp thi hành quyền, nghĩa vụ liên đới thì thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra một quyết định thi hành án chung cho những người có quyền, nghĩa vụ liên đới. Bên cạnh đó, các khoản thu khác cho Nhà nước quy định tại điểm c khoản 2 Điều 36 Luật THADS thuộc diện chủ động ra quyết định THA bao gồm khoản truy thu thuế; khoản viện trợ cho Nhà nước và các khoản bồi thường cho Nhà nước trong các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; các khoản thu khác nộp trực tiếp vào Ngân sách nhà nước. 1.2.3. Thủ tục xác minh thi hành án dân sự Việc xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án và những người liên quan là cơ sở pháp lý để Chấp hành viên tổ chức thi hành, áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án hoặc kiến nghị lãnh đạo ra 17 các quyết định về việc tiếp tục tổ chức thi hành án, ủy thác, hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án… và là cơ sở để phân loại án nên tính xác thực, chi tiết, tính pháp lý là yêu cầu bắt buộc trong công tác xác minh điều kiện thi hành án của đương sự. Như vậy, có thể thấy, đây là một trong những công việc phức tạp và khó thực hiện nhất, vì việc xác minh tài sản của người phải thi hành án mất nhiều thời gian, chi phí… Thứ nhất, về trách nhiệm tiến hành việc xác minh điều kiện thi hành án, trước đây, theo quy định tại khoản 4 Điều 4 PLTHADS và Điều 8 Nghị định số 173/2004/NĐ-CP quy định về thủ tục, cưỡng chế và xử phạt vi phạm hành chính trong THADS thì trong mọi trường hợp trách nhiệm xác minh thuộc về CHV. Theo Luật Thi hành án dân sự năm 2008 thì trách nhiệm xác minh thi hành án được chuyển sang người được thi hành án. Tại Điều 44 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đối với trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu thì người được thi hành án phải tự tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. Chấp hành viên chỉ tiến hành xác minh khi người được thi hành án có yêu cầu và trong trường hợp thi hành quyết định thi hành án chủ động. Trong trường hợp người được thi hành án yêu cầu Chấp hành viên tiến hành xác minh thì yêu cầu này phải đáp ứng đủ hai điều kiện: được lập thành văn bản và ghi rõ các biện pháp đã được áp dụng nhưng không có kết quả, kèm theo tài liệu chứng minh. Quy định người được THA phải tự tiến hành xác minh nhằm tháo gỡ bớt gánh nặng xác minh cho CHV. Tuy nhiên, mặt bằng am hiểu pháp luật của đại bộ phận người dân nước ta còn thấp cho nên khả năng tự mình thực hiện nghĩa vụ xác minh điều kiện THA của người THA là hạn chế. Bên cạnh đó, việc tự tiến hành xác minh của người được THA cũng gặp không ít trở ngại, khóa khăn khi không có sự phối hợp, giúp đỡ giữa các cơ quan, tổ chức cũng như người phải THA. Để phù hợp với thực tiễn, Luật sửa đổi, bổ xung Luật THADS lại sửa đổi quay về theo hướng chuyển việc xác minh điều kiện 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan