MỞ ĐẦU
l.Sự cần thiết của đề tài
Hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế ngày nay đã và đang tạo ra xu hướng
nhất thể hóa các nền kinh tế trên thế giới. Sự kiện Việt Nam đã tổ chức thành công
Hội nghị APEC và chính thức là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO) đã tạo thời cơ và thách thức cho Việt Nam nói chung và Thành phố Hà
Nội nói riêng trong việc phát triển kinh té-xã hội. Trong đó, nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng, tạo nguồn lực bổ sung về vốn, công nghệ,
thị trường, kinh nghiệm quản lý và lao động trình độ cao với phong cách công
nghiệp, góp phần tạo việc làm, nâng cao trình độ phát triển nhiều mặt của đất nước
nói chung và của Thành Phố Hà Nội nói riêng.
Kể từ khi Hà Nội mở rộng địa giới hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài của Thành phố có nhiều vấn đề cần xem xét một cách toàn diện. Hà Nội mới
bao gồm Hà Nội cũ, toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc) và 4 xã của
huyện Lương Sơn Hòa Bình với những đặc thù riêng của từng địa phương về tự
nhiên, dân số, các vấn đề xã hội-kinh tế khác nhau, tạo nên sự đa dạng phong phú về
nguồn lực đồng thời là sự cồng kềnh hơn của bộ máy quản lý nhà nước đòi hỏi Hà
Nội nhìn nhận lại những thành tựu và hạn chế trong hoạt động thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài của mình để đưa ra giải pháp tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Thành phố.
Bên cạnh đó, khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đã ảnh hưởng không chỉ
đối với các nước phát triển mà với hầu hết các quốc gia trên thế giới, làm giảm đáng
kể nguồn vốn di chuyển giữa nước. Để đẩy mạnh việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Hà Nội trong thời kỳ khủng hoảng này, đòi hỏi những chính
sách, biện pháp phù họp để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Trong bối cảnh mở rộng địa giới và thế giới trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế
toàn cầu hiện nay, tác giả chọn đề tài: “THU HÚT FDI VÀO HÀ NỘI” để tìm ra
được những nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài; những điểm mạnh,
1
điểm yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hà Nội và đưa ra được phương hướng
khắc phục được những điểm yếu đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước
nói chung cũng như của Hà Nội nói riêng.
2. Tình hình nghiền cứu
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những vấn đề được nhiều nhà kinh tế
quan tâm và nghiên cứu. Cùng với sự hiện diện của hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam từ năm 1986, các nghiên cứu trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài rất
phong phú và đa dạng được thực hiện bởi cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức
nghiên cứu trong nước và Tổ chức quốc tế cũng như nghiên cứu khoa học của các cá
nhân.
* Các công trình nghiên cứu chung về khái niệm, hình thức, vai trò và các
nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài, thực trạng đầu tư trực tiếp nước
ngoài trên phạm vi thế giới và Việt Nam trong điều kiện hội nhập như:
- Đỗ Hoàng Long (2008), Tác động của toàn cầu hóa đối với dòng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, Luận án tiến sĩ Kinh tế, trường Đại học Kinh tế
quốc dân, Hà Nội.
- Trường Đại học kinh tế quốc dân (2005), Đầu tư của các công ty xuyên quốc
gia TNCS tại Việt Nam, NXB Chính trị Quốc Gia.
-
Nguyen Xuan Thang (2008), “Some trends of World Development and Their
Impact on Viet Nam’s Vision of Developpment”, Vỉeừiam Economics Reviews, N26
(166), pp3-8.
- Nguyễn Trọng Xuân (2002): “Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc công
nghiệp hỏa, hiện đại hỏa ở Việt Nam”, NXB Khoa học xã hội.
- Nguyen Trong Xuan (2008), “Situation of FDI projects and Industrial Zone in
Vietnam”, Vỉetnam Economỉcs Reviews, N26 (166), pp38-44.
- Nguyễn Quang Vinh (2007), Thu hút nguồn vốn đầu tư frực tiếp nước ngoài ở
2
Việt Nam frong điều kiện hội nhập, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Kinh tế-Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Các tác phẩm trên đề cập đến:
+ Lịch sử, cơ sở lý luận hình thành hoạt động đầu tư nước ngoài trên quy mô
toàn Thế Giới.
+ Đánh giá hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam trong những
năm qua.
+ Vai trò, ý nghĩa của Đầu tư nước ngoài đối với quá trình tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam.
+ Xu hướng của sự phát triển về đầu tư trên thế giới và ảnh hưởng của nó tới
Việt Nam.
*Thêm vào đó là những công trình nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài
trên phạm vi địa phương, trong đó đã đưa được lý luận về đầu tư trực tiếp nước
ngoài, đặc điểm đầu tư trực tiếp nước ngoài ở từng địa phương, phương hướng và
giải pháp đẩy mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào địa phương
đó. Các tác phẩm tiêu biểu như:
- TS. Trần Đăng Long (2002), “Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý
nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí
Minh”, NXB. Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Việt Thông (2006), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Quảng Ninh”,
Luận văn Thạc sỹ, Đại học Kinh tế-Đại học Quốc gia Hà Nội.
* Ngoài ra, có các báo cáo về nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà
Nội như: Báo cáo số 08/BC-UBND: “Tổng kết 20 năm (1987-2007) hoạt động đầu
tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn Hà Nội”, ngày 21/1/2008. Báo cáo này đề cập
đến thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn Hà Nội qua 20 năm và đưa ra
3
được những ưu điểm và hạn chế về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội trong thời
gian đó.
Nhìn chung các tác phẩm trên đã tập trung nghiên cứu những yếu tố ảnh
hưởng hay liên quan đến hoạt động đầu tư và phần nhiều đứng trên bình diện cả nước
Việt Nam, hoặc một số tỉnh thành đi đầu trong hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài như Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương...Tuy nhiên, các tác phẩm
chưa nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hà Nội trong giai đoạn từ năm
2008 đến nay, đây là thời gian có sự đổi mới về quản lý nhà nước ở Hà Nội và khủng
hoảng kinh tế toàn cầu ảnh hưởng đến các quốc gia trong đó có Việt nam. Do đó, tác
giả thiết nghĩ việc nghiên cứu một cách có hệ thống về hoạt động thu hút nguồn vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội là hết sức cần thiết và cần tiếp tục để đưa ra
những kiến nghị đẩy mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội
nhất là trong bối cảnh Hà Nội mở rộng địa giới và khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện
nay.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu của đề tài
Làm rõ bức tranh về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội trong giai
đoạn 2005-2009, qua đó đề xuất giải pháp đẩy mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Hà Nội.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận có liên quan đến đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở Hà Nội và thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hà Nội để rút ra
những vấn đề còn tồn tại cần khắc phục.
- Đề ra giải pháp để đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà
4
Nội.
4.Phạm vi nghiên cứu của đề tài
* về nội dung: Luận văn tập trung chủ yếu vào nghiên cứu hoạt động thu hút
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hà Nội và đóng góp
của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn 20052009.
* về không gian: Những vấn đề nghiên cứu được giới hạn trên địa bàn Hà
Nội, bao gồm địa giới cũ, Hà Tây cũ, huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc) và bốn xã của
huyện Lương Sơn (Hòa Bình).
- Thời gian: Nội dung nghiên cứu được giới hạn từ 2005 đến 2009 và những
năm tiếp theo sau này.
5.Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp lý luận chủ yếu sau:
- Duy vật biện chứng.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
6.Những đóng góp của luận văn
- Chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở Hà Nội và đóng góp của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố giai đoạn 2005 - 2009.
5
- Đánh giá ưu điểm và nhược điểm trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở Hà Nội.
- Đưa ra định hướng và giải pháp tiếp tục đẩy mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài cho Hà Nội.
7.Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, nội dụng luận
văn bao gồm ba chương:
- Chương 1 :LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRựC TIẾP NƯỚC NGOÀI.
- Chương 2:THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRựC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI HÀ
NỘI.
- Chương 3:GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRƯC TIẾP NƯỚC
NGOÀI VÀO HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VẺ ĐÀU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1. Tiếp cận về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1. Khái niệm
Tùy thuộc vào góc độ nghiên cứu khác nhau, khái niệm “Đầu tư trực tiếp
nước ngoài” được khái quát với những sắc thái riêng. Phần dưới đây sẽ khảo cứu một
số tiếp cận về khái niệm này.
Dưới góc độ kinh tế chính trị Mác-Lênin, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một
trong các hình thức xuất khẩu tư bản. Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước
ngoài nhằm thu giá trị thặng dư và các nguồn lợi khác từ nước nhập khẩu tư bản.
6
Theo Lênin, trong giai đoạn cạnh tranh tự do, một trong các đặc điểm của chủ nghĩa
tư bản là xuất khẩu hàng hóa, còn trong giai đoạn độc quyền xuất khẩu tư bản trở
thành phổ biến trong các nước tư bản. Ông cho rằng xuất khẩu tư bản là một đặc
điểm kinh té của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Do phát triển của lực lượng sản xuất
trong chủ nghĩa tư bản độc quyền, hiện tượng dư thừa tư bản một cách tương đối
xuất hiện trong nước tư bản thời bấy giờ. Tức là, tỷ suất sinh lời của đầu tư mới ở
trong nước không cao như mong đợi nên các nhà tư bản không muốn đầu tư trong
nước mà kỳ vọng tỷ suất sinh lời cao ở nước ngoài. Chính vì thế, xuất khẩu tư bản
trở nên phổ biến và ồ ạt trong giai đoạn phát triển cao hơn của chủ nghĩa tư bản.
Theo ông “chừng nào chủ nghĩa tư bản vẫn là chủ nghĩa tư bản, số tư bản thừa không
phải dùng để nâng cao mức sống của quần chúng trong nước đó, vì như the sẽ làm
giảm bớt lợi nhuận của bọn tư bản - mà là để tăng thêm lợi nhuận bằng cách xuất
khẩu tư bản ra nước ngoài, vào những nước lạc hậu. Trong các nước lạc hậu này, lợi
nhuận thường cao hơn vì tư bản hãy còn ít, giá đất đai tương đối thấp, tiền công hạ,
nguyên liệu rẻ”. [17]
Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi
một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở nước khác để
phân biệt đầu tư trực tiếp nước ngoài với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn
trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở
kinh doanh. Trong những trường họp đó, nhà đầu tư thường gọi là “công ty mẹ” và
các tài sản được gọi là “công ty con” hay “chi nhánh công ty”. [12]
Khái niệm của IMF cũng giống khái niệm của Lênin ở chỗ đều là hình thức
mang vốn ra nước ngoài đầu tư. Khái niệm của IMF nói rõ hơn, nước chủ sở hữu có
quyền quản lý vốn đầu tư đó, họ phải gánh chịu rủi ro cũng như được hưởng lợi
nhuận theo tỷ lệ góp vốn.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó
người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử
dụng vốn.[271 Nét tương đồng khái niệm này với các khái niệm trên ở chỗ: các khái
niệm đều bàn đến việc chuyển vốn từ một nền kinh té này sang một nền kinh tế khác
7
để thực hiện hoạt động kinh doanh và đảm nhiệm hoạt động điều hành của nhà đầu
tư.
Theo Luật Đầu tư 2005 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đầu tư
trực tiếp nước ngoài được định nghĩa như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình
thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư”.
Như vậy, các khái niệm trên đều bàn đến việc chuyển vốn từ một nền kinh tế
này sang một nền kinh tế khác để thực hiện hoạt động kinh doanh và đảm nhiệm điều
hành hoạt động của nhà đầu tư, các nhà đầu tư có được nhiều lợi nhuận hơn từ việc
đầu tư ra nước ngoài. Tóm lại, có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp
nước ngoài như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư quốc tế mà
chủ đầu tư bỏ vốn để xây dựng hoặc mua phần lớn, thậm chỉ toàn bộ các cơ sở kinh
doanh ở nước ngoài đế trở thành chủ sở hữu toàn bộ hoặc từng phần cơ sở đỏ và
trực tiếp quản lý, điầ4 hành và chịu trách nhiệm về hoạt động của đổi tượng mà họ
bỏ vốn đầu tư. Đồng thời, họ cũng chịu trách nhiệm theo mức sở hữu về kết quả sản
xuất kinh doanh của dự án
1.1.2. Đặc điểm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có các đặc điểm sau:
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường được thực hiện thông qua các phương
thức: Xây dựng mới, mua lại toàn bộ hay từng phần của một cơ sở đang hoạt động,
mua cổ phiếu của các công ty cổ phần để thao túng hoặc sát nhập các doanh nghiệp
với nhau.
- Các nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp quản lý và điều hành dự án mà họ bỏ
vốn đầu tư. Quyền quản lý doanh nghiệp phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn của chủ đầu tư
trong vốn pháp định của dự án. Nếu doanh nghiệp góp 100% vốn trong vốn pháp
định thì doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài và cũng do
họ quản lý toàn bộ.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ đưa vốn vào nước tiếp nhận mà có
8
thể cả bí quyết kỹ thuật, công nghệ và kinh nghiệm quản lý hiện đại, tạo ra năng lực
sản xuất mới và mở rộng thị trường cho cả nước tiếp nhận đầu tư và nước đi đầu tư.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một dự án mang tính lâu dài. Đây là đặc điểm
phân biệt giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, đầu tư gián tiếp thường là các
dòng vốn có thời gian hoạt động ngắn và có thu nhập thông qua việc mua và bán
chứng khoán (Cổ phiếu hoặc trái phiếu). Đầu tư gián tiếp có tính thanh khoản cao
hơn so với đầu tư trực tiếp, dễ dàng thu lại số vốn đầu tư ban đầu khi đem bán chứng
khoán và tạo điều kiện cho thị trường tiền tệ phát triển ở những nước tiếp nhận đầu
tư.
1.1.3.Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
Theo Điều 21 Luật Đầu tư 2005 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư vào Việt Nam dưới những hình thức
sau:
- Họp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng kinh doanh.
- Doanh nghiệp liên doanh.
- Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
- Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), họp đồng xây dựng
- chuyển giao - kinh doanh (BTO), họp đồng xây dựng - chuyển giao (BT)...
* Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh
Đây là hình thức đầu tư trực tiếp trong đó họp đồng hợp tác kinh doanh được
ký kết giữa hai hay nhiều bên (gọi là các bên họp tác kinh doanh) để tiến hành một
hoặc nhiều hoạt động kinh doanh ở nước nhận đầu tư trong đó quy định trách nhiệm
và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên tham gia mà không cần thành lập xí
nghiệp liên doanh hoặc pháp nhân. Hình thức này không làm thành một công ty hay
một xí nghiệp mới. Mỗi bên vẫn hoạt động với tư cách pháp nhân độc lập của mình
và mỗi bên thực hiện nghĩa vụ theo quy định trong hợp đồng. Kết quả phụ thuộc vào
9
sự tồn tại và thực hiện nghĩa vụ của mỗi bên hợp doanh. Hợp đồng hợp tác kinh
doanh có thể được kết thúc trước thời hạn nếu thỏa mãn đủ các điều kiện quy định
trong hợp đồng, hợp đồng cũng có thể được kéo dài khi có sự đồng ý của Bộ Ke
hoạch và Đầu tư.
*Hình thức doanh nghiệp liên doanh
Đây là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, qua đó pháp nhân mới được
thành lập được gọi là doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp mới này do hai bên
hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc
ký hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính
phủ nước ngoài. Doanh nghiệp liên doanh cũng có thể được thành lập do doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên cơ sở liên doanh. Nhằm tiến hành các hoạt
động kinh doanh trong các lĩnh vực của nên kinh tế quốc dân. Pháp nhân mới được
thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn trong đó phần vốn góp của
nước ngoài không hạn chế mức tối đa, nhưng mức tối thiểu theo quy định của luật
không dưới 30% vốn pháp định.
Mỗi bên tham gia vào doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân riêng,
nhưng doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân độc lập với các bên tham gia. Khi
các bên đã đóng góp đủ số vốn đã quy định vào liên doanh thì dù một bên có phá
sản, doanh nghiệp liên doanh vẫn tồn tại.
Số người tham gia hội đồng quản trị lãnh đạo doanh nghiệp của các bên phụ
thuộc vào tỉ lệ góp vốn. Hội đồng quản trị là cơ quan lãnh đạo cao nhất, quyết định
theo nguyên tắc nhất trí đối với các vấn đề quan trọng như: Duyệt quyết toán thu chi
tài chính hằng năm và quyết toán công trình, sửa đổi bổ sung điều lệ doanh nghiệp,
vay vốn dầu tư, bổ nhiệm, miễn nhiệm tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, kế
toán,..lợi nhuận và rủi ro của doanh nghiệp liên doanh này được phân chia theo tỷ lệ
góp vốn của mỗi bên.
*Hình thức doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
1
0
Đây là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của tổ chức hoặc cá nhân nước
ngoài, được hình thành bằng toàn bộ vốn nước ngoài và do tổ chức hoặc cá nhân
nước ngoài thành lập, tự quản lý, điều hành và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả
kinh doanh. Doanh nghiệp này được thành lập dưới dạng công ty trách nhiệm hữu
hạn, là pháp nhân Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của Luật Đầu tư tại Việt Nam.
Vốn pháp định cũng như vốn đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, vốn pháp
định ít nhất bằng 30% vốn đầu tư của doanh nghiệp.
* Hợp đồng xây dựng — kỉnh doanh — chuyển giao (BOT)
Là một phương thức đầu tư trực tiếp được thực hiện trên cơ sở văn bản được
ký két giữa nhà đầu tư nước ngoài (có thể là tổ chức, cá nhân nước ngoài) với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ở Việt Nam để xây dựng kinh doanh công trình kết
cấu, hạ tầng trong thời gian nhất định, hết thời hạn nhà đầu tư nước ngoài chuyển
giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam.
Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao thường được thực hiện bằng
vốn nước ngoài 100%, cũng có thể được thực hiện bằng vốn nước ngoài và phần góp
vốn của Chính phủ Việt Nam hoặc các tổ chức, cá nhân Việt Nam. Trong hình thức
đầu tư này, các nhà đầu tư có toàn quyền tổ chức xây dựng, kinh doanh công trình
trong một thời gian đủ thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý, sau đó có nghĩa vụ
chuyển giao cho nhà nước Việt Nam mà không thu bất kỳ khoản tiền nào.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO) là phương thức đầu tư
dựa trên văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà
đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây
dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài sẽ chuyển giao công trình cho nhà nước Việt
Nam. Nhà nước Việt Nam sẽ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó
trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận họp lý.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) là một phương thức đầu tư nước ngoài
trên văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu
tư nước ngoài để xây dựng công trình két cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà
1
1
đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt Nam, Chính phủ
Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi
vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
1.2. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đổi với phát triển kinh tế [2]
1.2.1.
Đổi với nước đầu tư
Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài được thể hiện ở mặt tích cực và tiêu
cực đối với nước đầu tư như sau:
* Tác động tích cực
- Chủ đầu tư có khả năng kiểm soát hoạt động sử dụng vốn đầu tư và có thể
đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ. Do đó vốn đầu tư thường được sử dụng
với hiệu quả cao.
- Chủ đầu tư nước ngoài mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm nguyên liệu,
cả công nghệ và thiết bị trong khu vực và trên thế giới.
- Có thể giảm giá thành sản phẩm do khai thác được nguồn lao động giá rẻ
hoặc gần nguồn nguyên liệu hoặc gần thị trường tiêu thụ sản phẩm, từ đó nâng cao
hiệu quả kinh tế của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tăng năng suất và thu nhập quốc
dân. Thông qua thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, chủ đầu tư có thể nâng cao
cạnh tranh của họ trên thị trường thế giới.
- Tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch và chiếm lĩnh thị trường vì thông qua
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mà chủ đầu tư nước ngoài xây dựng được các
doanh nghiệp của mình nằm trong lòng các nước thi hành chính sách bảo hộ.
* Tác động tiêu cực
- Có thể xảy ra tình trạng chảy máu chất xám nếu chủ đầu tư nước ngoài để
mất bản quyền sở hữu công nghệ, bí quyết trong quá trình chuyển giao.
- Chủ đầu tư có thể gặp rủi ro cao nếu không hiểu rõ môi trường đầu tư của
1
2
nước sở tại.
1.2.2.
Đổi với nước nhận đầu tư
Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến nước nhận đầu tư được thể
hiện:
* Tác động tích cực
- Tạo điều kiện tiếp thu kỹ thuật và công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý,
tác phong làm việc tiên tiến của bên nước ngoài. Đại đa số các nước tiếp nhận đầu tư
đều có kỹ thuật và công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý thấp kém không phát huy
được thế mạnh của mình. Trong khi đó các công ty xuyên quốc gia có kỹ thuật và
công nghệ hiện đại, các chuyên gia quản lý giỏi đã qua đào tạo về quản lý ở các
trường danh tiếng, có kinh nghiệm hoạt động nhiều năm trên thị trường thế giới.
- Tạo điều kiện thuận lợi để khai thác tốt nhất các lợi thế của mình về tài
nguyên thiên nhiên, về vị trí địa lý...
- Thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế trong nước thông qua sự kết hợp tối ưu các
yếu tố sản xuất và sử dụng triệt để các nguồn lực nhàn rỗi. Đe tổ chức hoạt động sản
xuất kinh doanh, các nhà đầu tư nước ngoài phải thuê các lao động, mua hàng hóa,
dịch vụ cần thiết, mua nguyên vật liệu, bơm ngoại tệ vào nền kinh tế.. .việc này sẽ
làm tăng thu nhập cho dân chúng nội địa và họ sẽ bỏ vốn của mình ra để chi tiêu
nhiều hơn là tiết kiệm, kết quả là tổng số vốn đầu tư toàn xã hội tăng lên, góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Tạo thêm việc làm, giúp nâng cao tay nghề lao động, các doanh nghiệp liên
doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài...thu hút một số lượng lớn lao động.
Người lao động này khi làm việc với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ
tiếp thu được công nghệ tiên tiến, học được phương thức quản lý và tác phong làm
việc.
- Thông qua tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài nước tiếp nhận đầu tư có
1
3
điều kiện thuận lợi để gắn kết kinh tế trong nước với hệ thống sản xuất, phân phối,
trao đổi quốc tế, thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế của các nước này. Chủ thể chủ
yếu của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới hiện nay là các công ty,
tập đoàn xuyên quốc gia với mạng lưới chân rết toàn cầu; thông qua tiếp nhận đầu tư
của các công ty, tập đoàn này, nước sở tại có điều kiện thuận lợi để tiếp cận và thâm
nhập thị trường quốc tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, làm quen với tập quán thương
mại quốc tế thích nghi nhanh hơn với những thay đổi trên thị trường trên thế giới..
.Đó là vai trò làm cầu nối và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế rất quan
trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài, một nhân tố thúc đẩy nhanh quá trình toàn cầu
hóa thế giới.
* Tác động tiêu cực
- Nước sở tại khỏ chủ động trong việc bố trí cơ cấu đầu tư theo ngành và theo
vùng lãnh thổ. Nếu mước sở tại không có quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học dễ dẫn
đến hiện tượng đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá
mức và nạn ô nhiễm môi trường trầm trọng.
- Nếu không thẩm định kỹ sẽ dẫn đến sự du nhập của các loại công nghệ lạc
hậu, công nghệ gây ô nhiễm môi trường với giá đắt, làm thiệt hại lợi ích kinh tế của
nước sở tại.
- Thông qua sức mạnh hơn hẳn về tiềm lực tài chính, sự có mặt của các doanh
nghiệp có vốn nước ngoài, các công ty xuyên quốc gia có khả năng gây ra một số ảnh
hưởng bất lợi về kinh tế - xã hội như làm tăng chênh lệch về thu nhập, làm gia tăng
sự phân hóa trong tầng lớp nhân dân, tăng mức độ chênh lệch phát triển trong một
vùng hoặc giữa các vùng....So với hình thức đầu tư nước ngoài khác nước chủ nhà
khó chủ động trong việc điều phối, phân bổ sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài vì về cơ bản quyết định đầu tư cả về quy mô, địa điểm, hình thức đầu tư, sản
phẩm, công nghệ... .thuộc về nhà đầu tư.
1
4
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Khả năng thu hút FDI đối với mỗi quốc gia (hay địa phương) phụ thuộc vào
khá nhiều nhân tố đó là: điều kiện tự nhiên, tình hình phát triển kinh tế thế giới và
quốc gia, hệ thống cơ sở hạ tầng, sự ổn định an ninh chính trị quốc gia, môi trường
hành chính-pháp luật, môi trường văn hóa xã hội, trình độ lực lượng lao động, khoa
học - công nghệ. Phần này sẽ xem xét ảnh hưởng của các nhân tố đó đối với hoạt
động thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của quốc gia (hay địa phương).
* Điều kiện tự nhiên
Khi các nhà đầu tư quyết định bỏ vốn để tiến hành hoạt động kinh doanh,
chắc chắn họ sẽ xem xét đến vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ở nơi đó bởi đây là
những yếu tố tác động đến khả năng sinh lời của đồng vốn. Các nhà đầu tư nước
ngoài đều phải tiến hành chuyên chở hàng hóa hay dịch vụ giữa điểm sản xuất và
điểm tiêu thụ, nếu vị trí thuận lợi, không cách trở sẽ làm giảm chi phí vận chuyển,
giảm giá thành, tăng lợi nhuận cho các nhà đầu tư đồng thời hạn chế được rủi ro.
Nếu nước chủ nhà có điều kiện tự nhiên thuận lợi như tài nguyên phong phú, cung
cấp đầu vào với giá rẻ thì càng hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, giúp các nhà đầu tư
có một nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định với giá thấp, đây là yếu tố rất hấp dẫn
với các nhà đầu tư.
*ĩĩnh hình phát triển kinh tế thế giới và quốc gia
Kinh tế thế giới phát triển nhanh có nghĩa là hoạt động đầu tư diễn ra sôi đội,
sản phẩm và dịch vụ tạo ra nhiều, sức mua của thị trường tăng, các chỉ số về giá cả
và tài chính lành mạnh khuyến khích các nhà đầu tư trong các hoạt động đầu tư và
kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận. Ngược lại, khi kinh tế thế giới gặp khủng hoảng tại
một số khu vực hoặc nền kinh tế sẽ có tác động dây chuyền và ảnh hưởng chung tới
nền kinh tế thế giới, các chỉ số tài chính và giá cả kém lành mạnh và hoạt động đầu
tư có nhiều rủi ro.
Tình hình phát triển kinh tế của một quốc gia cũng ảnh hưởng không nhỏ tới
hoạt động đầu tư. Quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế nhanh, đời sống người dân
1
5
được cải thiện và sức mua tăng cao bao giờ cũng thu hút được nhiều tư bản đầu tư.
Quốc gia có trình độ phát triển kinh tế thấp, các hoạt động kinh tế gặp trì trệ, lạm
phát leo thang, các điều kiện sống của dân cư nghèo nàn và khó khăn sẽ không
khuyến khích được các nhà đầu tư đến đầu tư và tìm kiếm lợi nhuận kinh doanh
ngoại trừ các hoạt động đầu tư phi lợi nhuận, mang tính cộng đồng và từ thiện, các
hoạt động đầu tư bất họp pháp.
* Hệ thống cơ sở hạ tầng
Hệ thống cơ sở hạ tầng về giao thông, thông tin liên lạc, bưu chính, năng
lượng là các yếu tố hết sức quan trọng phục vụ hoạt động nhà đầu tư trong suốt quá
trình đầu tư. Tại địa bàn đầu tư có điều kiện giao thông thuận lợi sẽ phục vụ tốt nhu
cầu đi lại của nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa, máy
móc thiết bị ra vào nhà máy, sinh hoạt của công nhân và phục vụ dân sinh. Tuy
nhiên, hệ thống giao thông thuận lợi chưa phải là tất cả, trong quá trình đầu tư nhà
đầu tư có nhu cầu rất lớn về thông tin liên lạc, bưu chính phục vụ mục tiêu điều hành
và quản lý dự án đầu tư đồng thời cũng có nhu cầu rất lớn về điện, nước, chất đốt
phục vụ sự vận hành của nhà máy, của các máy móc thiết bị, các sinh hoạt của nhà
điều hành và công nhân làm việc. Hệ thống cơ sở hạ tầng thuận lợi sẽ là ưu tiên hàng
đầu của nhà đầu tư trong lựa chọn vùng và lãnh thổ đầu tư.
*Sự ổn định an ninh, chỉnh trị quốc gia
Có thể nói sự ổn định chính trị là nhân tố vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến
việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của nước chủ nhà. Các nhà đầu tư
khi quyết định đem vốn ra đầu tư nước ngoài, họ luôn luôn đặt vấn đề ổn định chính
trị của nước nhận đầu tư lên hàng đầu, bởi vì nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
thường là dòng vốn đầu tư lớn và dài hạn, nó hoạt động trong một môi trường xa lạ
vì vậy các chủ đầu tư rất sợ rủi ro đối với đồng vốn của mình, họ luôn đặt sự an toàn
vốn lên hàng đầu. Nếu tình hình chính trị của nước chủ nhà bất ổn, thường xuyên xảy
ra đảo chính sẽ làm cho nhà đầu tư lo ngại do cam kết của Chính phủ đối với hoạt
động đầu tư nước ngoài có thể không được Chính phủ thực hiện, ví dụ các cam kết
không quốc hữu hóa tài sản của người nước ngoài hoặc do sự thay đổi của Chính phủ
1
6
mà đường lối phát triển không nhất quán gây khó khăn cho các nhà đầu tư trong việc
xây dựng kế hoạch đầu tư của mình. Bên cạnh đó, nếu có sự bất ổn định chính trị, có
sự thay đổi của Chính phủ thì các khuyến khích đối với các nhà đầu tư có thể cũng sẽ
không được duy trì, điều này cũng sẽ gây cản trở cho các nhà đầu tư khi thực hiện
hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước sở tại và rủi ro đối với đồng vốn của họ là
hoàn toàn lớn.
*Môi trường hành chỉnh -pháp luật
Hệ thống bộ máy hành chính nhà nước bao gồm từ Chính phủ cho tới các cấp
chính quyền địa phương và hệ thống các cơ quan giúp việc. Hệ thống bộ máy hành
chính Nhà nước rất rộng lớn, quản lý toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội với
một đội ngũ cán bộ, công chức đông đảo. Đây là lực lượng thừa hành và chấp hành ý
chí của Nhà nước. Nếu hệ thống bộ máy hành chính Nhà nước thực hiện tốt vai trò
quản lý xã hội của mình, đưa ra các cơ chế, chính sách đúng đắn thúc đẩy sự phát
triển kinh tế; đội ngũ cán bộ, công chức làm việc nhiệt tình, kỷ luật, có trách nhiệm
sẽ trực tiếp tạo ra được môi trường đầu tư tốt. Ngược lại, nếu đó là bộ máy hành
pháp kém hiệu quả, chồng chéo về chức năng và nhiệm vụ, tham nhũng và quan liêu
xảy ra khắp nơi trong tổ chức thì môi trường đầu tư trở nên xấu và hạn chế rất lớn
trong thu hút đầu tư.
Bên cạnh đó là hệ thống các cơ chế, chính sách khuyến khích, phát triển và
bảo vệ các loại hình doanh nghiệp. Đó là việc phát triển mạnh mẽ các tập đoàn kinh
tế, các công ty đa quốc gia cũng như hỗ trợ tích cực cho loại hình doanh nghiệp nhỏ
và vừa trong việc thành lập, chuyển đổi hoạt động sản xuất kinh doanh, trong việc
tiếp cận vốn, đất đai, kỹ thuật và tiêu thụ sản phẩm. Đó là việc hỗ trợ doanh nghiệp
trong đào tạo cán bộ và đào tạo nghề cho người lao động; hỗ trợ doanh nghiệp trong
khâu xúc tiến thương mại, đầu tư xây dựng thương hiệu; thực hiện chính sách tôn
vinh những doanh nhân có tài, thành đạt, có tâm huyết, trách nhiệm với đất nước, tạo
nhiều việc làm, có đóng góp nhiều cho Nhà nước. Giữa các địa phương trong nước
sở tại sẽ có chỉ số PCI, phản ánh năng lực cạnh tranh điều hành kinh tế cấp tỉnh, địa
phương nào có chỉ số PCI cao, xếp hạng cao thì sẽ hấp dẫn được nhà đầu tư đầu tư
1
7
vào địa phương ở nước sở tại đó, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư đặc biệt là
nguồn vốn FDI để phát triển kinh tế - xã hội của địa phương cũng như của nước sở
tại đó.
*Môi trường vãn hóa-xã hội
Sự đa dạng về bản sắc văn hóa dân tộc là yếu tố thu hút mạnh mẽ loại hình
đầu tư vào ngành công nghiệp du lịch và giải trí. Phong tục truyền thống, tập quán
các vùng miền; trình độ dân trí, thói quen sinh hoạt, học tập, làm việc của người dân
bản địa là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến các loại hình đầu tư, nhà đầu tư
muốn thành công ở nước sở tại phải hòa nhập được với cuộc sống và sinh hoạt của
cộng đồng tại địa phương, đáp ứng được những lợi ích chung của cộng đồng.
*
Trình độ của lực lượng lao động
Trình độ chung của lực lượng lao động tại địa phương quyết định tới năng
suất lao động, hiệu quả quản lý lao động và các kế hoạch đào tạo lao động địa
phương của nhà đầu tư. Nếu quốc gia hoặc vùng có lực lượng lao động với trình độ
thấp, lao động “thô” chiếm đại đa số, hệ thống giáo dục-đào tạo và dạy nghề yếu
kém, Nhà nước ít có các cơ chế, chính sách và chương trình hỗ trợ đào tạo lao động
thì sẽ là gánh nặng lớn cho nhà đầu tư, làm tăng chi phí đào tạo và quản lý, giảm
hiệu quả đầu tư và gây nản lòng các nhà đầu tư. Nếu quốc gia hoặc vùng có lực
lượng lao động có trình độ, cơ cấu ngành nghề đào tạo hợp lý, hệ thống giáo dục đào tạo hỗ trợ đắc lực cho việc đào tạo đạt trình độ văn hóa và đào tạo nghề cho
người lao động sẽ tạo điều kiện hét sức thuận lợi cho các nhà đầu tư bắt tay vào khởi
sự hoạt động sản xuất kinh doanh tại địa bàn đó.
*Khoa học công nghệ
Quốc gia yếu kém về công nghệ, đồng nghĩa với nguồn nhân lực không có
năng lực sử dụng máy móc hiện đại, sẽ khó thu hút được dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài có hàm lượng chất xám cao. Đội ngũ nhân lực có kỹ thuật cao là điều kiện
hàng đầu để một nước nghèo vượt qua được những hạn chế về tài nguyên thiên nhiên
và trở nên hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài. Sự lạc hậu về trình độ khoa học công nghệ
1
8
trong nước sẽ khó lòng đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư để triển khai các dự án
của họ, làm chậm và thu hẹp lại dòng vốn chảy vào trong nước.
1.4. Kinh nghiệm của một số quốc gia và một số địa phương trong việc thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.4.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Từ 1978 đến nay, FDI được coi là “chiếc chìa khoá vàng” trong tăng trưởng
kinh tế của Trung Quốc. Sau hơn 30 năm cải cách và mở cửa, Trung Quốc đã tạo
được những thành tựu to lớn về thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI. Đầu tư trực tiếp
nước ngoài cùng với xuất khẩu đã trở thành động lực chủ yếu đối với sự tăng trưởng
kinh té của Trung Quốc trong suốt thời gian qua.
Trung Quốc đã tận dụng được FDI để cải cách cơ cấu kinh tế, phát triển công
nghệ, hiện đại hoá đất nước, rút ngắn khoảng cách hệ thống kinh té và hội nhập vào
kinh tế thế giới, nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế. Năm 2002, FDI vào
Trung Quốc đạt kỷ lục, vốn FDI thực hiện đạt 52,7 tỷ USD, lần đầu tiên vượt qua Mỹ
để trở thành nước đứng đầu về thu hút FDI. Năm 2003, Trung quốc thu hút 53,5 tỷ
USD và vốn cam kết lên đến 115,1 tỷUSD, lần thứ hai đứng đầu thế giới về thu hút
FDI và cũng là năm thu hút FDI cao nhất. Theo MOFCOM mặc dù chịu ảnh hưởng
của khủng hoảng tài chính thế giới, song năm 2008 Trung Quốc nhận được lượng
vốn FDI lên tới 111,17 tỷ USD, tăng 27,65% so với năm 2007. Đây là con số ấn
tượng trong bối cảnh FDI toàn cầu trong năm 2008 giảm tới 21% so với năm 2007,
xuống chỉ còn 1.450 tỷ USD (số liệu của Liên hợp quốc), chủ yếu do FDI của các
nước đang phát triển giảm tới 32,7%. [29] Đe thu hút FDI nói riêng, đầu tư nước
ngoài nói chung, Trung Quốc đã có những biện pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất: Trung Quốc đã tiến hành mở cửa dần từng điểm đến, tiến đến khu
vực, tiến tới mở cửa cả những ngành trước đây độc quyền như ngành tài chính ngân
hàng.
Thứ hai: Bên cạnh đó, Trung Quốc còn không ngừng ban hành, sửa đổi nhiều
chính sách ưu đãi dành cho nhà đầu tư nước ngoài: giảm thuế, miễn thuế. Khi đầu tư
1
9
vào các khu vực khó khăn (như miền Trung và miền Tây) các nhà đầu tư sẽ được
hưởng chính sách thuế ưu đãi hơn trong 10 năm sau khi bắt đầu thực hiện dự án. Cụ
thể: đối với doanh nghiệp khuyến khích đầu tư, thì mức thuế thu nhập thấp (15%),
đối với các khu vực khó khăn được khuyến khích đầu tư thì doanh nghiệp không phải
nộp thuế trong 2 năm sau khi có lãi và chỉ nộp 50% thuế thu nhập trong 6 năm tiếp
theo.
Thứ ba: Trung Quốc là nước đầu tiên thành lập các khu công nghiệp, khu chế
xuất kêu gọi các chủ đầu tư.
Thứ tư: Một biện pháp nữa phải kể đến đó là việc Trung Quốc đã rất biết đánh
vào tinh thần dân tộc. Trung Quốc đã có biện pháp, chính sách khuyến khích Hoa
Kiều, người Hoa đầu tư về nước. Người Trung Quốc từ Hồng Kông, Đài Loan, Ma
Cao và nhiều nước trên thế giới đã đổ về đầu tư tại lục địa.
Thứ năm: Điều cốt lõi nhất dẫn tới thành công của Trung Quốc đó là việc
nhận thức đúng vai trò của FDI từ Trung ương tới địa phương; luôn đặt mục tiêu phát
triển kinh tế làm trọng tâm, không phân biệt nguồn lực nào miễn có ích cho phát triển
kinh tế và đầu tư.
1.4.2. Kinh nghiệm của Singapore
Tuy là một nước có quy mô diện tích, dân số nhỏ, ít tài nguyên thiên nhiên,
nhưng Singapore lại là một trong những quốc gia rất thành công trong việc hội nhập
ở mức độ cao với các thị trường quốc tế (về cả mậu dịch hàng hoá cũng như thị
trường vốn). Đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn quan trọng nhất trong thời kì
đầu tiên tiến hành công nghiệp hoá của Singapore. Năm 2005, nguồn vốn FDI vào
Singapore tăng từ 14,374 tỷ USD lên 27,68 tỷ USD (tăng 90,2% so với cùng kỳ năm
2005) và đạt 31,55 tỷ USD vào năm 2007 (tăng 78,7% so với cùng kỳ năm 2006),
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã làm cho tỷ lệ tăng
nguồn vốn FDI vào Singapore năm 2008 so với năm 2007 giảm xuống 43,8% (năm
2008 đạt 22,725 tỷ USD). Trong khi đó, tỷ lệ tăng nguồn vốn FDI trên thế giới lần
2
0
- Xem thêm -