Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thủ tục thi hành án dân sự theo luật thi hành án 2008 Luận văn ThS. Luật...

Tài liệu Thủ tục thi hành án dân sự theo luật thi hành án 2008 Luận văn ThS. Luật

.PDF
102
254
86

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TẠ QUANG MINH THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO LUẬT THI HÀNH ÁN 2008 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TẠ QUANG MINH THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO LUẬT THI HÀNH ÁN 2008 Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Công Bình HÀ NỘI - 2012 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Tạ Quang Minh 3 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC THI HÀNH 7 ÁN DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thủ tục thi hành án dân sự 7 1.1.1. Khái niệm thủ tục thi hành án dân sự 7 1.1.2. Đặc điểm của thủ tục thi hành án dân sự 16 1.1.3. Vai trò của thủ tục thi hành án dân sự 22 1.2. Sơ lược sự phát triển các quy định của pháp luật Việt Nam về thủ tục thi hành án dân 24 1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1950 24 1.2.2. Giai đoạn từ năm 1950 đến năm 1989 25 1.2.3. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2008 27 1.2.4. Giai đoạn từ năm 2008 đến nay 31 Chương 2: 33 NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ NĂM 2008 VỀ THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 2.1. Thủ tục cấp, chuyển giao và giải thích bản án, quyết định 33 2.1.1. Thủ tục cấp và chuyển giao bản án, quyết định 33 2.1.1.1. Thủ tục cấp bản án, quyết định 33 2.1.1.2. Thủ tục chuyển giao bản án, quyết định 34 4 2.1.2. Thủ tục giải thích bản án, quyết định 35 2.2. Thủ tục yêu cầu và nhận đơn yêu cầu thi hành án dân sự 36 2.2.1. Thủ tục yêu cầu thi hành án dân sự 36 2.2.2. Thủ tục nhận đơn yêu cầu thi hành án dân sự 40 2.3. Thủ tục ra quyết định thi hành án và quyết định ủy thác thi hành án dân sự 41 2.3.1. Thủ tục ra quyết định thi hành án dân sự 41 2.3.2. Thủ tục ra quyết định ủy thác thi hành án dân sự 43 2.4. Thủ tục tổ chức và thực hiện thi hành án dân sự 46 2.4.1. Thủ tục thông báo về việc thi hành án dân sự 46 2.4.2. Thủ tục xác minh điều kiện thi hành án dân sự 50 2.4.3. Thủ tục ấn định thời gian tự nguyện thi hành án dan sự 53 2.4.4. Thủ tục giao, nhận, xử lý vật chứng, tài sản 54 2.4.4.1. Giao, nhận vật chứng, tài sản 54 2.4.4.2. Thủ tục xử lý vật chứng, tài sản 55 2.4.5. 56 Thủ tục trả lại đơn yêu cầu thi hành án và kết thúc thi hành án dân sự 2.4.5.1. Thủ tục trả lại đơn yêu cầu thi hành án dân sự 56 2.4.5.2. Kết thúc thi hành án dân sự 61 Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA 64 LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ NĂM 2008 VỀ THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của Luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân 64 3.1.1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện các quy định của Luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự 64 5 3.1.2. Những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện các quy định của Luật thi hành án dân sự năm 2008 về thủ tục thi hành án dân sự 66 3.1.2.1. Về thủ tục yêu cầu thi hành án dân sự 66 3.1.2.2. Về thủ tục thông báo thi hành án dân sự 69 3.1.2.3. Về thủ tục xác minh thi hành án dân sự 74 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực hiện Luật thi hành án dân sự năm 2008 về thủ tục thi hành án dân sự 82 3.2.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện Luật thi hành án dân sự năm 2008 về thủ tục thi hành án dân sự 82 3.2.1.1. Sửa đổi, bổ sung kết cấu Chương 3 Luật thi hành án dân sự quy định về thủ tục thi hành án dân sự 82 3.2.1.2. Sửa đổi, bổ sung quy định về thủ tục yêu cầu thi hành án dân sự 82 3.2.1.3. Sửa đổi, bổ sung quy định về thủ tục thông báo thi hành án dân sự 83 3.2.1.4. Sửa đổi, bổ sung quy định về thủ tục xác minh thi hành án dân sự 84 3.2.2. Một số kiến nghị nhằm thực hiện các quy định của Luật thi hành án dân sự năm 2008 về thủ tục thi hành án dân sự 87 3.2.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật thi hành án dân sự 87 3.2.2.2. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực tổ chức thi hành án dân sự của Chấp hành viên và cán bộ thi hành dân sự 88 KẾT LUẬN 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 92 6 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật Dân sự BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao THADS : Thi hành án dân sự UBND : Ủy ban nhân dân VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao 7 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công công cuộc đổi mới mà Đảng ta đã đề ra là từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là một Nhà nước, trong đó vai trò pháp chế được đề cao, pháp luật được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Ở đây, yêu cầu bức xúc hàng đầu là phải tạo ra và duy trì ý thức coi trọng pháp luật trong quản lý xã hội, quản lý nhà nước. Đặc biệt yêu cầu pháp chế phải được coi là một nội dung hết sức quan trọng của nhà nước pháp quyền. Pháp chế đòi hỏi phải chấp hành nghiêm chỉnh các phán quyết nhân danh Nhà nước của Tòa án nhân dân (TAND). Điều 36 Hiến pháp 1992 đã khẳng định: "Các bản án quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải chấp hành nghiêm chỉnh" [24, tr. 10]. Phán quyết của Tòa án nhân danh Nhà nước sẽ chỉ là những quyết định trên giấy nếu không được tổ chức thi hành hoặc thi hành không đầy đủ trên thực tế. Hoạt động thi hành án kém hiệu quả sẽ gây dư luận xấu, ảnh hưởng trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với tính nghiêm minh của pháp luật. Xác định đúng vai trò và ý nghĩa của hoạt động thi hành án, trước tình hình hoạt động thi hành án kém hiệu quả, kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX đã quyết định bàn giao công tác thi hành án dân sự (THADS) từ TAND các cấp sang các cơ quan của Chính phủ từ tháng 6 năm 1993. Thực tiễn đã chứng minh sự đúng đắn, kịp thời của chủ trương đó, bước đầu tạo sự chuyển biến đáng khích lệ, làm thay đổi cục diện thi hành án sau nhiều năm trì trệ, góp phần quan trọng vào việc thiết lập kỷ cương, nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân. Song bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn hoạt động thi hành án cũng đặt ra những vấn đề mới có tính cấp bách cần được tiếp tục nghiên cứu giải quyết. 8 Các văn bản pháp luật về thi hành án, đặc biệt là Pháp lệnh THADS năm 2004 là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trong lĩnh vực THADS, được ban hành trong bối cảnh nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, hoà nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới một cách toàn diện. Về cơ bản, pháp lệnh vẫn giữ nguyên các quy định về trình tự, thủ tục THADS của Pháp lệnh THADS năm 1993, trong đó có sửa đổi, bổ sung một số nội dung quan trọng về trình tự, thủ tục thi hành án. Những kết quả đạt được sau hơn bốn năm thực hiện Pháp lệnh THADS năm 2004 là cơ bản. Tuy nhiên, so với đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới thì Pháp lệnh THADS năm 2004 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tính nghiêm minh của pháp luật; quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nước theo bản án, quyết định của Toà án chưa được bảo đảm, nhiều việc gây bức xúc trong xã hội. Thực trạng này đã đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện về thể chế thi hành án; đổi mới quy trình, thủ tục THADS; nâng cao vị thế, vai trò, trách nhiệm của hệ thống tổ chức THADS trong bộ máy nhà nước để đáp ứng đòi hỏi của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong đó các quyền tự do dân chủ và lợi ích chính đáng của con người phải được pháp luật bảo đảm và bảo vệ toàn vẹn; mọi vi phạm pháp luật xâm phạm quyền tự do, lợi ích chính đáng của công dân đều bị nghiêm trị và bảo đảm thực thi các lợi ích đó trên thực tế thông qua hoạt động thi hành án là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng. Nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của công tác THADS đối với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã quy định: "Xây dựng cơ chế bảo đảm mọi bản án của Toà án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành, các cơ quan hành chính vi phạm bị xử lý theo phán quyết của Toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành" [12]. Ngoài ra, công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ 9 nghĩa hiện nay đòi hỏi hệ thống pháp luật phải ngày càng được hoàn thiện, có tính pháp điển cao, trong đó thi hành án là một vấn đề hết sức hệ trọng, liên quan trực tiếp đến hiệu lực và hiệu quả của công tác quản lý nhà nước, đến trật tự kỷ cương pháp luật và ảnh hưởng sâu sắc đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, do đó, việc phải có một văn bản có hiệu lực pháp lý cao của Quốc hội về THADS là hết sức cần thiết. Xuất phát từ các yêu cầu đó tại kỳ họp thứ 4, ngày 14 tháng 11 năm 2008 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khoá XII đã thông qua Luật THADS. Có thể nói, trong trong lĩnh vực THADS, Luật THADS là văn bản chuyên ngành đầu tiên về THADS có hiệu lực pháp lý cao nhất. Luật THADS được ban hành đã giải quyết được nhiều vấn đề bất cập của các văn bản pháp luật trước đó, tạo cơ sở nâng cao hiệu quả THADS. Tuy vậy, sau một số năm thực hiện Luật này cũng cho thấy vẫn còn những hạn chế, vướng mắc chưa được giải quyết triệt để làm ảnh hưởng đến kết quả THADS. Để tìm ra các biện pháp khắc phục các hạn chế, vướng mắc góp phần giải quyết tình trạng án tồn đọng thì việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của Luật THADS là cần thiết. Vì vậy, học viên đã chọn đề tài "Thủ tục thi hành án dân sự theo Luật thi hành án 2008" nghiên cứu làm luận văn thạc sỹ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian qua, việc nghiên cứu về THADS nhìn chung là bước đầu đã được đẩy mạnh. Trong quá trình thực hiện công cuộc cải cách tư pháp, cũng như xây dựng Luật THADS và sau khi Luật THADS được ban hành các vấn đề về thủ tục THADS đã được đặt ra và triển khai nghiên cứu ở mức độ nhất định như đề tài luận án tiến sĩ luật học "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Thanh Thuỷ bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2008; đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường "Những điểm mới của Luật Thi hành án dân sự 2008" do Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2010 v.v… Ngoài ra, còn có các bài nghiên 10 cứu, trao đổi về thi hành án công bố trên các báo, tạp chí chuyên ngành luật như bài "Những khó khăn trong xác minh thi hành án" của Đinh Duy Bằng đăng trên Tạp chí dân..chủ và pháp luật, số chuyên đề về THADS, 3/2011; bài "Bàn về tính dân chủ trong pháp luật về thi hành án dân sự " của Bùi Thái Bình, đăng trên Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 03/2012; bài "Thông báo thi hành án dân sự những vấn đề từ thực tiễn" của Duy Đinh, đăng trên Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề về THADS 5/2010; bài "Những vướng mắc trong trường hợp người phải thi hành án làm đơn đề nghị thi hành án" của Nguyễn Thành Nam, đăng trên Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 04/2008; bài "Những vướng mắc từ thực tiễn thi hành luật thi hành án dân sự" của Nguyễn Thị Khanh, đăng trên Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 05/2010; bài "Bàn về xác minh thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự" của Phan Tấn Pháp, đăng trên Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 07/2010 v.v... Những công trình nghiên cứu này bước đầu đã nghiên cứu về một số vấn đề về thủ tục THADS. Tuy nhiên, do mục đích nghiên cứu các công trình nghiên cứu nêu trên mới dừng lại ở một số khía cạnh riêng lẻ của các vấn đề thủ tục THADS mà chưa tập trung nghiên cứu tổng thể, toàn diện các vấn đề về thủ tục THADS theo Luật THADS. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Mục đích của việc nghiên cứu là làm rõ những vấn đề lý luận về thủ tục THADS, đánh giá thực trạng pháp luật thi hành án hiện hành và thực tiễn THADS. Qua việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về THADS, góp phần giải quyết tình trạng tồn đọng án, nâng cao hiệu quả hoạt động THADS. Để thực hiện được mục đích trên, việc nghiên cứu đề tài có các nhiệm vụ cụ thể sau đây: - Nghiên cứu các vấn đề lý luận về thủ tục THADS, như khái niệm THADS, khái niệm thủ tục, vai trò của thủ tục THADS; quá trình hình thành 11 và phát triển các quy định của pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay về thủ tục THADS; - Nghiên cứu các quy định của Luật THADS về thủ tục THADS, từ đó phát hiện những khiếm khuyết, bất cập trong các quy định của Luật THADS về thủ tục THADS; - Khảo sát thực tiễn THADS để phát hiện những hạn chế trong việc thực hiện các quy định của Luật THADS về thủ tục THADS; - Tìm ra các giải pháp nhằm hoàn thiện và thực hiện các quy định của Luật THADS về thủ tục THADS. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài Đối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về THADS, các quy định của Luật THADS về thủ tục THADS và thực tiễn tổ chức thi hành án của các cơ quan THADS. Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng được tiến hành đối với một số các quy định của các văn bản pháp luật khác có quy định về thủ tục THADS để so sánh, đối chiếu và tham khảo. THADS không phải chỉ là hoạt động có tính chất chuyên môn, nghiệp vụ đơn thuần, mà còn mang ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc. Việc nghiên cứu toàn diện những vấn đề lý luận pháp luật THADS và thực tiễn THADS và các vấn đề khác có liên quan là một vấn đề rộng lớn, phức tạp không chỉ riêng đối với khoa học pháp lý, mà còn là nhiệm vụ của các lĩnh vực khoa học khác như xã hội học, lịch sử, quản lý nhà nước… Tuy vậy, phạm vi nghiên cứu của đề tài này chỉ tập trung làm rõ những vấn đề về thủ tục THADS, các quy định pháp luật hiện hành về THADS và thực tiễn thực hiện chúng trong những năm gần đây. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và 12 pháp luật, quá trình nghiên cứu đã sử dụng và kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học như phương pháp so sánh, thống kê, phương pháp phân tích, tổng hợp… 6. Những điểm mới của luận văn Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên một cách có hệ thống về thủ tục THADS theo Luật THADS, luận văn có những điểm mới cơ bản sau đây: - Làm rõ được một các vấn đề lý luận về thủ tục THADS, như khái niệm THADS, khái niệm thủ tục, vai trò của thủ tục THADS; quá trình hình thành và phát triển các quy định của pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay về thủ tục THADS; - Phân tích làm rõ được nội dung các quy định của Luật THADS về thủ tục THADS, nhận diện được những khiếm khuyết, bất cập trong các quy định của Luật THADS về thủ tục THADS; - Làm rõ thực tiễn thực hiện các quy định của Luật THADS về thủ tục THADS và phát hiện được một số hạn chế trong việc thực hiện các quy định của Luật THADS về thủ tục THADS; - Đã tìm được một số các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của Luật THADS về thủ tục THADS và nâng cao hiệu quả thực hiện chúng trên thực tế. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thủ tục thi hành án dân sự. Chương 2: Nội dung các quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 về thủ tục thi hành án dân sự. Chương 3: Thực tiễn thi hành các quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 về thủ tục thi hành án dân sự và kiến nghị. 13 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1.1. Khái niệm thủ tục thi hành án dân sự Theo Đại từ điển tiếng Việt, thi hành là: "Thực hiện điều đă chính thức quyết định" [46, tr. 1559]. Như vậy, thi hành án có thể được hiểu là thực hiện bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế. Bản án, quyết định của Tòa án được hiểu là văn bản pháp lý của Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên tại phiên tòa, giải quyết về các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính. THADS là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước nhằm thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn. Với ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án, nên chỉ khi nào việc thi hành án được giải quyết xong thì quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, công dân mới được đảm bảo, phán quyết của Tòa án mới có hiệu lực thực thi trong thực tiễn đời sống. Nếu như bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà không được thi hành hoặc thi hành không nghiêm chỉnh thì trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực nhà nước bị xem thường. Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công công cuộc đổi mới mà Đảng ta đã đề ra là từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là một Nhà nước, trong đó vai trò pháp chế được đề cao, pháp luật được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Ở đây, yêu cầu bức xúc hàng đầu là phải tạo ra và duy trì ý thức coi trọng pháp luật trong quản lý xã hội, quản lý nhà nước. Đặc biệt yêu cầu pháp chế phải được coi là một nội dung hết sức quan trọng của nhà nước pháp quyền. Pháp chế đòi hỏi phải chấp hành nghiêm chỉnh các phán quyết nhân danh Nhà nước của TAND. Chính vì vậy Điều 36 Hiến pháp 1992 đã khẳng định: "Các bản án quyết định 14 của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải chấp hành nghiêm chỉnh" [24]. Thi hành án và các giai đoạn tố tụng trước đó có mối quan hệ nhân quả với nhau. Trong lĩnh vực thi hành án hình sự, nếu ở giai đoạn điều tra, các cơ quan tiến hành tố tụng không kiên quyết áp dụng đầy đủ, kịp thời các biện pháp ngăn chặn như thu giữ, kê biên, phong tỏa tài sản... thì đến giai đoạn thi hành án, cơ quan thi hành án sẽ gặp rất nhiều khó khăn do đương sự cất giấu, tẩu tán tài sản dẫn đến tình trạng án tồn đọng không thể thi hành được. Hoặc nếu một bản án, quyết định được Tòa án tuyên một cách công bằng, thấu tình, đạt lý, rõ ràng, cụ thể, được dư luận ủng hộ, đồng tình thì việc thi hành án sẽ dễ dàng, nhanh chóng hơn nhiều. Ngược lại, nếu bản án, quyết định của Tòa án được tuyên không khách quan, toàn diện và công bằng, thiếu tính khả thi sẽ gây cản trở cho việc thi hành án, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan nhà nước. Đồng thời, "việc thi hành án nhanh chóng, kịp thời sẽ có tác động tích cực trở lại đối với hoạt động xét xử, củng cố, tăng cường uy tín của cơ quan xét xử" [37, tr. 9]. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) năm 2002 thì VKSND không thực hiện chức năng kiểm sát chung như trước đây, có nghĩa là không thực hiện chức năng kiểm sát đối với hoạt động hành chính mà chỉ kiểm sát đối với hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, trong Luật tổ chức VKSND hiện hành vẫn có một chương với nhiều điều quy định về kiểm sát thi hành án. Trong thực tiễn, VKSND các cấp đã ban hành nhiều kháng nghị đối với các quyết định về thi hành án. Tuy nhiên, tính chất của kháng nghị trong giai đoạn thi hành án có nhiều điểm không giống với kháng nghị trong giai đoạn xét xử... Điều này cho thấy rõ mối quan hệ mật thiết, đan xen giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với cơ quan thi hành án, giữa pháp luật tố tụng tư pháp với pháp luật về thi hành án, giữa quan hệ pháp luật tố tụng với quan hệ pháp luật về thi hành án. 15 "Quá trình thi hành án nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, do đó, các trình tự, thủ tục thi hành án cũng được quy định chặt chẽ bởi pháp luật giống như những thủ tục tố tụng trước đó vì đều liên quan đến quyền con người, quyền công dân" [37, tr. 10]. Hơn nữa, yêu cầu đặt ra đối với những người tiến hành các công việc về THADS như Chấp hành viên cũng không thấp hơn những người tiến hành tố tụng trước đó là phải độc lập và tuân theo pháp luật để bảo đảm duy trì sự thật trong bản án, quyết định của Tòa án và tiến tới đạt được sự thật trên thực tế. Nếu họ không độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong THADS thì giá trị sự thật mà bản án, quyết định của Tòa án đã xác định sẽ không còn nguyên nghĩa của nó, trừ trường hợp các đương sự có sự thỏa thuận tự nguyện khác trong quá trình thi hành án. Bản chất của thi hành án là dạng hoạt động chấp hành nhưng là chấp hành phán quyết của cơ quan xét xử với các cách thức và biện pháp khác nhau nhằm buộc người có nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án phải thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình. Mục đích cuối cùng của thi hành án là bảo đảm cho các quyết định của Tòa án được ghi trong bản án, quyết định được thực thi trên thực tế chứ không phải là ra văn bản áp dụng pháp luật hoặc quyết định có tính điều hành - nét đặc trưng của hoạt động hành chính. Mặt khác, tính chất chấp hành không chỉ là yêu cầu trong hoạt động thi hành án mà còn là yêu cầu bắt buộc trong các giai đoạn tố tụng trước đó với ý nghĩa cao nhất là chấp hành các quy định của pháp luật, bản thân pháp luật được Nhà nước ban hành có tính bắt buộc chung mà mọi người phải tôn trọng thực hiện. Hiện nay, trong sách báo pháp lí cũng như trên thực tiễn, cụm từ ghép "thi hành án" thường được dùng chung với các từ khác trong các nhóm từ như công tác thi hành án, hoạt động thi hành án, lĩnh vực thi hành án, giai đoạn thi hành án... Xét về mặt cấu trúc ngữ pháp, trong các nhóm từ trên, các từ công tác, hoạt động, lĩnh vực, giai đoạn là danh từ có nghĩa chung nhất của nội hàm 16 xác định; còn "thi hành án" lại đóng vai trò với nghĩa là định ngữ, vì vậy nếu hiểu các nhóm từ đó như khái niệm "thi hành án" thì chưa đúng. Bởi vì, thứ nhất, các từ công tác, hoạt động, lĩnh vực, giai đoạn có nghĩa không giống nhau nên khi ghép với "thi hành án" chúng cũng hàm chứa những nội dung khác nhau; thứ hai, nếu sử dụng các nhóm từ đó cùng với các từ như bản chất, đặc điểm, chức năng, hình thức, mô hình... thì sự sai lệch lại tăng thêm. Chẳng hạn, "khi nói bản chất của công tác thi hành án; đặc điểm của hoạt động thi hành án; hình thức hoạt động thi hành án (lẽ ra phải là bản chất, đặc điểm, hình thức của thi hành án)... thì những từ công tác, hoạt động không còn ý nghĩa ban đầu; ở đây chỉ thấy nổi rõ nghĩa của thi hành án" [37, tr. 11]. Khái niệm thường được biểu đạt bằng danh từ hay cụm từ, trong đó danh từ hay cụm từ là từ loại còn tính từ chỉ kết hợp để hình thành khái niệm nhánh trong từ loại đó. Ví dụ, khái niệm quản lí được hiểu là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lí lên đối tượng quản lí. Từ khái niệm đó, ta có thể phân biệt "quản lí kinh tế với quản lí văn hoá, xã hội và trong các trường hợp này, quản lí luôn đóng vai trò danh từ" [37, tr. 12]. Với sự phân tích trên và để bảo đảm tính logic của các khái niệm khoa học có liên quan đến thi hành án, "thi hành án" cần sử dụng như khái niệm độc lập. Theo đó, có những khái niệm chỉ loại hình thi hành án như thi hành án hình sự, THADS, thi hành án kinh tế, thi hành án lao động, thi hành án hành chính. Cũng từ cách hiểu này, có thể nhìn nhận các vấn đề cơ bản của thi hành án như bản chất, đặc trưng, chức năng, hình thức, nguyên tắc, phương pháp, mô hình tổ chức của thi hành án... ở những cấp độ chung và cụ thể theo từng loại hình và những cụm từ như công tác thi hành án, lĩnh vực thi hành án, hoạt động thi hành án sẽ được sử dụng theo đúng nghĩa của chúng. Hiện nay khái niệm THADS vẫn được hiểu theo nhiều cách khác nhau mà chưa có sự thống nhất chung. Cụ thể là: - Quan điểm thứ nhất cho rằng THADS là một hoạt động tư pháp hoạt động tố tụng dân sự. Theo quan điểm này thì có xét xử sẽ phải có thi 17 hành án, thi hành án củng cố kết quả của công tác xét xử, bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định dân sự của Toà án nên thi hành án là giai đoạn không thể thiếu trong quá trình tố tụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Thi hành án là một giai đoạn tố tụng: Bởi nếu tách ra thì sẽ không thực hiện được mục tiêu chung của toàn bộ quá trình tố tụng. Khi chân lý được làm sáng tỏ thể hiện trong bản án, quyết định của Tòa án, thì mới dừng lại ở việc làm rõ đúng hay sai, phải hay trái trên văn bản giấy tờ. Muốn nó được thực hiện trên thực tế, cần phải chờ ở hiệu quả của công tác thi hành án. Vì vậy, thi hành án là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử. Ở giai đoạn này, cơ quan thi hành án áp dụng các biện pháp được pháp luật quy định để đưa chân lý trở thành hiện thực trong đời sống thực tế [43, tr. 8]. Hoạt động thi hành án gắn liền với quá trình xét xử, tiếp theo quá trình xét xử. Thi hành án là hoạt động bảo vệ pháp luật khác về bản chất với các hoạt động hành chính là tổ chức và quản lý. "Thi hành án là nhằm mục đích thực thi các phán quyết của Tòa án, đảm bảo các phán quyết của Tòa án được thi hành và thi hành có hiệu quả trên thực tế. Hoạt động thi hành án này gắn liền với quá trình xét xử, chịu sự chi phối của quá trình xét xử" [44, tr. 8]. THADS có đầy đủ những đặc trưng của hoạt động tố tụng dân sự như là hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, mang tính độc lập v.v... Hơn nữa, "tòa án chỉ là một trong các cơ quan tư pháp chứ không phải là cơ quan tư pháp duy nhất" [2, tr. 11]. Vì thế, thi hành án cũng là một hoạt động chấp hành nhưng là chấp hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án. - Quan điểm thứ hai cho rằng, thi hành án là một thủ tục hành chính. Theo đó, quá trình tố tụng chỉ do Tòa án thực hiện.Tố tụng là quá trình tiến hành giải quyết các vụ án theo quy định của pháp luật; quá trình này sẽ trải qua nhiều giai đoạn, song các giai đoạn ấy lại có mối liên quan mật thiết với 18 nhau trong một thể thống nhất chung và xét xử là giai đoạn của cùng quá trình tố tụng. Vì vậy, "bản án, quyết định chính là kết quả đánh dấu sự kết thúc của quá trình tố tụng đó" [44, tr. 13]. Hơn nữa "thi hành án là hoạt động mang tính điều hành và chấp hành là đặc trưng của hoạt động hành chính" [2, tr. 11]. Thi hành án là dạng hoạt động có tính chấp hành, vì thi hành án chỉ được tiến hành trong khuôn khổ pháp luật quy định nhằm thực hiện các các bản án và quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật.. - Quan điểm thứ ba lại cho rằng, thi hành án là một thủ tục hành chính tư pháp. Trước hết vì thi hành án có mục đích và bản chất khác với mục đích, bản chất của tố tụng. Mục đích của tố tụng là xác định chứng cứ để lập trạng thái ban đầu của sự việc. Với mục đích đó, toàn bộ quá trình tố tụng được diễn ra theo một quá trình hết sức chặt chẽ và khi có quyết định giải quyết vụ việc của Tòa án thì quá trình tố tụng kết thúc. Trong khi đó, thi hành án có mục đích là thực hiện bản án, quyết định của Tòa án. Quá trình này do các chủ thể thi hành án tự giác thi hành hoặc do cơ quan có thẩm quyền buộc phải thi hành. Về bản chất, thi hành án cũng là một dạng hoạt động tư pháp vì căn cứ để thi hành án là các bản án, quyết định của Tòa án. Hơn nữa, thi hành án còn được thực hiện bởi các cơ quan tư pháp (theo nghĩa rộng). Không thể đồng nhất hoạt động thi hành án với hoạt động tố tụng, bởi lẽ hoạt động thi hành án có tính chất chính trị, pháp lư, xã hội của nó. Nghiên cứu hoạt động thi hành án hiện nay cần đặt trong vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền. Về bản chất, hoạt động thi hành án được thể hiện ở ba phương diện chủ yếu sau đây: + Xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quá trình thi hành án; + Tính đặc thù trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án; + Đặc thù trong các quan hệ về thủ tục thi hành án (đây là một vấn đề có thể dẫn đến sự nhầm lẫn với quan hệ tố tụng). Quan hệ thủ tục thi hành án có thể bao gồm cả quan hệ tố tụng và quan hệ khác mang tính hành chính - tư 19 pháp. Nhưng cần khẳng định rằng, các quan hệ mang tính hành chính tư pháp chủ yếu hơn. Thi hành án là hoạt động của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, ở một số lĩnh vực, một số công việc, Nhà nước có thể xây dựng hành lang pháp lý để thực hiện xã hội hóa hoạt động này. Đây là điểm khác so với hoạt động tố tụng, hoạt động tố tụng mang tính quyền lực tư pháp, không thể xã hội hóa. Thi hành án không mang tính tố tụng thuần túy mà có nhiều tính chất của giai đoạn mang tính hành chính - tư pháp. Ở đây có nhiều điểm khác nhau giữa tố tụng và quá trình thực hiện thi hành án. Hoạt động thi hành án là hoạt động đặc thù mà chủ thể thực thi không phải là Tòa án. "Các thủ tục trong quá trình thi hành án mang nặng tính hành chính - tư pháp hơn (đặc biệt là trong thi hành án kinh tế, tuyên bố phá sản doanh nghiệp, lao động và một phần của thi hành án hình sự đối với loại hình phạt không phải là hình phạt tù...)" [44, tr. 10-12]. Do đó, thi hành án cần được quan niệm là thủ tục hành chính - tư pháp. Các quan điểm trên xuất phát từ những lý do khác nhau và đều có tính hợp lý. Thực ra, khó có thể "xếp" THADS với bất cứ loại tố tụng nào vì những lẽ sau đây: Thứ nhất, như đã trình bày ở phần khái niệm thi hành bản án, bản chất và mục đích tố tụng là sự xác định sự thật khách quan của các vụ việc để trên cơ sở đó áp dụng đúng đắn quy định của pháp luật vào từng trường hợp cụ thể. Quá trình này kết thúc khi sự thật đã được khẳng định bằng một phán quyết của Tòa án. Ở đây chân lý đã được sáng tỏ, nội dung quan hệ pháp luật đã được Tòa án xác định cụ thể bằng bản án, cơ quan thi hành án chỉ thực thi các nghĩa vụ đã được xác định mà không có quyền thay đổi chúng. Hiện nay phạm vi áp dụng thủ tục THADS rất rộng. Nhiều quan hệ pháp luật trước đó đã được giải quyết theo nhiều thủ tục tố tụng khác nhau như dân sự, hành chính, hình sự, trọng tài.. Tuy nhiên, các phán quyết về tài sản của Toà án, Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh đều được đưa ra tổ chức thi hành 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan