Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thủ tục rút gọn theo pháp luật tố tụng dân sự ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Thủ tục rút gọn theo pháp luật tố tụng dân sự ở việt nam hiện nay

.PDF
88
480
126

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐÀO THỊ XUÂN QUỲNH THỦ TỤC RÚT GỌN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số : 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. DƯƠNG QUỲNH HOA Hà Nội – 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi xin cam kết bằng danh dự và cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và không vi phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật. Các số liệu nêu trong luận văn là đúng sự thật, có nguồn gốc rõ ràng và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các thông tin nghiên cứu trong luận văn là do tôi tự tìm tòi, nghiên cứu phù hợp với thực tế. Tác giả ĐÀO THỊ XUÂN QUỲNH MỤC LỤC MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ............................................................. 8 1.1. Cơ sở lý luận về thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự............................................ 8 1.2. Cơ sở thực tiễn và định hướng xây dựng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự ở Việt Nam ....................................................................................................................... 21 Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG THỦ TỤC RÚT GỌN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.......................................... 27 2.1. Thực trạng về phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn theo pháp luật tố tụng Dân sự ở Việt Nam hiện nay ........................................................................................................ 27 2.2. Thực trạng về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn theo pháp luật tố tụng Dân sự ở Việt Nam hiện nay ........................................................................................................ 30 2.3. Thực trạng về thành phần giải quyết thủ tục rút gọn theo pháp luật Tố tụng Dân sự ở Việt Nam hiện nay................................................................................................. 36 2.4. Thực trạng về trình tự áp dụng thủ tục rút gọn theo pháp luật tố tụng Dân sự ở Việt Nam hiện nay ........................................................................................................ 37 2.5. Thực trạng về thời hạn giải quyết theo thủ tục rút gọn theo pháp luật tố tụng Dân sự ở Việt Nam hiện nay......................................................................................... 57 2.6. Thực trạng về hiệu lực của bản án, quyết định theo thủ tục rút gọn theo pháp luật tố tụng Dân sự ở Việt Nam hiện nay...................................................................... 61 2.7. Án phí các vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn theo pháp luật tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay................................................................................................. 62 2.8. Những thành tựu đạt được và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập khi áp dụng thủ tục rút gọn ...................................................................................................... 62 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN THEO TỐ TỤNG DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................................................................................................. 65 3.1. Phương hướng tiếp tục xây dựng hoàn thiện thủ tục rút gọn trong tố tụng Dân sự Việt Nam .................................................................................................................. 65 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục rút gọn theo tố tụng Dân sự ở Việt Nam hiện nay ........................................................................................................ 66 KẾT LUẬN .................................................................................................................. 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................80 DANH MỤC VIẾT TẮT *** BLTTDS Bộ luật Tố tụng Dân sự BLDS Bộ luật Dân sự TCDS Tranh chấp dân sự TTDS Tố tụng dân sự TTRG Thủ tục rút gọn TAND Tòa án nhân dân TTTT Thủ tục thông thường DANH MỤC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Thống kê tình hình thụ lý, giải quyết án TCDS, hôn Bảng 2.1: nhân gia đình, kinh doanh thương mại và lao động từ 28 năm 2005 đến 2016 Bảng số liệu tình hình giải quyết các vụ án tranh Bảng 2.2: chấp dân sự nói chung của Toà án nhân dân các cấp trong hệ thống Tòa án trên cả nước 59 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, công cuộc đổi mới đất nước theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, thực hiện phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang có những bước tiến vượt bậc. Đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, quan hệ kinh tế - quốc tế hội nhập ngày càng phát triển mạnh mẽ, giao lưu kinh tế, dân sự, thương mại… ngày một gia tăng. Theo quy luật chung, quan hệ xã hội nhiều sẽ dẫn đến các tranh chấp càng ngày càng phát sinh nhiều. Hàng năm, hệ thống TAND đã thụ lý giải quyết một khối lượng rất lớn các vụ án tranh chấp liên quan đến dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế, lao động…, điều này đã tạo ra một áp lực lớn về công việc cho hệ thống TAND các cấp trong cả nước. Trong số các vụ án được TAND các cấp thụ lý, giải quyết hàng năm có không ít vụ án có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng, bị đơn không phản đối yêu cầu của nguyên đơn hoặc các tranh chấp về tài sản có giá ngạch thấp. Tuy nhiên, những vụ việc này vẫn phải tiến hành theo một trình tự thủ tục TTDS thông thường. Hệ quả là thời gian giải quyết vụ kiện sẽ bị kéo dài hoặc phải trải qua nhiều cấp xét xử một cách không cần thiết gây mất thời gian, tổn phí cho các đương sự và Nhà nước, dẫn đến lượng án tồn đọng chưa giải quyết được tương đối lớn. Với xu hướng chung là đơn giản hóa các thủ tục hành chính, các nước trên thế giới đều tìm cách giải quyết nhanh chóng, gọn nhẹ đối với các TCDS đơn giản nói chung để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, của xã hội, không để mất quá nhiều thời gian cho một vụ kiện. Có rất nhiều nước trên thế giới đã xây dựng và áp dụng chế định TTRG để giải quyết các tranh chấp đơn giản và có giá ngạch thấp để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và xã hội. Hòa chung với sự phát triển của thế giới, nhận thức được thực trạng quá nhiều án TCDS tồn đọng mà tính chất vụ việc tương đối đơn giản, chứng cứ rõ ràng, nội dung tranh chấp đều được các đương sự thừa nhận hoặc những tranh chấp có giá 1 ngạch thấp cần được giải quyết bằng một thủ tục đơn giản để không mất nhiều thời gian giải quyết cũng như gây lãng phí tiền bạc và công sức cho Nhà nước và nhân dân, thể chế hóa đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước tại Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Hiến pháp năm 2013, BLTTDS được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2015, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016 đã quy định về TTRG để giải quyết một số loại án khi đáp ứng các điều kiện nhất định. Đây là một chế định hoàn toàn mới, phù hợp với sự phát triển chung của xã hội hiện nay. TTRG trong pháp luật TTDS là một bước tiến đáng kể sau khi BLTTDS 2015 ra đời và có hiệu lực. Bộ luật này đã có chương riêng cho chế định rút gọn trong giải quyết TCDS với những quy định đổi mới nhằm giúp cho thủ tục TTDS trở nên dễ dàng hơn trong những trường hợp nhất định, điều này cũng giúp triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013. Có thể nói, việc bổ sung các quy định về TTRG trong TTDS để giải quyết một số loại vụ án về TCDS là việc hết sức cấp thiết. Hiện nay, chưa có một công trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện về lĩnh vực này kể từ khi BLTTDS 2015 có hiệu lực. Chính vì vậy lựa chọn đề tài: "TTRG theo pháp luật TTDS ở Việt Nam hiện nay" để nghiên cứu có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Vì những lý do trên, học viên lựa chọn đề tài: "TTRG theo pháp luật TTDS ở Việt Nam hiện nay" làm luận văn Thạc sĩ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Có thể nói, TTRG trong TTDS cũng nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong nước và nước ngoài. Riêng ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu đã tập trung làm sáng tỏ vai trò, ý nghĩa của TTRG, nghiên cứu tính khả thi của việc xây dựng TTRG trong TTDS ở Việt Nam hiện nay, đưa ra các khái niệm, đặc điểm và giải quyết một số vấn đề lý luận cơ bản về TTRG cũng như chỉ ra các ưu điểm vượt trội của TTRG so với TTTT trong việc giải quyết các tranh chấp nhỏ lẻ, đơn giản. Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu khoa học về TTRG có thể kể đến như: "Vấn đề áp dụng TTRG trong xét xử và thành lập Tòa giản lược trong hệ thống 2 TAND" của tác giả Trương Hòa Bình, "Cần có quy định TTRG trong Bộ luật TTDS" của tác giả Đỗ Văn Chỉnh, Phạm Thị Hằng, "Sự cần thiết phải quy định thủ tục rút ngắn trong pháp luật dân sự" của tác giả Ngô Anh Dũng, "Tổ chức xét xử vụ án dân sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp" của tác giả Lê Thu Hà, "Giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng theo TTRG" của tác giả Lê Thanh Hoa, "Xét xử theo thủ tục đơn giản các vụ án dân sự - Nhu cầu và định hướng" của tác giả Bùi Thị Dung Huyền và Lê Thế Phúc…., tuy nhiên đây mới chỉ là các bài viết mang tính chất định hướng, trao đổi kinh nghiệm trên các tạp chí khoa học chứ chưa mang tính chất nghiên cứu chuyên sâu. Trong giáo trình giảng dạy tại các cơ sở đào tạo Luật học ở nước ta cũng mới đề cập đến TTRG như giáo trình Luật TTDS của trường Đại học Luật Hà Nội, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Vinh, Đại học Quốc gia Hà Nội, Học viện Tư pháp, Học viện Tòa án… các giáo trình này cũng mới đề cập đến lượng kiến thức cơ bản và khái quát về TTRG trong chương trình đào tạo cử nhân Luật và cán bộ pháp lý. Có một số đề tài chuyên khảo liên quan đến TTRG như: "Báo cáo nghiên cứu và đề xuất cơ chế, mô hình giải quyết TCDS theo TTRG tại Việt Nam" của Dự án Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam, "Báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp cơ sở về giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với tổ chức cá nhân kinh doanh bằng TTRG trong TTDS" của tác giả Đặng Thanh Hoa, "Xu hướng đơn giản hóa thủ tục tố tụng trên thế giới và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam" – Hội thảo cấp khoa do Khoa pháp luật Dân sự trường Đại học Luật Hà Nội tổ chức vào ngày 10/10/2014, "Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thủ tục giải quyết vụ việc dân sự theo định hướng cải cách tư pháp" - đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của TAND tối cao… Các công trình trên cũng mới chỉ dừng lại ở việc phân tích, bình luận các quy định của BLTTDS 2015 về TTRG và ít đề cập đến thực tiễn áp dụng của các quy định này. Xuất phát từ xu hướng các vụ án liên quan đến TCDS hiện nay càng ngày càng tăng và việc áp dụng pháp luật từ thực tiễn xét xử còn nhiều bất cập thì việc nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn xét xử về việc giải quyết TCDS theo TTRG là rất quan trọng. Thực tiễn xét xử các vụ án TCDS qua các cấp Tòa án 3 trong hệ thống Tòa án Việt Nam cho thấy việc áp dụng tất cả các thủ tục tố tụng như nhau mà không phân biệt tranh chấp phức tạp, chứng cứ không rõ ràng, các đương sự không thừa nhận quyền và nghĩa vụ của nhau với những vụ án tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng, các đương sự đều thừa nhận quyền và nghĩa vụ là bất hợp lý, dẫn đến thủ tục có phần nặng nề, thời gian giải quyết kéo dài, tốn kém. Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành và thực tiễn xét xử các vụ án TCDS tại TAND các cấp trong hệ thống Tòa án Việt Nam học viên rút ra được những thành tựu và điểm tiến bộ của việc áp dụng TTRG theo quy định của Bộ luật TTDS Việt Nam hiện hành và những hạn chế bất cập trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật về TTRG một cách cụ thể nhất để giải quyết các TCDS cũng như đề ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng TTRG vào công tác xét xử giải quyết tranh chấp về dân sự nói chung trong hệ thống Tòa án các cấp. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về TTRG trong TTDS, đề tài đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về TTRG trong TTDS ở Việt Nam hiện nay. Qua đó nêu ra những ưu điểm và phát hiện những bất cập, hạn chế trong các quy định của pháp luật, những sai sót yếu kém trong việc áp dụng pháp luật về TTRG vào công tác xét xử của Tòa án khi giải quyết tranh chấp về dân sự nói chung và nguyên nhân của những hạn chế đó. Trên cơ sở đó đề xuất những kiến nghị, các giải pháp hoàn thiện TTRG trong TTDS, bảo vệ quyền và lợi ích của các đương sự, tiết kiệm được thời gian, công sức cho các đương sự, đảm bảo đúng tinh thần cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước đã đề ra theo nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu trên, đề tài sẽ thực hiện một số nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Phân tích một số vấn đề lý luận cơ bản về TTRG trong TTDS. 4 - Đánh giá thực trạng áp dụng TTRG theo pháp luật TTDS ở Việt Nam hiện nay vào việc giải quyết các TCDS nói chung tại hệ thống TAND các cấp. - Đánh giá ưu điểm, hạn chế, những vấn đề bất cập, chưa hợp lý, thiếu khoa học của các quy định của pháp luật về TTRG khi áp dụng vào thực tiễn xét xử các vụ án. - Nêu các phương hướng hoàn thiện pháp luật về TTRG theo pháp luật TTDS ở Việt Nam hiện nay. - Đề xuất một số kiến nghị để hoàn thiện TTRG trong giải quyết các TCDS nói chung. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Các đường lối, chính sách, các nghị quyết của Đảng, Hiến Pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam hiện hành, các căn cứ pháp lý khi áp dụng TTRG vào việc giải quyết TCDS và thực tiễn áp dụng TTRG vào công tác xét xử tại Tòa án. - Các quan điểm, tư tưởng luật học về TTRG trong TTDS, pháp luật một số nước trên thế giới về TTRG trong TTDS. - Các báo cáo tổng kết công tác xét xử và nhiệm vụ trọng tâm của hệ thống TAND từ 2005 đến 2016 để thấy được vai trò của việc áp dụng TTRG. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Đề tài chỉ nghiên cứu TTRG trong TTDS nói chung khi giải quyết tại Tòa án, tức là chỉ đi sâu về nghiên cứu theo một thể thức và quy định khi áp dụng theo TTRG để giải quyết một TCDS nói chung, không nghiên cứu sâu về TTRG được áp dụng riêng theo những loại hình tranh chấp nhất định như tranh chấp về dân sự, tranh chấp về hôn nhân gia đình, tranh chấp về kinh doanh thương mại hay tranh chấp về lao động được thực hiện theo quy định của Bộ luật TTDS Việt Nam hiện hành. - Về mặt thời gian, đề tài nghiên cứu các cơ sở pháp lý, lịch sử trong quá trình hình thành và phát triển TTRG trong TTDS Việt Nam từ năm 1945 đến nay. - Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi của chuyên ngành Luật Kinh tế. 5 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử theo quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, đó là tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, đồng thời giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội, được hình thành từ một cơ sở hạ tầng phù hợp. Pháp luật được coi là tấm gương phản chiếu xã hội, còn về phần mình, xã hội được coi là cơ sở thực tiễn của pháp luật. Các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng là phương pháp luận để nghiên cứu đề tài, vì các quy định của pháp luật phải phù hợp bới sự phát triển của các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội thì mới có tính khả thi trong quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật, tạo cơ sở cho sự ổn định và phát triển của xã hội Việt Nam. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Trong quá trình nghiên cứu, học viên sử dụng phương pháp lịch sử để nghiên cứu tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của TTRG qua các thời kỳ lịch sử của Việt Nam. Phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp được áp dụng xuyên suốt trong tất cả các chương, mục của luận văn khi làm rõ các vấn đề liên quan đến việc áp dụng TTRG khi giải quyết TCDS nói chung. Phương pháp so sánh để tìm hiểu những nét tương đồng và khác biệt của pháp luật Việt Nam và pháp luật một số nước trên thế giới quy định về TTRG khi giải quyết các TCDS nói chung. Phương pháp thống kê khi nghiên cứu các báo cáo công tác xét xử, các bản án của TAND các cấp trong hệ thống Tòa án khi giải quyết các TCDS nói chung để thấy được sự cần thiết áp dụng TTRG. Phương pháp hệ thống hóa và khái quát hóa nhằm đưa ra những giải pháp ban đầu cho việc áp dụng TTRG vào TTDS Việt Nam. 6 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Nội dung của luận văn có ý nghĩa thiết thực, là cơ sở để có cái nhìn toàn diện hơn, thống nhất hơn về hệ thống pháp luật và thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành quy định về TTRG, qua đó phát hiện những vướng mắc bất cập, sai sót trong quá trình áp dụng pháp luật về TTRG vào thực tiễn xét xử các vụ án tranh chấp về dân sự nói chung, trên cơ sở đó đề cập những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về TTRG để có thể đảm bảo tối đa nhất quyền và lợi ích của các bên đương sự, đảm bảo sự khách quan, công bằng, có tình, có lý, tiết kiệm được thời gian và chi phí giữa các bên đương sự. 7. Cơ cấu của luận văn Luận văn ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về TTRG trong pháp luật tố tụng dân sự. Chương 2: Thực trạng áp dụng TTRG theo pháp luật TTDS ở Việt Nam hiện nay. Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về TTRG theo pháp luật TTDS ở Việt Nam hiện nay. 7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. Cơ sở lý luận về thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự 1.1.1.1. Khái niệm thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự Nhằm giải quyết nhanh gọn các TCDS nói chung và giảm tải cho Tòa án thì nhiều nước trên thế giới, bên cạnh thủ tục giải quyết các tranh chấp dân sự thông thường còn quy định một loại thủ tục đơn giản hơn về thành phần hội đồng xét xử, về thời gian tiến hành tố tụng… đối với các vụ án đơn giản, có nội dung tranh chấp tương đối rõ ràng, bị đơn đã thừa nhận hoặc không phản đối yêu cầu của nguyên đơn, các vụ án có giá ngạch thấp hoặc do các bên đương sự lựa chọn giải quyết theo hình thức đơn giản. Thủ tục đó được gọi tên ở các nước khác nhau, nhưng bản chất đều là thủ tục đơn giản, gọn nhẹ hơn so với TTTT. Có thể thấy rằng, bên cạnh thủ tục tố tụng thông thường, nhiều nước đã xây dựng TTRG (summary procedure) để áp dụng xử lý những vi phạm pháp luật nhỏ, giải quyết những tranh chấp, khiếu kiện có giá trị thấp, những vụ việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án, khắc phục nhanh chóng những vấn đề nảy sinh trong xã hội, tiết kiệm thời gian, vật chất cho Tòa án và các đương sự, không làm trầm trọng thêm những vụ việc có thể giải quyết nhanh, theo trình tự đơn giản, góp phần ổn định xã hội. Có nhiều cách hiểu khác nhau về TTRG trong TTDS: Theo pháp luật Pháp, “TTRG”, “thủ tục đơn giản” hay “thủ tục giản lược” (procedure sommaire/summary procedure, simplified procedure) là “thủ tục tố tụng theo đó các thủ tục được đơn giản hóa hơn so với thủ tục tố tụng thông thường, được áp dụng trước các Tòa án theo thông luật hoặc trước các Tòa án có thẩm quyền chung trong những trường hợp đặc biệt.” [2, tr.706] Theo pháp luật Hoa Kỳ, thủ tục tố tụng giản lược được hiểu là một thủ tục đơn giản hóa so với TTTT, chỉ được áp dụng trong một số trường hợp nhất định, xét 8 xử không có bồi thẩm đoàn, được áp dụng “để giải quyết các tranh chấp hoặc kết thúc vụ việc một cách tương đối nhanh chóng và đơn giản.” [39, tr.559] Ngoài hai nước đại diện cho hai hệ thống pháp luật phổ biến của thế giới nêu trên, nhiều nước khác dù thuộc hệ thống pháp luật nào, với điều kiện kinh tế - xã hội, kinh nghiệm lập pháp, trình độ dân trí… không giống nhau nhưng đều xác định TTRG trong TTDS là một thủ tục riêng biệt, độc lập bên cạnh thủ tục tố tụng thông thường, áp dụng để giải quyết một số loại tranh chấp đơn giản bởi thành phần giải quyết rút gọn, trình tự và thời gian giải quyết đơn giản hơn so với TTTT. Ví dụ như tại Nhật Bản, Tòa án đơn giản có thẩm quyền giải quyết những vụ án liên quan đến yêu cầu có giá trị không vượt quá 1,4 triệu yên. Luật nước này công nhận các quy định đặc biệt nhằm đơn giản hóa thủ tục khởi kiện, xét xử như: việc khởi kiện có thể thực hiện bằng miệng. Đương sự không cần phải chuẩn bị văn bản mà chỉ cần có mặt vào ngày tranh luận miệng để nêu ý kiến là đủ. Tòa khi thấy phù hợp có quyền yêu cầu nộp văn bản thay cho việc hỏi người làm chứng, đương sự hoặc người giám định, không phụ thuộc vào việc các bên đương sự có phản đối hay không. Tại Trung quốc thì TTRG là khi hai bên đương sự có thể đồng thời đến Tòa đề nghị giải quyết tranh chấp. Tùy từng trường hợp, Tòa án có thể xét xử ngay hoặc định một ngày khác. Đồng thời, Tòa có thể thông báo miệng cho các đương sự về nội dung khởi kiện. [46] Nhìn lại lịch sử pháp luật về TTDS ở Việt Nam, theo quy định của pháp luật trong thời kỳ của các chế độ cũ, TTRG đã sớm được áp dụng để giải quyết một số loại tranh chấp cụ thể: Theo “Bắc kỳ pháp viện biên chế” công bố bằng Nghị định ngày 2/12/1921 được thi hành tại toàn cõi Bắc kỳ, thì Tòa án cấp sơ thẩm có quyền giải quyết sơ thẩm và chung thẩm nếu giá ngạch không quá 30 đồng bạc (Điều 6); Tòa án tỉnh có quyền giải quyết sơ thẩm và chung thẩm nếu giá ngạch quá 30 đồng bạc và không tới 100 triệu đồng bạc (Điều 13). [12, tr. 255] Tại miền trung Việt Nam, theo Nghị định ngày 20/10/1947 của Hội đồng chấp tránh lâm thời Trung kỳ về sửa đổi giá ngạch cũ có quy định: Các Tòa án đệ nhị cấp 9 xử chung thẩm các việc tương tranh động sản hoặc đối với người, việc thương sự; việc đòi tiền bồi hoàn hay bồi thường với giá ngạch trên 500đ nhưng dưới 1500đ, về bất động sản theo giá ngạch đồng niên không quá 150đ (Điều 19). [12, tr. 255] Ở Miền Nam Việt Nam, theo sắc lệnh ngày 27/12/1943 có quy định: Tòa xử sơ thẩm và chung thẩm các tố quyền đối nhân và động sản đến mức 7500 quan tức 750đ giạ lúa (mỗi giạ trọng lượng 20 kilo), các tố quyền bất động sản lợi tức đồng niên 40 giạ lúa hay 300 quan hay 30đ mỗi năm. Theo Điều 16 BLDS và thương sự ngày 20/1/1972 của chính quyền Sài Gòn, thì những vụ kiện về động sản có giá trị dưới 60.000đồng (thời điểm 1972) được coi là có giá ngạch thấp. [12, tr. 255] Từ điển Tiếng Việt không có thuật ngữ “TTRG” hay “thủ tục giản lược”, đây là một khái niệm khá mới mẻ và được du nhập từ bên ngoài. Tác giả Nguyễn Công Bình trong một đề tài nghiên cứu cấp bộ “Vấn đề xây dựng thủ tục TTDS rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế hiện nay – Thực trạng và giải pháp” đã đưa ra khái niệm về TTRG trong TTDS, theo đó TTRG trong TTDS là “thủ tục tố tụng để giải quyết đối với những tranh chấp nhỏ, đơn giản và có chứng cứ rõ ràng…” [37, tr.133] Cùng trong đề tài nghiên cứu cấp bộ trên, tác giả Trần Anh Tuấn lại đưa ra khái niệm khá cụ thể và chi tiết hơn: “Thủ tục TTDS rút gọn là loại hình thủ tục tố tụng được giản lược, do một thẩm phán tiến hành giải quyết đối với các vụ kiện dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động có nội dung đơn giản, rõ ràng hoặc có giá trị nhỏ theo một trình tự tố tụng đơn giản, nhanh chóng, phán quyết của Tòa án có hiệu lực pháp luật ngay hoặc có thể bị phản kháng để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm thông thường hoặc thủ tục phúc thẩm được giản lược”. [37, tr.15] Khái niệm TTRG lần đầu tiên được quy định tại điều 316 BLTTDS năm 2015: “TTRG là thủ tục tố tụng được áp dụng để giải quyết vụ án dân sự có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật này với trình tự đơn giản so với thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thông thường nhằm giải quyết vụ án nhanh chóng nhưng vẫn bảo đảm đúng pháp luật”. [26, tr. 245] 10 Theo tác giả luận văn, có thể hiểu về TTRG trong TTDS như sau: TTRG trong TTDS là một quy trình tố tụng riêng biệt được Tòa án áp dụng để giải quyết các TCDS có nội dung đơn giản, rõ ràng, có giá ngạch thấp hoặc các bên đương sự thỏa thuận lựa chọn thủ tục này, theo đó trong một thời gian ngắn thẩm phán độc lập tiến hành xem xét và ra phán quyết về vụ án tranh chấp mà không nhất thiết phải tuân theo tuần tự các bước như trong TTTT. Như vậy, TTRG là một chế định mới, lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật TTDS 2015. Mục đích của việc áp dụng TTRG là để giải quyết vụ án dân sự với trình tự, thủ tục đơn giản so với thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thông thường, nhằm giải quyết vụ án nhanh chóng nhưng vẫn bảo đảm đúng pháp luật. 1.1.1.2. Đặc điểm của thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự Thủ tục rút gọn được áp dụng để giải quyết các vụ việc dân sự có giá trị tranh chấp không lớn, những vụ việc dân sự đơn giản. TTRG tồn tại bên cạnh thủ tục TTDS thông thường, với bản chất đơn giản, rút gọn về thủ tục và rút ngắn về thời gian cũng như về thành phần giải quyết và tham gia tố tụng, TTRG không thể là một thủ tục có thể áp dụng cho việc giải quyết tất cả các vụ án về TCDS. Đối với những tranh chấp phức tạp, chứng cứ không rõ ràng hoặc không có sự thừa nhận nghĩa vụ từ đương sự… không thể giải quyết một cách đơn giản và rút gọn được, bởi lẽ cần phải cung cấp, thu thập, tổng hợp, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ một cách kỹ lưỡng để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án cũng như cần phải tiến hành các hoạt động hòa giải và việc giải quyết cần thông qua một tập thể để bảo đảm phán quyết được đưa ra đúng đắn. Ngược lại, đối với những vụ án đơn giản, giá trị tranh chấp nhỏ hoặc đã có sự thừa nhận nghĩa vụ của đương sự, Tòa án không nhất thiết phải cần nhiều thời gian, phải tiến hành tất cả những hoạt động tố tụng và phải xét xử vụ án bởi một tập thể… mà vẫn có thể giải quyết vụ án một cách chính xác, đúng đắn và bảo vệ một cách hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đồng thời giúp đương sự và Tòa án tiết kiệm thời gian, chi phí. Chính vì thế, TTRG là một thủ tục chỉ để giải quyết đối với những tranh chấp đặc thù, đáp ứng các điều kiện cơ bản do luật định 11 như: tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng, các đương sự thừa nhận nghĩa vụ hoặc giá ngạch thấp. Kinh nghiệm áp dụng TTRG ở nhiều nước trên thế giới sau khi phân tích và so sánh nhận thấy giá trị tranh chấp là một trong những căn cứ để Tòa án khi thụ lý quyết định tranh chấp đó được giải quyết theo TTTT hay TTRG. Ở Pháp, theo điều R221-3, điều R221-4 và điều R231-3 Luật tổ chức tư pháp năm 2012, những tranh chấp có giá trị nhỏ không vượt quá 4.000Euro (EUR) được giải quyết theo TTRG bởi một thẩm phán tại Tòa sơ thẩm có thẩm quyền hẹp hoặc Tòa án cơ sở. Ở Đức, TTRG được quy định trong quyển 7, Bộ luật tố tụng Dân sự Đức áp dụng đối với những vụ khiếu kiện nhỏ có giá ngạch dưới 6000EUR và được giải quyết bởi Tòa án địa hạt. [20, tr.17] Ở Vương quốc Anh, vụ kiện có giá trị 10.000 Bảng Anh (GBP) trở xuống được coi là vụ kiện nhỏ, được giải quyết theo TTRG bởi Tòa án địa hạt. [40] Tại Mỹ, pháp luật các bang đều cơ bản quy định rằng vụ án có giá ngạch thấp được coi là vụ kiện nhỏ và được giải quyết theo thủ tục giản lược, giá ngạch thấp được từng tiểu bang quy định, cơ bản từ 2500USD đến 25.000USD. [41] Nhiều nước khu vực cũng quy định áp dụng TTRG để giải quyết các TCDS nhỏ, có giá trị không lớn. Nhật Bản quy định các vụ kiện có giá trị dưới 900.000đ Yên Nhật (JPY) được giải quyết theo TTRG, Thái Lan dưới 50.000 Bạt Thái, Hàn Quốc dưới 5.000.000 won Hàn. [36, tr.181-184] Bên cạnh tiêu chí giá trị tranh chấp không lớn, một số nước còn áp dụng TTRG vào giải quyết các TCDS đơn giản mà không phụ thuộc vào giá trị tranh chấp. Ở Pháp, theo điều 1405 Bộ luật tố tụng Dân sự Pháp, thủ tục ra lệnh thanh toán nợ là một thủ tục đơn giản được thực hiện bởi Tòa án trong những trường hợp có yêu cầu về: khoản nợ có nguồn gốc từ một hợp đồng hoặc từ một nghĩa vụ theo điều lệ và là một số tiền nhất định; nếu là do hợp đồng thì được xác định theo các điều khoản của hợp đồng, kể cả điều khoản phạt (nếu có); nợ do cam kết nhận hoặc rút hối phiếu, ký nhận một kỳ phiếu, chuyển nhượng hoặc bảo lãnh các loại tín phiếu hoặc nhận chuyển nhượng một khoản nợ. [20, tr.18] 12 Tại vương quốc Anh, TTRG cũng áp dụng giải quyết các vụ án mà giá trị tranh chấp lớn hơn 10.000 bảng Anh nhưng nội dung tranh chấp đơn giản và các đương sự đều đồng ý áp dụng TTRG. Các loại án này thường là các khiếu kiện về tiêu dùng, các tranh chấp giữa chủ nhà và người thuê nhà về việc sửa chữa, đặt cọc, khu vực thuê…nhưng không phải về quyền sở hữu, nợ lương hoặc tiền bồi thường, khiếu nại về tai nạn, tranh chấp về quyền sở hữu hàng hóa… [20, tr.5] Thủ tục giải quyết đơn giản, thời hạn giải quyết được rút ngắn, thường được giải quyết bằng một thẩm phán Một là, thủ tục giải quyết đơn giản, rút gọn về trình tự và các bước tố tụng: Ở Pháp, trình tự giải quyết tranh chấp theo TTRG khá đơn giản, đối với các vụ án có giá ngạch thấp, theo điều 1407 BLTTDS Pháp các bên phải cung cấp đầy đủ thông tin về vụ tranh chấp để thẩm phán xem xét. Sau đó, thẩm phán sẽ triệu tập hai bên đến một phiên hòa giải. Nếu các bên không hòa giải được, thẩm phán sẽ đưa ra phán quyết trên cơ sở hồ sơ chứng cứ do các bên cung cấp và chỉ triệu tập các bên đến để nghe phán quyết. [20, tr.8] Trình tự giải quyết tranh chấp theo TTRG ở Anh cũng khá đơn giản. Các vụ kiện thuộc đối tượng áp dụng TTRG do một thẩm phán thay vì bồi thẩm đoàn giải quyết. Sau khi thụ lý vụ án, nếu tranh chấp thuộc vụ kiện nhỏ, trong thông báo thụ lý Tòa án sẽ nêu rõ vụ kiện thuộc loại hình nào và các đương sự phải chuẩn bị những công việc gì cho phiên tòa và thời gian dự kiến mở phiên tòa. Việc thu thập chứng cứ cũng không buộc phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về chứng cứ. Phiên tòa có thể được xét xử công khai hoặc xét xử kín, Tòa án có thể áp dụng bất cứ trình tự tố tụng, phương thức điều hành tại phiên tòa mà Tòa án cho là công bằng, không yêu cầu nhất thiết người khai tuyên thệ hoặc đối chất. Trong trường hợp xét thấy không cần thiết mở phiên tòa mà chỉ cần căn cứ vào các chứng cứ mà các bên xuất trình có thể giải quyết được tranh chấp, Tòa án đề xuất không phải mở phiên tòa, nếu đương sự phản đối thì Tòa án phải mở phiên tòa để giải quyết vụ việc. Việc không phản hồi của đương sự có thể được coi là đồng ý với đề xuất của Tòa án và vụ việc sẽ được giải quyết trên cơ sở hồ sơ vụ kiện. [20, tr.9] 13 Có thể thấy rằng, trong trường hợp căn cứ vào hồ sơ vụ án thấy tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng, theo yêu cầu của một bên đương sự, thẩm phán sẽ thụ lý vụ án theo TTRG, bên đưa ra yêu cầu cần phải chứng minh rằng đối với sự kiện hoặc vấn đề mà bên yêu cầu đang đề nghị Tòa án đưa ra phán quyết rút gọn trên thực tế rõ ràng không tồn tại tranh chấp và vì vậy, bên yêu cầu xứng đáng được nhận một phán quyết nhanh gọn trên cơ sở của pháp luật. Trình tự giải quyết tranh chấp theo TTRG được cải cách theo hướng đơn giản hơn nhiều so với thủ tục tố tụng thông thường, được thiết kế một cách gọn nhẹ ngay từ khâu yêu cầu khởi kiện để Tòa án giải quyết, các bước tiến hành giải quyết vụ kiện cũng được quy định đơn giản hóa tối đa. Đối với vụ kiện đơn giản Tòa án có thể giải quyết ngay hoặc quyết định vào một ngày khác nhưng thời hạn giải quyết các loại việc theo TTRG không quá thời hạn theo pháp luật quy định đối với trường hợp giải quyết theo TTRG. Hai là, rút gọn về cấp xét xử: Về cơ chế kháng cáo phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm được giải quyết theo TTRG quy định của các nước không giống nhau. Một số nước quy định rõ không cho phép kháng cáo. Như tại Pháp, đương sự không được quyền kháng cáo phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm được giải quyết theo TTRG nếu như giá ngạch của vụ án đó có giá trị dưới 4.000 EUR. Đối với Đức, những tranh chấp có giá ngạch dưới 6.000 EUR, đương sự không có quyền yêu cầu phúc thẩm. Đối với Trung Quốc, không ghi nhận quyền kháng cáo đối với các phán quyết khi giải quyết theo TTRG trong TTDS. Một số nước khác vẫn cho phép kháng cáo đối với một số hoặc toàn bộ phán quyết khi áp dụng TTRG trong đó có Việt Nam. Như ở Đức, chỉ cho phép đương sự kháng cáo đối với tranh chấp có giá ngạch từ 6.000 EUR trở lên hoặc khi được Tòa án sơ thẩm cho phép và ghi rõ trong bản án. Đối với Anh, đương sự có quyền kháng cáo quyết định của thẩm phán với điều kiện đương sự đó đã tham gia phiên tòa và yêu cầu kháng cáo có cơ sở và được đưa ra ngay sau khi kết thúc phiên tòa. Pháp luật TTDS Anh cho phép quyền kháng cáo nhưng quyền kháng cáo phải được thực hiện một cách nhanh chóng, thời hạn rất giới hạn. Đương sự thua kiện có quyền kháng cáo 14 chống lại quyết định của thẩm phán với điều kiện đương sự đó phải tham gia phiên xét xử và phải yêu cầu với thẩm phán cho phép kháng cáo khi kết thúc phiên xét xử. [20, tr.12] Như vậy, đối với các phán quyết giải quyết theo TTRG ở nhiều quốc gia, pháp luật tố tụng không cho phép kháng cáo hoặc cho phép kháng cáo phúc thẩm, đây là một thiết chế nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của đương sự được bảo vệ một cách triệt để. Ba là, thời hạn giải quyết theo TTRG được rút ngắn: Với mục tiêu chung khi xây dựng TTRG là nhằm đơn giản hóa thủ tục, giải quyết nhanh, có hiệu quả các tranh chấp nhỏ, đơn giản… Chính vì vậy, pháp luật TTDS của nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam khi quy định về TTRG trong TTDS đều có ghi nhận về thời gian giải quyết vụ án ngắn hơn so với thủ tục TTDS thông thường. Trung Quốc thời hạn giải quyết tranh chấp theo TTRG là không quá ba tháng, Hàn Quốc là hai tháng rưỡi so với TTTT là sáu tháng, ở Anh thời gian trung bình giải quyết xong một vụ kiện có giá trị tranh chấp nhỏ là 31 tuần… [43] Khi giải quyết vụ án TCDS theo TTRG bao gồm cả việc rút gọn một hoặc một số trình tự, thủ tục và giai đoạn tố tụng thì đương nhiên thời gian xét xử theo TTRG cũng được rút ngắn hơn. Ngắn gọn hơn bao nhiêu là vấn đề không đơn thuần dựa vào một tiêu chí cụ thể nào đó mà phụ thuộc vào nhiều yếu tố: bản chất của tranh chấp, trình tự, thủ tục tố tụng nào được rút gọn, khối lượng công việc của thẩm phán, đội ngũ giúp việc của thẩm phán… Bốn là, rút gọn về thành phần tham gia giải quyết tranh chấp: Về thành phần tham gia giải quyết tranh chấp theo TTRG có sự thừa nhận chung theo hướng: việc giải quyết và xét xử chỉ do một thẩm phán tiến hành từ khi thụ lý cho đến khi xét xử sơ thẩm. Cơ chế một thẩm phán xét xử mà không có sự tham gia của Bồi thẩm đoàn nhằm đẩy nhanh tiến trình giải quyết một số vụ việc dân sự, giảm bớt chi phí tố tụng, tiết kiệm cho ngân sách nhà nước cũng như đương sự, đồng thời nâng cao trách nhiệm cá nhân của thẩm phán và điều quan trọng hơn cả là vì TTRG chỉ áp dụng để 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan