Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp ở tỉnh đồng nai...

Tài liệu Thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp ở tỉnh đồng nai

.DOC
98
21
58

Mô tả:

BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ NGÔ TIẾN DŨNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2014 BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ NGÔ TIẾN DŨNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH ĐỒNG NAI CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÃ SỐ: 60 31 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS VŨ QUANG LỘC HÀ NỘI - 2014 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU Chương 1 1.1. 1.2. Chương 2 2.1. 2.2. 2.3. Chương 3 3.1. 3.2. 3 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM Thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp ở nước ta Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư vào khu công nghiệp ở một số tỉnh, thành phố trong nước và bài học rút ra cho tỉnh Đồng Nai THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH ĐỒNG NAI Một số nét chính về phát triển các khu công nghiệp ở Đồng Nai Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp ở Đồng Nai thời gian qua Những vấn đề đặt ra cần giải quyết để thu hút vốn đầu tư trong thời gian tới GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH ĐỒNG NAI ĐẾN NĂM 2020 Xác định nhu cầu vốn đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh đến năm 2020 Những giải pháp thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp ở Đồng Nai đến năm 2020 KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 9 9 25 37 37 43 56 61 61 63 79 81 86 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt Chính trị quốc gia CTQG Chủ nghĩa xã hội CNXH Công nghiệp hóa CNH Công nghiệp hỗ trợ CNHT Doanh nghiệp DN Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Hiện đại hóa HĐH Khu chế xuất KCX Khu công nghệ cao KCNC Khu công nghiệp KCN Kinh tế - xã hội KT-XH Quản lý Nhà nước QLNN Thu nhập doanh nghiệp TNDN Tổng sản phẩm thu nhập quốc nội GDP Ủy ban nhân dân UBND 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong sự nghiệp CNH, HĐH việc xây dựng, phát triển các KCN đóng vai trò hàng đầu để xây dựng, phát triển nền công nghiệp hiện đại của đất nước. Đây là một chủ trương chiến lược của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình thực hiện CNH, HĐH. Đồng Nai là một tỉnh đi đầu cả nước trong xây dựng, phát triển các KCN nhờ sớm nhận thức được tầm quan trọng và sử dụng tốt các lợi thế, các điều kiện thuận lợi sẵn có của mình. Đến nay, sự ra đời và phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh đã góp phần rất quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hình thành cơ cấu Công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp ngày càng tiên tiến, giải quyết việc làm, tăng GDP, cải thiện đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho người lao động,… Điều có ý nghĩa quan trọng, lâu dài là việc hình thành, phát triển các KCN đã tạo ra khả năng để thu hút vốn, tiếp nhận các công nghệ và kỹ thuật sản xuất hiện đại, các kinh nghiệm quản lý tiên tiến, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao cho sự phát triển lâu dài của tỉnh và các khu vực xung quanh. Một trong những yếu tố có ý nghĩa quyết định để có thể phát triển nhanh và bền vững các KCN là đảm bảo vốn đầu tư mà con đường chủ yếu là thu hút vốn đầu tư từ các thành phần, tổ chức kinh tế trong nước và các tập đoàn, công ty, doanh nghiệp nước ngoài. Mặc dù đã đạt được những kết quả quan trọng, rất đáng khích lệ song việc thu hút vốn đầu tư để lấp đầy các KCN trên địa bàn tỉnh hiện nay cũng còn không ít khó khăn. Một số KCN đã có đầu tư cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh nhưng tỷ lệ doanh nghiệp đăng ký đầu tư còn thấp. Một số KCN có vị trí thuận lợi nhưng việc thu hút doanh nghiệp vào đầu tư cũng chậm. Tóm lại, vấn đề thu hút vốn đầu tư cho các khu công nghiệp trên địa bàn đang là vấn đề thời sự cấp bách của tỉnh. 4 Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai nhiệm kỳ 2010-2015 xác định quyết tâm phấn đấu đưa tỉnh Đồng Nai sớm hoàn thành mục tiêu CNH, HĐH so với mốc thời gian chung của cả nước. Để thực hiện mục tiêu đó cần phải nỗ lực phấn đấu trên nhiều lĩnh vực, nhiều mặt hoạt động của Đảng bộ và nhân dân toàn tỉnh. Song, một trong những vấn đề rất quan trọng phải phấn đấu để đạt được là đẩy nhanh việc thu hút các nhà đầu tư vào lấp đầy các KCN đã xây dựng và đã được phê duyệt đến năm 2020 trên địa bàn của tỉnh. Nhằm góp một số suy nghĩ vào việc giải quyết vấn đề rất khó khăn này của tỉnh, tôi lựa chọn vấn đề: “Thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp ở tỉnh Đồng Nai” làm đề tài thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị. Luận văn nghiên cứu việc thu hút vốn dưới góc độ giải quyết lợi ích kinh tế của các bên tham gia đầu tư, phù hợp với đối tượng nghiên cứu của chuyên ngành Kinh tế Chính trị. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Từ năm 1986 đến nay, khi Đảng, Nhà nước ta có chủ trương xây dựng và phát triển các khu công nghiệp đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề có liên quan tới khu công nghiệp, tiêu biểu là: Các sách liên quan đến đề tài nghiên cứu: GS, TS Trần Văn Chử (2006), “Tài nguyên thiên nhiên môi trường và phát triển bền vững ở Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. PTS Nguyễn Khắc Thân, PGS.PTS Chu Văn Cấp (1996), “ Những giải pháp chính trị, kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Chu Viết Luân (2005), “Đồng Nai thế và lực mới trong thế kỷ XXI”, Nxb CTQG, HN. Ấn tượng Đồng Nai (2005-2010), Nxb Tổng hợp Đồng Nai. Các tạp chí liên quan đến đề tài nghiên cứu: Trịnh Gia Ban, Nguyễn Kim Đỉnh (1997), “Công ty phát triển khu công nghiệp Biên Hòa một mô 5 hình mới, có hiệu quả ở Việt Nam”, Tạp chí cộng sản, số 15. Phạm Sơn Khanh (2003), “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động các khu công nghiệp tỉnh Bình Dương”, Tạp chí Cộng sản, số 12. Anh Minh (2006), “Nhộn nhịp dòng chảy đầu tư”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số 48. Anh Minh (2006), “Phân cấp mạnh”, Thời báo Kinh tế Gài gòn, số 50. Phan Minh Ngọc (2006), “FDI tạo ra sự bất bình đẳng thu nhập”, Thời báo Kinh tế Gài gòn, số 50. Phạm Khôi Nguyên (2006), “Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Cộng sản, số 10. Nghệ Nhân (2006), “Vốn vẫn chảy về khu vực quốc doanh”, Thời báo Kinh tế Gài gòn, số 50. Vũ Huy Hoàng (2007), “Tổng quan về hoạt động của các khu công nghiệp”, kỷ yếu khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Các báo cáo công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài nghiên cứu Đối với các bộ, ngành ở Trung ương và các địa phương trong nước: Bộ Kế hoạch Đầu tư (2013), “Báo cáo tổng kết 25 năm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam”. Bộ Tài chính (2012), “Thông tư 123/2012/TT-BTC ngày 27/7/2012 hướng dẫn về thuế TNDN”. Trần Văn Phùng (2009), “Chính sách thương mại và công nghiệp nhằm phát triển bền vững công nghiệp Việt Nam”, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Lê Hồng Yến (2008), “Nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội các khu công nghiệp miền Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế tại Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Hà Thị Thúy (2010), “Hoàn thiện chính sách cơ chế quản lý Nhà nước đối với các khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay (qua thực tiễn khu công nghiệp các tỉnh phía Bắc)”, Luận án tiễn sĩ tại trường Đại học Thương mại. Ban Quản lý KCN tỉnh Bắc Ninh (2013), “Báo cáo tình hình hoạt động các KCN Bắc Ninh năm 2013”. Ban Quản lý KCN tỉnh 6 Bình Dương (2013), “Báo cáo tình hình hoạt động các KCN Bình Dương năm 2013”. Ban Quản lý KCN &KCX Thành phố