TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
CÔNG TRÌNH THAM GIA XÉT GIẢI
GIẢI THƯỞNG “TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ VIỆT NAM”
TÓM TẮT BÀI NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ GIỮA
THÔNG TIN KẾ TOÁN VÀ GIÁ CỔ PHIẾU CỦA CÁC
CÔNG TY PHI TÀI CHÍNH NIÊM YẾT TRÊN SỞ GIAO DỊCH
CHỨNG KHOÁN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nhóm ngành khoa học: Kinh tế
HÀ NỘI, 2014
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
CÔNG TRÌNH THAM GIA XÉT GIẢI
GIẢI THƯỞNG “TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ VIỆT NAM”
TÓM TẮT BÀI NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ GIỮA
THÔNG TIN KẾ TOÁN VÀ GIÁ CỔ PHIẾU CỦA CÁC
CÔNG TY PHI TÀI CHÍNH NIÊM YẾT TRÊN SỞ GIAO DỊCH
CHỨNG KHOÁN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nhóm ngành khoa học: Kinh tế
Họ và tên nhóm sinh viên:
Vũ Thu Hà....................................Nữ
Nguyễn Thị Mỹ Phương...............Nữ
Hà Phương Thảo...........................Nữ
Nguyễn Thị Bích Trà....................Nữ
Bùi Thị Thu Trang........................Nữ
Lớp: Kế toán – Khoa: Trung tâm Tiên tiến – Chất lượng cao – POHE
Năm thứ:
3
Ngành học:
Kế toán
Người hướng dẫn:
PGS.TS.Nguyễn Hữu Ánh
HÀ NỘI, 2014
2
TÓM TẮT
“Nghiên cứu mối quan hệ giữa thông tin kế toán và giá cổ phiếu
của các công ty phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán
Thành phố Hồ Chí Minh”
KẾT CẤU BÀI NGHIÊN CỨU
Chương 1: Giới thiệu chung về đề tài nghiên cứu
Chương này trình bày ngắn gọn thông tin chung và vấn đề thảo luận, mục
đích nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên
cứu và cuối cùng nêu lên những thành công mà đề tài nghiên cứu được.
Chương 2: Cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa thông tin kế toán và giá cổ
phiếu của các công ty niêm yết
Trong chương này, tác giả trình bày khuôn khổ lý thuyết mà nghiên cứu
tiến hành, bao gồm các nghiên cứu trước đây và các lý thuyết liên quan.
Chương 3: Giả thuyết và phương pháp nghiên cứu
Chương này trình bày giả thuyết và giải thich các biến số sử dụng trong
mô hình.
Chương 4: Thu thập dữ liệu và phân tích kết quả thực nghiệm
Giới thiệu chung nhất về thị trường chứng khoán Việt Nam và Sở giao
dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh. Sau đó, trình bày về phương thức thu thập
dữ liệu. Cuối cùng, mô tả về quá trình phân tích kết quả dựa trên thực nghiệm
và giải thích mối quan hệ giữa thông tin kế toán và giá cổ phiếu.
Chương 5: Kiến nghị và kết luận
Trong chương này, tác giả sẽ trình bày một số kiến nghị, cũng như bổ
sung một số đề xuất. Kết quả của nghiên cứu này sẽ tốt hơn bằng cách tăng kích
thước mẫu và nghiên cứu thêm các biến mới để phân tích đạt được kết quả
chính xác hơn.
3
TỔNG QUAN
Mối quan hệ giữa thông tin kế toán và giá cổ phiếu là mối quan tâm của
rất nhiều đối tượng và đã được nghiên cứu rộng rãi trên thế giới. Những nghiên
cứu trước đây chỉ ra rằng có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu
nhưng chỉ tập trung vào thông tin lợi nhuận kế toán và giá trị sổ sách của vốn
chủ sở hữu. Để có cái nhìn sâu sắc hơn về vấn đề này, bài nghiên cứu không chỉ
đi theo xu hướng nêu trên mà còn phát triển thêm một số chỉ tiêu mới. Như vậy,
bài nghiên cứu sẽ đánh giá tác động của năm chỉ tiêu kế toán: lợi nhuận trên
mỗi cổ phiếu (EPS), giá trị sổ sách của mỗi cổ phiếu (BVS), lợi nhuận trước
thuế và lãi vay (EBIT), lợi nhuận trước thuế, lãi vay và khấu hao (EBITDA),
tiền và tương đương tiền cuối kì (EC) đến giá cổ phiếu. Tác giả khảo sát trên
281 công ty phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí
Minh trong giai đoạn 2003-2012 và sử dụng mô hình Ohlson làm cơ sở lý
thuyết.
Sau khi xử lý số liệu, kết quả thực nghiệm cho thấy chỉ tiêu lợi nhuận trên
mỗi cổ phiếu (EPS) là yếu tố ảnh hưởng mạnh nhất trong khi tiền và tương
đương tiền cuối kì cũng có ảnh hưởng đáng kể đến giá cổ phiếu. Nghiên cứu
cũng xác nhận rằng mô hình Ohlson đã hình thành một khung lý thuyết và công
cụ hữu ích trong việc nghiên cứu mối quan hệ thực tế giữa giá cổ phiếu và số
liệu kế toán. Cuối cùng, nghiên cứu gợi ý phương hướng phát triển đề tài này
thông qua việc thêm các biến mới vào mô hình.
Tất cả kết quả của bài nghiên cứu sẽ là tài liệu tham khảo cho những
người quan tâm, các nhà nghiên cứu, nhà đầu tư và quản trị hoặc người đang sử
dụng mô hình Ohlson như là công cụ đánh giá tình trạng hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp.
4
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong công tác quản lý ở cấp độ vi mô cũng như vĩ mô, thông tin kế toán
có vai trò hết sức quan trọng. Hệ thống thông tin kế toán cung cấp thông tin tới
người sử dụng bên trong và bên ngoài công ty. Các nhà đầu tư thường xuyên sử
dụng báo cáo tài chính để phục vụ cho quyết định đầu tư của họ, các cơ quan
nhà nước sử dụng thông tin này trong lĩnh vực thuế và hoạch định chính sách
kinh tế. Do đó, hệ thống thông tin kế toán phải cung cấp thông tin hữu ích cho
các nhà quản trị doanh nghiệp cũng như cho những quan tâm đến hoạt động tài
chính của doanh nghiệp.
Đối với các công ty niêm yết, quyết định của các nhà đầu tư là mua, bán
hay nắm giữ cổ phiếu, vì vậy giá cổ phiếu được rất nhiều người quan tâm. Giá
cổ phiếu chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố và một trong những nhân tố quan
trọng là thông tin kế toán. Trên thế giới, mối quan hệ giữa thông tin kế toán và
giá cổ phiếu đã được nghiên cứu rộng rãi, các nghiên cứu này tập trung chủ yếu
vào thông tin lợi nhuận kế toán. Tuy nhiên xu hướng nghiên cứu gần đây đã mở
rộng và chú trọng đến các biến khác nữa.
Tại Việt Nam hiện chưa có nghiên cứu nào đi theo xu hướng này, vì vậy
tác giả chọn đề tài “Nghiên cứu mối quan hệ giữa thông tin kế toán và giá cổ
phiếu của các công ty niêm yết trên Sở giao dịch Chứng khoán TP.Hồ Chí
Minh” làm đề tài nghiên cứu. Trong bài nghiên cứu này, bên cạnh việc tiếp thu
tiền đề từ nghiên cứu đi trước là phân tích ảnh hưởng của chỉ tiêu lợi nhuận trên
mỗi cổ phiếu (EPS), tác giả đưa thêm các biến mới vào mô hình: Giá trị sổ sách
của mỗi cổ phiếu (BVS), Lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT), Lợi nhuận
5
trước thuế, Lãi vay và khấu hao ( EBITDA), Tiền và tương đương tiền cuối kì
(EC).
1.2
Mục đích nghiên cứu
Bài nghiên cứu được thiết kế các phương pháp tiếp cận để phân tích mối
quan hệ giữa thông tin kế toán và giá cổ phiếu của các công ty niêm yết trên thị
trường chứng khoán Việt Nam, cụ thể là Sở giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí
Minh. Bài nghiên cứu đề ra hai mục tiêu cụ thể sau:
Phân tích khả năng ảnh hưởng của năm chỉ tiêu số kế toán: Lợi nhuận
trên mỗi cổ phiếu (EPS), Giá trị sổ sách của mỗi cổ phiếu (BVS), Lợi nhuận
trước thuế và lãi vay (EBIT), Lợi nhuận trước thuế, lãi vay và khấu hao
( EBITDA), Tiền và tương đương tiền cuối kì (EC) đến giá cổ phiếu của các
công ty phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng dịch chứng khoánTP.Hồ
Chí Minh.
So sánh và nhận xét mức độ ảnh hưởng giữa các chỉ tiêu trên tới giá cổ
phiếu, kết luận về chỉ tiêu có ảnh hưởng lớn nhất đến giá cổ phiếu.
1.3
Câu hỏi nghiên cứu
Dựa vào mục đích nghiên cứu nêu trên, bài nghiên cứu tập trung giải
quyết mối quan hệ giữa thông tin kế toán và giá cổ phiếu qua hai câu hỏi:
•
Mỗi chỉ tiêu kế toán có quan hệ và ảnh hưởng như thế nào đến giá
cổ phiếu?
•
Chỉ tiêu kế toán nào có tác động lớn nhất tới giá cổ phiếu?
1.4
Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp mô tả hồi quy và mở rộng dựa trên
lý thuyết của các nghiên cứu trước đây trên thế giới. Với phương pháp định
lượng để phân tích dữ liệu thu thập được, tác giả chỉ mô tả các sự kiện thực tế
với nội dung chính sẽ là kết qủa của phương pháp định lượng, mô tả và suy
luận.
6
Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng mô hình Ohlson. Tính đến thời
điểm hiện tại, mô hình Ohlson là mô hình có vai trò hữu ích trong các nghiên
cứu thực nghiệm, biểu hiện của giá cả hoặc giá trị thị trường vốn cổ phần về giá
trị sổ sách của vốn chủ sở hữu hiện hành, các khoản thu nhập hiện tại, cổ tức
hiện tại và giá trị khác có thông tin liên quan. Dựa trên xu hướng chung của các
nghiên cứu trước đây trên thế giới, EPS và BVS tiếp tục là hai biến độc lập
trong mô hình. Bên cạnh đó, nhóm tác giả phát triển thêm mô hình Ohlson bằng
cách đưa thêm các biến độc lập vào mô hình như EBIT, EBITDA và EC để
phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu một cách toàn diện hơn.
Dữ liệu kế toán được thu thập trong giai đoạn 2003-2012, tập chung chủ
yếu vào ba báo cáo kế toán: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
1.5
Phạm vi nghiên cứu
Bài nghiên cứu phân tích mối quan hệ giữa chỉ số kế toán và giá cổ phiếu
của các công ty phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán TP.Hồ
Chí Minh trong mười năm từ 2003 đến 2012.
Sở dĩ nghiên cứu chỉ tập trung vào các công ty phi tài chính vì hiện nay
trên Sở giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh có rất nhiều loại hình công ty,
ngoài công ty phi tài chính ra còn có các công ty tài chính và ngân hàng với đặc
điểm ngành nghề kinh doanh mang tính đặc biệt.
Do vậy, do giới hạn thời gian và dữ liệu, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu
281 công ty phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí
Minh.
7
CHƯƠNG 2
THU THẬP DỮ LIỆU VÀ PHÂN TÍCH
2.1
Thảo luận và phân tích kết quả thực nghiệm
Với bài nghiên cứu thực nghiện tác động của năm chỉ tiêu đến MPS, tác
giả sử dụng mô hình Ohlson:
=
+
+
+
EBIT +
EBITDA +
EC +
(1)
Trong đó:
là giá trị thị trường trên mỗi cổ phiếu củ a công ty i tại ngày cuối
cùng của năm tài chính t, đã được công bố trên các báo cáo tài chính.
là giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu của công ty i tại ngày kết thúc
năm tài chính t.
là thu nhập trên mỗi cổ phiếu của công ty i trong năm t.
EBIT là lợi nhuận trước thuế và lãi vay của công ty i trong năm t.
EBITDA là lợi nhuận trước thuế, lãi vay, và khấu hao của công ty i trong
năm t.
EC là tiền và các khoản tương đương tiền củ a công ty i tại ngày cuối cùng
của năm tài chính t.
e là một sai số ngẫu nhiên với phương sai liên tục và có giá trị bằng 0.
Mối quan hệ của các biến trong mô hình hổi quy bội được thể hiện qua
mô hình sau:
MPS = 9.083 + 0.13 ECit + 0.438 EPSit + eit
Kết quả từ mô hình trên cho thấy EPS và EC cùng có tác động dương hay
tác động cùng chiều đến MPS. Kết quả phân tích thực nghiệm hoàn toàn đúng
với lý thuyết đã trình bày ở các phần trên và đúng theo các nghiên cứu trước
đây: các chỉ tiêu thu nhập trên mỗi cổ phiếu và tiền và tương đương tiền cuối kì
8
có tác động mạnh mẽ đến chỉ tiêu MPS. Tuy nhiên, nếu xét riêng hai chỉ số này,
EPS có khả năng dự báo MPS tốt hơn EC.
Biến độc lập
EPS
EC
Hệ số góc
Beta
Giá trị p
0.438
0.130
0.000
0.000
Hệ số hồi quy Giá trị
điều chỉnh
0.235
F
23.040
Kết quả phân tích thực nghiệm tác động của EPS và EC đến MPS của các
công ty phi tài chính niêm yết trên SGDCK TPHCM giai đoạn 2003-2012.
Giá trị F: Giá trị F trong mô hình hồi quy đa tuyến tính cho thấy kết quả
phân tích hoàn toàn phù hợp với nghiên cứu. Ở mức ý nghĩa thống kê 1%
cho kết quả giá trị F là 23,04.
Giá trị P: Cả hai chỉ tiêu EPS và EC đều có tác động đáng kể đến chỉ tiêu
MPS.
Hệ số hồi quy điều chỉnh R²: R² = 0,235 có nghĩa là hai chỉ tiêu EPS và
EC giải thích được 23,5% chỉ tiêu MPS. Nghiên cứu chỉ ra rằng khi phân
tích đơn lẻ mỗi chỉ tiêu này thì EPS chỉ giải thích được 22% thấp hơn
23,5% là sức mạnh giải thích của các biến khi sử dụng mô hình thích hợp.
Vì vậy, tác động gia tăng của biến EC đã làm tăng sức mạnh giải thích
của mô hình lên 1,5%.
Hiện tượng đa cộng tuyến là nguyên nhân chỉ có hai chỉ tiêu EPS và EC
có ý nghĩa thống kê trong mô hình hồi quy bội đánh giá tác động của các chỉ
tiêu đến MPS. Nói cách khác, ba biến độc lập còn lại là EBIT, EBITDA và BVS
có sự phụ thuộc tuyến tính cao.
Nhằm đánh giá tác động của từng biến độc lập đến biến phụ thuộc MPS
mà không bị ảnh hưởng bởi hiện tượng đa cộng tuyến, tác giả đã sử dụng mô
hình hồi quy tuyến tính hai biến. Kết quả được thể hiện qua bảng sau:
9
Biến độc lập
Hệ số góc
EPS
0.438
EC
0.130
EBIT
0.105
EBITDA
0.085
Kết quả phân tích thực nghiệm tác động các chỉ sổ đến MPS của các
công ty phi tài chính niêm yết trên SGDCK TPHCM giai đoạn 2003-2012
Qua kết quả phân tích thực nghiệm tác động đơn lẻ của các chỉ tiêu, ở
mức ý nghĩa thống kê 5%, ngoại trừ chỉ tiêu BVS, bốn chỉ tiêu còn lại là EPS,
EC, EBIT và EBITDA có ảnh hưởng tích cực và cùng chiều với MPS. Trong
đó, chỉ tiêu lãi cơ bản trên mỗi cổ phiếu EPS có sức mạnh giải thích giải thích
về giá thị trường của mỗi cổ phiếu cao hơn ba chỉ tiêu còn lại. Tác động của
EPS đối với MPS ở nghiên cứu này là 0.438 nghĩa là khi giá trị EPS biến động
tăng 100 đồng thì giá trị MPS sẽ biến động tăng 43.8 đồng.
Tương tự với các chỉ tiêu EC, EBIT và EBITDA có tác động đến MPS
lần lượt là 0.130; 0.105 và 0.085
Kết quả phân tích hàm hồi quy tuyến tính hai biến hoàn toàn đúng với kết
quả phân tích hàm hồi quy đa bội ở trên. Cụ thể, chỉ tiêu EPS và EC có khả
năng giải thích chỉ tiêu MPS hơn các chỉ tiêu còn lại đặc biệt là EPS.
Trong mô hình này, giá trị của các chỉ tiêu chỉ tương ứng với công ty phi
tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh. Nếu chọn
mẫu nghiên cứu là toàn bộ các công ty niêm yết thì giá trị của các hệ số hồi quy
của mô hình có thể thay đổi nhưng không làm thay đổi chiều hướng tác động
của các biến trong mô hình đến giá trị thị trường của mỗi cổ phiếu.
CHƯƠNG 3
KẾT LUẬN
10
3.1
Kết luận
Mô hình này được thiết lập trong lý thuyết về tài chính mà giá trị của tài
sản có thể được xác định bằng cách chiết khấu các khoản lợi ích dự kiến của
chủ sở hữu trong khoảng thời gian nắm giữ cổ phiếu ở chi phí cơ hội của vốn.
Áp dụng khái niệm này để hình thành nên mô hình chiết khấu cổ tức đã trở
thành một phương pháp định giá cổ phiếu tiêu chuẩn. Tuy nhiên, mô hình này
chỉ được nói đến nhiều trong lý thuyết, còn trên thực tế nó khó có thể được áp
dụng vì nó liên quan đến dự toán cổ tức trong tương lai cho việc tiếp tục hoạt
động của công ty. Đây cũng là khó khăn để áp dụng mô hình này cho các công
ty tăng trưởng nhanh mà giữ lại hầu hết thu nhập của công ty và chỉ phân phối
cho cổ đông một ít cổ tức hoặc không có gì trong khoảng thời gian đầu tư.
Vì các lí do như vậy nên những cố gắng đáng kể đã được thực hiện để
phát triển việc xác định giá trị mô hình liên kết giá cổ phiếu với các biến khác
ngoài cổ tức có liên quan trực tiếp đến hoạt động của công ty. Một cách tiếp cận
có thể là dùng chiết khấu dòng tiền tự do hơn là dòng cổ tức để ước tính giá trị
của công ty. Giá trị nợ có thể được khấu trừ để xác định gía trị vốn cổ phần.
Một phương pháp tiếp cận thay thế là tập trung vào các biến kế toán khi các
biến này luôn có sẵn và được dùng để đo lường hiệu suất tài chính. Những phát
triển ban đầu tập trung chủ yếu vào thu nhập, nhưng vài năm gần đây đã chuyển
đổi mô hình là tập trung thêm vào giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu. Dựa trên
khái niệm thu nhập hoặc thu nhập bất thường, họ liên kết các biến số kế toán
với nhau chứ không phải cổ tức, họ vẫn yêu cầu ước tính giá trị các biến số cho
hoạt động kinh doanh trong tương lai của công ti. Để giải quyết vấn đề này,
Ohlson (1995) đã được áp dụng như một khuôn khổ lý thuyết chung áp dụng
cho các nghiên cứu tìm hiểu về mối quan hệ về mặt giá trị của các biến kế toán
khác nhau.
3.2
Đóng góp của đề tài nghiên cứu
11
Đóng góp về mặt khoa học: Bài nghiên cứu đã tổng hợp, đánh giá mối
quan hệ giữa thông tin kế toán và giá cổ phiếu, cụ thể là các chỉ tiêu
EPS, EC, EBIT và EBITDA. Thêm vào đó, bài nghiên cứu đã đưa ra
định hướng và lựa chọn về mô hình lý thuyết giúp thiết lập mối quan hệ
giữa thông tin kế toán và quyết định đầu tư nhằm bổ sung thông tin cho
các công ty phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán TP.Hồ
Chí Minh nói chung và các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán nói
riêng. Kết quả đề tài đã chỉ ra: EPS và EC là hai chỉ tiêu quan trọng
trong việc đưa ra dự báo về MPS. Mức độ hai chỉ tiêu này đem lại là
23,75% và có ý nghĩa thống kê ở mức 5% và 10%. Ngoài ra hai chỉ tiêu
EBIT và EBITDA cũng có ảnh hưởng đáng kể trong việc dự báo MPS.
Đóng góp về mặt thực tiễn: Bài nghiên cứu sẽ đưa ra những phân tích
đầy đủ khoa học cũng như phương hướng và một số đề xuất cho các nhà
đầu tư, nhà quản lý và các đối tượng quan tâm khác đưa ra các quyết
định dựa trên mối quan hệ giữa thông tin và giá cổ phiếu. Qua nghiên
cứu này cho thấy, bộ phận kế toán của các công ty nên tập trung vào các
chỉ tiêu EPS, EC, EBIT và EBITDA. Muốn vậy, các số liệu lợi nhuận
ròng, cổ tức cổ phiếu ưu đãi, vốn chủ sở hữu cần được tính toán một
cách chính xác và cẩn thận. Dựa trên các chỉ tiêu này, các nhà đầu tư nên
sử dụng mô hình này để dự báo giá trị thị trường của mỗi cổ phiếu
(MPS) và đưa ra quyết định đầy tư sáng suốt. Mặc dù, mô hình này mới
đem lại kết quả là 23,75% nhưng bài nghiên cứu đã sử dụng đến 1100
mẫu quan sát trong khoảng thời gian tương đối dài từ năm 2003 đến
2012.
Đóng góp về phương pháp nghiên cứu: Bài nghiên cứu đã mở ra dòng
nghiên cứu thực chứng trong kế toán và được thực nghiệm ở Việt Nam.
Cụ thể, tác giả đã sử dụng mô hình kinh tế lượng để kiểm định giả thuyết
của mô hình Ohlson.
12
Đóng góp khác: Tác giả đã luận giải một cách khoa học các kết quả
nghiên cứu trước đây, đã tìm ra được điểm tương đồng và khác biệt giữa
nghiên cứu này với các nghiên cứu đó để đưa ra những đề xuất, những
kiến nghị về hướng nghiên cứu trong tương lai.
3.3
Đề xuất hướng nghiên cứu trong tương lai
Trong những bài nghiên cứu tiếp theo nên tập trung giải quyết những
điểm hạn chế mà nghiên cứu này chưa làm được như sau:
Mở rộng quy mô đề tài nghiên cứu, tức là không chỉ tập trung vào các
công ty phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí
Minh, phải tiến hành nghiên cứu tập hợp tất cả công ty niêm yết không
phân biệt tài chính hay phi tài chính ở cả hai Sở giao dịch chứng khoán
TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Từ đó kết quả phân tích thực nghiệm sẽ
giúp các nhà đầu tư, những người quan tâm có cái nhìn đa chiều, sâu rộng
hơn về thị trường chứng khoán.
Tiếp tục nghiên cứu mối quan hệ giữa thông tin kế toán và giá cổ phiếu ,
không chỉ dừng lại ở hai biến kế toán là thông tin lợi nhuận và vốn chủ sở
hữu mà còn mở rộng ra các biến khác. Vì qua kết quả phân tích thực
nghiệm của nghiên cứu này cho thấy chỉ tiêu lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu
(EPS) và tiền, tương đương tiền cuối kì (EC) tác động 23.5% đến giá trị
thị trường của mỗi cổ phiếu (MPS). Do đó, còn 76.5% là tác động của các
yếu tố khác. Trong tương lai, các bài nghiên cứu có thể đưa thêm các biến
như khoản phải thu, khoản phải trả, dòng tiền tự do,… vào mô hình.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa thông tin kế toán và giá cổ phiếu không chỉ
dừng lại ở mô hình hồi quy đa tuyến tính bình phương nhỏ nhất mà nên
sử dụng thêm mô hình hồi quy đa tuyến tính một chiều và hai chiều cố
định.
13
Tài liệu tham khảo
14
- Atiase, R. (1985) ‘Pre-disclosure information, firm capitalization, and
security price behavior around earnings announcements’, Journal of
Accounting Research, Vol. 23, Spring, pp.21–35.
- Barth, M., Beaver, W. and Landsman, W. (1998) ‘Relative valuation roles of equity
book value and net income as a function of financial health’, Journal
of Accounting and Economics, Vol. 25, pp.1–34.
- Basu, S. (1997) ‘The conservatism principle and the asymmetric timeliness of
earnings’, Journal of Accounting Economics, Vol. 24, pp.3–37.
- Beaver, W.H., Lambert, R.A. and Morse, D. (1980) ‘The information
content of security prices’, Journal of Accounting and Economics, Vol. 2,
pp.3–28.
- Collins, D.W., Kothari, S.P., Shanken, J. and Sloan, R.G. (1994) ‘Lack of
timeliness versus noise as explanations for low contemporaneous return-earnings
association’, Journal of Accounting and Economics, Vol. 18, pp.289–324.
- Defond, M. and Hung, M. (2004) ‘Investor protection and corporate governance:
evidence from worldwide CEO turnover’, Journal of Accounting Research,
Vol. 42, No. 2, pp.269–312.
- Francis, J., Khurana, I. and Pereira, R. (2003) ‘The role of accounting and
auditing in corporate governance and the development of financial markets
around the world’, Asia-Pacific Journal of Accounting and Economics, Vol.
10, No. 2, pp.1–30.
- Kormendi, R. and Lipe, R. (1987) ‘Earnings innovations, earnings persistence, and
stock returns’, Journal of Business, Vol. 60, pp.323–345.
- Lipe, R.C., Bryant, L. and Widener, S. (1998) ‘Do nonlinearity, firmspecific coefficients, and losses represent distinct factors in the relation between
stock returns and accounting earnings?’, Journal of Accounting and
Economics, Vol. 25, pp.195–214.
15
- Loftus, J. and Sin, S. (1997) ‘Earnings and cash flows from operations as measures
of performance: the role of accruals’, Accounting and Finance, Vol. 37,
pp.147–161.
- Martikainen, T., Kallunki, J. and Perttunen, J. (1997) ‘Finnish earnings
response coefficients: the information content of losses’, The European
Accounting Review, Vol. 6, No. 1, pp.69–81.
- Ohlson, J. (1995) ‘Earnings, book values and dividends in security valuation’,
Contemporary Accounting Research, Vol. 11, No. 2, pp.661–788.
- Owusu-Ansah, S. and Leventis, S. (2006) ‘Timeliness of corporate annual financial
reporting in Greece’, European Accounting Review, Vol. 15, No. 2, pp.273–287.
- Pritchard, N.J. (2002) ‘The relationship between accounting numbers and returns in
the Baltic stock markets’, Discussion Paper 2002/06, Heriot-Watt University.
- Ramesh, K. and Thiagarajan, S.R. (1993) ‘Estimating the permanent component of
accounting earnings using the unobservable components model: implications for
price-earnings research’, Journal of Accounting. Auditing and Finance,
Fall, pp.399–425.
- Sin, S. and Watts, E. (2000) ‘The information content of losses: shareholder
liquidation option and earnings reversals’, Australian Journal of Management,
Vol. 25, No. 3, pp.327–337.
- Subramanyan, K. and Wild, J. (1996) ‘The going concern assumption and the
informativeness of earnings’, Contemporary Accounting Research, Vol. 13,
pp.251–273.
- Xem thêm -