Hà Nội (2013), “Báo cáo tình hình hoạt động các KCN Hà Nội năm 2013”. Ban Quản lý KCX-KCN TP. Hồ Chí Minh (2013), “Báo cáo tình hình hoạt động các KCX-KCN TP. Hồ Chí Minh năm 2013”. Ban Quản lý KCX-KCN TP. Hồ Chí Minh (2014), “Báo cáo tình hình hoạt động các KCX-KCN TP. Hồ Chí Minh quí I/2014”. Đối với tỉnh Đồng Nai: Ban Quản lý KCN tỉnh Đồng Nai (2007), “Báo cáo tình hình hoạt động các KCN Đồng Nai năm 2007”. Ban Quản lý KCN tỉnh Đồng Nai (2008), “Báo cáo tình hình hoạt động các KCN Đồng Nai năm 2008”. Ban Quản lý KCN tỉnh Đồng Nai (2009), “Báo cáo tình hình hoạt động các KCN Đồng Nai năm 2009”. Ban Quản lý KCN tỉnh Đồng Nai (2010), “Báo cáo tình hình hoạt động các KCN Đồng Nai năm 2010”. Ban Quản lý KCN tỉnh Đồng Nai (2011), “Báo cáo tình hình hoạt động các KCN Đồng Nai năm 2011”. Ban Quản lý KCN tỉnh Đồng Nai (2012), “Báo cáo tình hình hoạt động các KCN Đồng Nai năm 2012”. Ban Quản lý KCN tỉnh Đồng Nai (2014), “Báo cáo tình hình hoạt động các KCN Đồng Nai quý I/2014”. Nhìn chung, nội dung bài viết trong các sách, báo, tạp chí nêu trên đã đề cập chủ yếu đến nội dung xoay quanh vấn đề xây dựng các KCN, vốn nói chung trong đầu tư các KCN trên địa bàn cả nước, hoặc đề cập đến những mặt được và chưa được trong hoạt động của các KCN. Những bài viết có nội dung liên quan đến Đồng Nai, các KCN Đồng Nai và các địa phương khác có những khía cạnh về qui mô, hướng phát triển các KCN. Qua nghiên cứu, người viết luận văn này đã rút tỉa được những nội dung quan trọng và định hướng nội dung bài viết của mình. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên tập trung vào những vấn đề chung trên phạm vi tổng thể cả nước hoặc trên địa bàn một vùng, một tỉnh khác, trong đó 7 chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ quản lý kinh tế, kinh tế phát triển và có một số đề tài nghiên cứu kinh tế chính trị nhưng lại trên địa bàn tỉnh khác. Riêng ở Đồng Nai đã có một số công trình khoa học dưới góc độ kinh tế chính trị nghiên cứu về thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nhưng lại nghiên cứu ở góc độ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các khu công nghiệp. Đề tài mà học viên lựa chọn nghiên cứu không trùng với các công trình khoa học đã công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu - Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp ở Việt Nam. - Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp chủ yếu đẩy nhanh việc tiếp tục thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp trong thời gian tới. * Nhiệm vụ nghiên cứu - Luận giải vấn đề lý luận của việc thu hút vốn đầu tư vào KCN. - Khảo sát kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư vào KCN trên địa bàn 1 số tỉnh, thành ở Việt Nam từ đó rút ra các bài học có thể áp dụng cho Đồng Nai trong thu hút vốn đầu tư vào KCN. - Đánh giá thực trạng thu hút vốn vào đầu tư ở các KCN Đồng Nai thời gian qua và những vấn đề đặt ra cần giải quyết. - Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh việc thu hút vốn đầu tư vào các KCN ở Đồng Nai trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu Quá trình thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp. * Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu quá trình thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai từ năm 2005 đến nay. 8 Nội hàm nghiên cứu là thực trạng và giải pháp thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, không bàn sâu đến việc quản lý và sử dụng vốn đầu tư trong nội dung luận văn này. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu * Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về CNH, HĐH nền kinh tế theo định hướng XHCN. * Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp biện chứng duy vật, luận văn sử dụng các phương pháp đặc thù của chuyên ngành Kinh tế Chính trị như: trừu tượng hóa khoa học, phân tích, tổng hợp, thống kê, điều tra so sánh, phương pháp chuyên gia và một số phương pháp khác đang được sử dụng trong nghiên cứu kinh tế. 6. Ý nghĩa của luận văn Từ việc làm rõ hơn một số vấn đề thu hút vốn đầu tư vào phát triển công nghiệp trên địa bàn một tỉnh và sự phân tích đánh giá thực trạng, đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh quá trình thu hút vốn đầu tư. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan lãnh đạo, quản lý của tỉnh Đồng Nai trong hoạch định phương hướng phát triển các ngành công nghiệp trong thời gian tới. Làm tài liệu tham khảo cho dạy và học môn Kinh tế chính trị ở các trung tâm đào tạo trong tỉnh. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục luận văn gồm 3 chương 7 tiết. 9 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM 1.1. Thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp ở nước ta 1.1.1. Khu công nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Khu công nghiệp Việt Nam hình thành và phát triển gắn liền với công cuộc đổi mới, mở cửa nền kinh tế với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa được Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Điều đó được thể hiện trong nội dung các Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IV (năm 1986) đến nay. Qua các kỳ Đại hội VII, VIII, IX, X, XI Đảng ta đã đề ra những đường lối, chủ trương đổi mới mạnh mẽ và toàn diện nền kinh tế, tiến hành CNH, HĐH đất nước. Trong đó, Đảng ta tiếp tục khẳng định và chỉ ra rằng: “Hình thành các KCN tập trung (bao gồm cả KCX và khu công nghệ cao), tạo địa bàn thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới”, [22, tr.179], “Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tận dụng thời cơ tăng nhanh khả năng tiếp nhận, thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến, hiện đại của nước ngoài; đồng thời nâng dần tỷ lệ góp vốn của phía Việt Nam trong các cơ sở liên doanh”, [22, tr.37], “Quy hoạch phân bố hợp lý công nghiệp trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các KCN, KCX, xây dựng một số khu công nghệ cao, hình thành các cụm công nghiệp lớn và các khu kinh tế mở”, [23, tr.174], “Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện các hình thức đầu tư, nâng cao khả năng cạnh tranh trong việc thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài”, [23, tr.200], “Mở rộng lĩnh vực, địa bàn và hình thức thu hút FDI, hướng vào những thị trường giàu tiềm năng và các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng và chất lượng, hiệu quả nguồn FDI”, [24, tr.204-205], “Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường, 10 khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học - công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến”, [25, tr.236]. Với quá trình CNH, HĐH trên phạm vi cả nước ta, nhiều KCN đã hình thành và phát triển. Điều đó đã và đang làm cho diện mạo của nền kinh tế nước ta có nhiều thay đổi. Hình dáng của một đất nước công nghiệp đang dần được lộ rõ để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Các KCN của thời đại ngày nay cũng đã có những biến đổi so với các thế kỷ trước nhờ những thành tựu của khoa học, công nghệ và quản lý trong thời kỳ quốc tế hóa đời sống kinh tế toàn cầu. Khu công nghiệp (industrial zone, industrial park, industrial estate) được hiểu là các khu, mà trên đó tập trung các doanh nghiệp chuyên môn hóa sản xuất các hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho các sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống. Trong phạm vi của KCN có thể có những doanh nghiệp chế xuất. Tuy nhiên hoạt động chế xuất ở nước ta hiện nay thường tập trung ở các KCX mà thực chất là KCN chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu các hàng hóa đã sản xuất ra. Khu công nghiệp là nơi tập trung nguồn lực để phát triển công nghiệp. Các nguồn lực này bao gồm cả các thành phần và tổ chức kinh tế trong nước, các nhà đầu tư nước ngoài… Khi xây dựng các KCN, chúng ta phải xác định rõ ràng các mục tiêu quan trọng như: thu hút nguồn vốn đầu tư lớn, thúc đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, tạo nhiều việc làm, tiếp thu được những công nghệ sản xuất hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại, đào tạo được đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân có trình độ tay nghề cao, giữ gìn và cải tạo môi trường sinh thái để phát triển bền vững. Trong các khu công nghiệp, các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước, các doanh nghiệp Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được đầu tư vào các lĩnh vực như: 11 Một là: Xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng. Hai là: Sản xuất, gia công, lắp ráp các sản phẩm công nghệ để tiêu thụ tại thị trường trong nước và xuất khẩu. Phát triển các quy trình công nghệ, bí quyết kỹ thuật,… Đây là lĩnh vực mà chúng ta đặc biệt quan tâm khi phát triển các KCN. Làm tốt vấn đề này chúng ta không chỉ có sản phẩm mà điều quan trọng nhất là có kỹ thuật và công nghệ thực sự đứng vững trên đôi chân của mình trong phát triển công nghiệp và thực sự đưa đất nước thành nước công nghiệp chứ không phải là một đất nước chỉ biết gia công sản phẩm cho nước khác. Ba là: Dịch vụ và hỗ trợ sản xuất công nghiệp, thực hiện công việc ở lĩnh vực này cần phải đặc biệt quan tâm đến các ngành sản xuất công nghiệp phụ trợ để tạo nên sự phát triển cân đối, đồng bộ cho sản xuất công nghiệp nói chung, tránh những sai sót của nhiều nước công nghiệp hóa trước đây đã mắc phải Bốn là: Triển khai nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ mới để nâng cao chất lượng sản phẩm đã có và tạo ra các sản phẩm mới. Trong các KCN, các ngành công nghiệp được Nhà nước ưu tiên và khuyến khích đầu tư là: cơ khí, luyện kim, điện tử, công nghệ thông tin, hóa dầu, hóa chất, công nghiệp hàng dùng và một số ngành khác. Việc hình thành và phát triển của các KCN đã làm thay đổi lớn bộ mặt của nền kinh tế nước ta, làm tăng tiềm lực, sức mạnh của đất nước, góp phần rất quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và vị thế của nước ta. Vai trò quan trọng của các KCN có thể nêu tóm lược như sau: Thứ nhất: Tạo ra nền tảng để huy động được các nguồn lực của các thành phần, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ CNH, HĐH đất nước. 12 Ví dụ: Chỉ riêng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), “tính đến hết tháng 2/2013 Việt Nam đã thu hút được 14.550 dự án FDI còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký đạt gần 211 tỷ USD, vốn thực hiện đạt gần 100 tỷ USD”, [15]. FDI đã đóng góp tích cực vào tăng trưởng, tỷ trọng đóng góp vào GDP tăng dần theo từng năm và đã đạt khoảng 19% vào năm 2011; FDI đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho nền kinh tế (hiện chiếm khoảng 25% tổng vốn đầu tư xã hội), khơi dậy và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước; gia tăng kim ngạch xuất khẩu (chiếm khoảng 64% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2012), góp phần mở rộng thị trường quốc tế, bên cạnh thị trường truyền thống, thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tăng dần tỷ trọng hàng chế biến; đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách (“14,2 tỷ USD trong giai đoạn 20101-2010, riêng năm 2012 đóng góp khoảng 3,7 tỷ USD”, [42]). Bên cạnh đó, FDI đã có tác động tích cực, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu các ngành trong nền kinh tế cũng như cơ cấu nội bộ từng ngành theo hướng CNH, HĐH; FDI cũng góp phần thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ cả về máy móc thiết bị, tri thức và kinh nghiệm quản lý, từ đó có ảnh hưởng nhất định trong việc cải thiện trình độ công nghệ trong nước. Đặc biệt, FDI góp phần tạo việc làm (“hiện nay khu vực FDI tạo ra trên 2 triệu lao động trực tiếp và khoảng 3-4 triệu động gián tiếp”, [42]), nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và thay đổi cơ cấu lao động, trong đó có hàng vạn kỹ sư, nhà quản lý, đội ngũ công nhân có trình độ cao. Đó là những vốn quý của nguồn nhân lực thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Thứ hai: Các KCN đã góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế của cả nước cũng như từng địa phương theo hướng CNH, HĐH. Thực tiễn của xây dựng và phát triển các KCN đã làm tăng tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong GDP của cả nước cũng như từng địa phương để thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nước nông nghiệp lạc 13 hậu sang nước có cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp theo hướng hiện đại. Trong những năm qua với sự phát triển khá nhanh chóng của các KCN nền kinh tế nước ta cũng đã tiếp nhận được một số lượng đáng kế các công nghệ sản xuất hiện đại, trong số đó đặc biệt phải kể đến những dự án có công nghệ tiên tiến của các hãng sản xuất nổi tiếng như: Canon, Samsung, Orion Hanel, Toyota, ..., những lĩnh vực mà chúng ta còn yếu và rất cần khuyến khích phát triển như: cơ khí chế tạo, điện tử, công nghệ sinh học... Thông qua các hoạt động đầu tư của các đối tác nước ngoài, chúng ta không chỉ tiếp nhận được công nghệ mới mà còn nâng cao vị thế và sức hấp dẫn đầu tư của Việt Nam với thế giới và khu vực. Thứ ba: Các KCN góp phần quan trọng vào giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và giải quyết các vấn đề xã hội. Đến nay, các KCN đã thu hút được khoảng trên 2,6 triệu lao động trực tiếp, [42]; nếu tính cả số lao động gián tiếp thì số lao động thu hút được còn lớn hơn nhiều. Kết quả đó là hết sức có ý nghĩa vì đây là một trong những vấn đề xã hội hàng đầu cần phải giải quyết trong quá trình CNH, HĐH và phát triển kinh tế - xã hội. Cùng với giải quyết việc làm cho lao động xã hội sự ra đời và phát triển của các KCN đã đóng góp một phần cũng rất có ý nghĩa với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho CNH, HĐH thông qua việc dạy nghề. Nhiều KCN đã xây dựng được các cơ sở dạy nghề như: Trung tâm dạy nghề Việt Nam-Singapore, Trường Kỹ nghệ Thừa Thiên Huế, Trường Cao đẳng kỹ thuật-công nghệ Biên Hòa… Trong quá trình hoạt động của các KCN đã hình thành mô hình liên kết đào tạo và sử dụng nhân lực với các trường đại học, cao đẳng. Đó là một dạng mô hình liên kết có hiệu quả. 14 Ngoài ra phát triển các KCN cũng đồng nghĩa với sự hình thành và phát triển thị trường lao động có trình độ cao ở nước ta. Trong các KCN quy luật về cung - cầu và cạnh tranh sức lao động diễn ra gay gắt, tạo động lực để người lao động phải không ngừng học tập, phấn đấu nâng cao trình độ và tay nghề của mình. Các KCN thường có mô hình tổ chức và quản lý kinh tế nói chung, quản lý nhân lực tiên tiến đạt trình độ quốc tế. Đây là môi trường rất tốt để đào tạo, chuyển giao kiến thức kinh nghiệm quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp Việt Nam để có thể thay thế dần lao động quản lý của người nước ngoài ở các KCN. Thứ tư: Các KCN tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng công nghiệp hiện đại có giá trị lâu dài đồng thời góp phần hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng của cả nước. Kết cấu hạ tầng vừa là một bộ phận cấu thành vừa là điều kiện hàng đầu để hoạt động của các KCN. Việc đầu tư xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại là nhân tố bảo đảm cho sự phát triển lâu dài và bền vững của bản thân KCN. Hệ thống này không chỉ trong phạm vi địa lý của KCN mà còn phải liên kết chặt chẽ với hệ thống kết cấu hạ tầng chung của địa phương, vùng và cả nước. Thực tiến xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng của những KCN ở các vùng kinh tế trọng điểm như: Đồng Nai, Bình Dương ở phía Nam; Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hải Phòng ở phía Bắc; Dung Quất ở miền Trung đã chứng minh rõ ràng về điều này. Thứ năm: Các KCN có tác dụng lan tỏa tích cực tới phát triển kinh tế các vùng, các ngành, các lĩnh vực. Sự ra đời của các KCN đã tạo ra những vùng công nghiệp tập trung quy mô lớn tác động tích cực đến việc phát triển các cơ sở sản xuất nguyên liệu, hệ thống năng lượng, kết cấu hạ tầng, các loại hình dịch vụ phục vụ và đời sống trên các địa bàn có KCN. Mặt khác sự phát triển của các KCN cũng 15 có những tác dụng mạnh mẽ đến sự phát triển của công nghiệp địa phương thông qua các tác động đa chiều, nhất là tác động cạnh tranh và các hoạt động liên kết, hỗ trợ,…. Về mặt xã hội, sự phát triển của các KCN cũng có những tác động tích cực đến đời sống văn hóa, tinh thần, trình độ dân trí thông qua tác phong lao động công nghiệp, văn minh công nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực cũng phải đề phòng và ngăn ngừa những tác động mặt trái của quá trình phát triển, nhất là tình trạng làm ô nhiễm môi trường sinh thái, môi trường xã hội do việc quản lý yếu kém. Bên cạnh những kết quả của sự phát triển nhanh chóng đáng ghi nhận trên, thực tế các KCN cũng bộc lộ không ít những hạn chế, khuyết điểm cần phải sửa chữa, khắc phục như sau: Thứ nhất: Công tác chuẩn bị cho sự ra đời của các KCN bộc lộ nhiều hạn chế thể hiện trên các vấn đề như: công tác quy hoạch và tổ chức thực hiện quy hoạch chưa quán triệt để tuân thủ các quy định pháp lý; công tác chuẩn bị nhân sự chưa đáp ứng được yêu cầu cao của KCN cả về cán bộ quản lý, đội ngũ lao động lành nghề; chồng chéo trong xác định lĩnh vực đầu tư và sản phẩm. Điều này dẫn đến sự cạnh tranh không cần thiết, không lành mạnh. Thứ hai: Xuất hiện tình trạng phát triển quá nóng KCN ở các địa phương có nhiều tiềm năng và lợi thế làm cho việc quản lý Nhà nước và việc kiểm soát gặp nhiều khó khăn. Thứ ba: Ở một số KCN do công tác nghiên cứu đối tác đầu tư không tốt nên đã phải tiếp nhận ngành sản xuất và trình độ công nghệ không phù hợp và lạc hậu cho nên hiệu quả sản xuất kinh doanh, hiệu quả kinh tế - xã hội thấp và rất khó khắc phục hậu quả. 16 Thứ tư: Công tác bảo vệ môi trường ở nhiều KCN trở thành vấn đề xã hội nóng bỏng và bức xúc ảnh hưởng đến sức khỏe, đời sống của nhân dân và môi trường sinh thái khu vực. Để các KCN ở nước ta phát triển theo đúng tinh thần các nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước trước mắt chúng ta có rất nhiều việc phải làm, trong đó có vấn đề thu hút vốn đầu tư vào các KCN. 1.1.2. Thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp ở nước ta Vốn là một trong những yếu tố cơ bản của quá trình phát triển kinh tế nói chung và sự nghiệp CNH, HĐH nói riêng. Tính chất quan trọng của vốn thì bất kỳ ai cũng đã hiểu rõ. Có vốn mới có các yếu tố cần thiết của quá trình sản xuất như: máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu, công nghệ và sức lao động để sử dụng các yếu tố vật chất của quá trình sản xuất nhằm tạo ra sản phẩm. Để có nguồn vốn đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH chúng ta vừa phải thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư, vừa phải nâng cao hiệu quả của việc sử dụng các nguồn vốn đã huy động được. Như vậy, vấn đề vốn đầu tư để phát triển các KCN là một vấn đề có có phạm vi nghiên cứu rất rộng lớn. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, tác giả chỉ giới hạn ở việc thu hút vốn đầu tư vào các KCN. Việc đề cập sử dụng và nâng cao hiệu quả của vốn chỉ xem xét dưới góc độ như là một điều kiện để thu hút nguồn vốn đầu tư. Thuật ngữ “đầu tư” có thể được quan niệm đồng nghĩa với “sự bỏ ra”, “sự hy sinh” để đạt được mục đích nhất định của người sở hữu vốn. Nói cách khác có thể coi đầu tư là sự bỏ ra những yếu tố vật chất và tinh thần như: tiền, của cải vật chất, sức lao động, trí tuệ và cả sự chấp nhận rủi ro, mạo hiểm nhằm đạt được những lợi ích vật chất cho người đầu tư trong tương lai. 17 Theo cách hiểu chung nhất đầu tư là việc xuất vốn hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm thu được lợi nhuận. Với quan niệm này mục tiêu của đầu tư là các lợi ích kinh tế mong muốn, còn phương tiện để đạt được mục tiêu của nhà đầu tư là xuất vốn ra hoạt động sản xuất, kinh doanh vào một lĩnh vực kinh tế nào đó. Hoạt động đầu tư phải tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường và phải chấp nhận rủi ro. Bởi vậy nhà đầu tư ngoài những kiến thức, kinh nghiệm được tích lũy trong hoạt động của mình bao giờ cũng phải nghiên cứu nắm chắc thị trường và các yếu tố, các điều kiện của môi trường kinh doanh để quyết định bỏ vốn đầu tư. Hoạt động đầu tư được hiểu như một hoạt động kinh tế tổng hợp, được tiến hành bằng cách huy động các nguồn vốn đưa vào sử dụng trong việc khai thác, chế tạo các sản phẩm và hoạt động dịch vụ trong một lĩnh vực nào đó, theo những chu kỳ nhất định. Số vốn đó tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, kinh doanh theo nguyên tắc bảo toàn và sinh lợi. Do vậy, vốn đầu tư chính là vốn bỏ vào các hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư. Vốn đầu tư được huy động từ nhiều nguồn khác nhau: tiền và tài sản của nhà đầu tư, huy động từ vay ngân hàng, tiền tiết kiệm của dân cư, liên doanh, liên kết trong nước và nước ngoài, tiền tài trợ,… Việc đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp là dùng vốn đầu tư để mua sắm, xây dựng các tài sản cố định và tài sản lưu động để tiến hành các hoạt động sản xuất ra sản phẩm và các dịch vụ phụ vụ cho quá trình sản xuất, kinh doanh một loại hình sản phẩm nào đó. Dù dưới hình thức nào đi chăng nữa vốn đầu tư phải là các tài sản minh bạch, hợp pháp được pháp luật bảo trợ và hoạt động đầu tư phải tuân thủ theo Hiến pháp, pháp luật của nước sở tại cũng như các thông lệ quốc tế trong điều kiện nền kinh tế thị trường và toàn cầu hóa kinh tế. 18 Để phát triển công nghiệp của đất nước nói chung, các KCN nói riêng việc thu hút vốn đầu tư là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu vì không có đầu tư thì sẽ không có bất kỳ sự phát triển nào. Thu hút vốn đầu tư vào các KCN được hiểu là tổng thể các hoạt động của chủ đầu tư (nhà nước, địa phương, ngành, đơn vị) trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật, chính sách và các thông lệ quốc tế nhằm chủ động tạo ra các điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư bỏ vốn xây dựng, phát triển và vận hành sản xuất, kinh doanh sản phẩm ở các KCN; thông qua đó giải quyết thỏa đáng quan hệ lợi ích của nhà đầu tư và chủ đầu tư. Các nhà nghiên cứu và quản lý vẫn thường dùng hình ảnh ví von việc kêu gọi đầu tư như là hành động trải thảm đỏ để mời gọi các nhà đầu tư với những quy định ưu đãi và thuận lợi. Về thực chất thu hút vốn đầu tư là việc giải quyết các quan hệ về lợi ích kinh tế giữa nhà đầu tư và người mời gọi đầu tư. Vậy, thu hút vốn đầu tư vào các KCN về thực chất là việc chủ động tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi từ phía chủ đầu tư để các nhà đầu tư đủ an tâm tin tưởng và bỏ vốn đầu tư với mục đích làm ăn lâu dài, lợi ích luôn được tôn trọng và bảo đảm. Tuy nhiên, cũng cần phải hiểu rằng việc thu hút vốn, mời gọi đầu tư nhất là từ đối tác nước ngoài không phải là bằng mọi giá mà phải trên cơ sở thực hiện các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước mà trực tiếp là Luật Đầu tư của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc thu hút vốn đầu tư phải đảm bảo lợi ích quốc gia cả về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, bảo vệ nền văn hóa Việt nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường sống. Trên lĩnh vực kinh tế và công nghệ việc kêu gọi, thu hút đầu tư phải nhằm tiếp nhận được các công nghệ tiên tiến làm cơ sở cho sự phát triển lâu dài và bền vững. Từ kinh nghiệm thực tiễn chúng ta không thể để diễn ra tình
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan