ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
NGUYỄN TRUNG HIẾU
THÔNG ĐIỆP VỀ CUỘC VẬN ĐỘNG
“NGƢỜI VIỆT NAM ƢU TIÊN DÙNG HÀNG VIỆT NAM”
TRÊN BÁO CHÍ KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC
Vĩnh Long – 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI &NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
NGUYỄN TRUNG HIẾU
THÔNG ĐIỆP VỀ CUỘC VẬN ĐỘNG
“NGƢỜI VIỆT NAM ƢU TIÊN DÙNG HÀNG VIỆT NAM”
TRÊN BÁO CHÍ KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học
Mã số: 8320101.01 UD
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. TRẦN THỊ THU NGA
Vĩnh Long - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn
hướng dẫn khoa học của TS. Trần Thị Thu Nga. Các số liệu thống kê, kết quà nghiên
cứu, phát hiện mới là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kì công trình nghiên
cứu khoa học nào trước đây. Luận văn có sử dụng, phát triển, kế thừa một số tư liệu, số
liệu, kết quả nghiên cứu từ các sách, giáo trình, tài liệu,…liên quan đến nội dung đề tài.
Tác giả luận văn
Nguyễn Trung Hiếu
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian học tập và thực hiện luận văn Cao học, tôi đã nhận được rất
nhiều sự chỉ dẫn nhiệt tình của Thầy/Cô Viện Đào tạo Báo chí và Truyền Thông,
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (ĐHQGHN) và Học viện Báo chí và
Tuyên truyền. Tôi vô cùng quý trọng, biết ơn sự chỉ bảo đó và xin chân thành gửi lời tri
ân đến toàn thể quý Thầy/Cô. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cám ơn sâu sắc nhất đến TS. Trần
Thị Thu Nga, Cô đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Và
hơn thế nữa, trong thời gian thực hiện luận văn, tôi đã học ở TS. Trần Thị Thu Nga tinh
thần trung thực, nghiêm túc trong nghiên cứu khoa học và nhiệt huyết trong công việc.
Xin gửi lời cám ơn đến Ban Biên tập Nhật Báo Cần Thơ, Báo Vĩnh Long, Báo
Cà Mau; Ban Giám đốc các Đài PT-TH Cần Thơ, Vĩnh Long, Cà Mau và toàn thể các
Biên tập viên, Phóng viên Nhật Báo Cần Thơ, Báo Vĩnh Long, Báo Cà Mau; Đài PTTH Cần Thơ, Vĩnh Long, Cà Mau đã hỗ trợ tôi trong suốt tiến trình thu thập dữ liệu.
Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, những người luôn ủng hộ, động
viên, tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành luận văn.
Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn chắc chắn không tránh khỏi những hạn
chế nhất định. Tác giả mong nhận được sự đóng góp chân thành của Hội đồng khoa
học, quý Thầy/Cô và bạn bè đồng nghiệp để luận văn hoàn thiện tốt hơn.
Cần Thơ, ngày tháng
năm 2020
Nguyễn Trung Hiếu
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 4
1. Lý do lựa chọn đề tài................................................................................................. 4
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ........................................................................................ 5
3.Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 12
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 12
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn .................................................................................... 13
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................................... 14
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CUỘC VẬN ĐỘNG
“NGƢỜI VIỆT NAM ƢU TIÊN DÙNG HÀNG VIỆT NAM” TRÊN BÁO CHÍ
KHU VỰC ĐBSCL....................................................................................................... 15
1.1 Hệ thống các khái niệm......................................................................................... 15
1.2 Quan điểm của Đảng và Nhà nước về cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên
dùng hàng Việt Nam” ................................................................................................. 23
1.3 Đặc trưng, ưu điểm và hạn chế của các loại hình báo chí truyền thông về cuộc vận
động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” .............................................. 27
1.4 Những yêu cầu đặt ra đối với thông điệp về cuộc vận động “Người Việt Nam ưu
tiên dùng hàng Việt Nam” báo chí ĐBSCL ................................................................ 32
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG TRUYỀN THÔNG THÔNG ĐIỆP VỀ CUỘC VẬN
ĐỘNG “NGƢỜI VIỆT NAM ƢU TIÊN DÙNG HÀNG VIỆT NAM” TRÊN BÁO
CHÍ KHU VỰC ĐBSCL .............................................................................................. 37
2.1 Tần suất, mật độ thông tin cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng
Việt Nam” trên các tờ báo trong diện khảo sát ........................................................... 37
2.2 Nội dung chính về cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt
Nam” trên báo chí khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long ............................................ 44
2.3 Hình thức chuyển tải thông điệp cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng
hàng Việt Nam” trên báo chí khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long ........................... 47
2.4 Thành công, hạn chế, nguyên nhân thành công và hạn chế của báo chí Đồng bằng
Sông Cửu Long trong việc truyền tải thông điệp “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng
Việt Nam” ................................................................................................................... 51
1
2.5 Những vấn đề đặt ra đối với thực trạng truyền thông thông điệp cuộc vận động
“Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam trên báo chí ĐBSCL ....................... 55
CHƢƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG TRUYỀN
THÔNG, THÔNG ĐIỆP CUỘC VẬN ĐỘNG “NGƢỜI VIỆT NAM ƢU TIÊN
DÙNG HÀNG VIỆT” TRÊN BÁO CHÍ ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ....... 59
3.1 Những vấn đề đặt ra đối với việc truyền thông điệp cuộc vận động trên báo chí
Đồng bằng sông Cửu Long ......................................................................................... 59
3.2 Các giải pháp nâng cao chất lượng thông điệp về cuộc vận động “Người Việt
Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” trên báo chí Đồng bằng sông Cửu Long ............ 61
3.2.1 Nhóm giải pháp về định hướng truyền thông thông thông điệp cuộc vận động
trên báo chí Đồng bằng sông Cửu Long .................................................................. 61
3.2.2 Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách ............................................................ 66
3.2.3 Nhóm giải pháp về nội dung, phương thức truyền thông thông điệp trên báo
chí Đồng bằng Sông Cửu Long ............................................................................... 68
3.2.4 Nhóm giải pháp về đội ngũ thông tin tuyên truyền, cơ sở vật chất ................ 75
3.2.5 Nhóm giải pháp về công chúng báo chí ......................................................... 78
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 84
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BBT
CVĐ
Ban Biên tập
Cuộc vận động
ĐBSCL
HTX
Đồng bằng sông Cửu Long
Hợp tác xã
PT-TH
MTTQVN
TPCT
Phát thanh Truyền hình
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Thành phố Cần Thơ
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu của các quốc
gia, trong đó có Việt Nam. Nâng cao chất lượng hàng Việt, khẳng định thương hiệu
hàng Việt là vấn đề cấp thiết. Cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt
Nam là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Chỉ thị số 24/CT-TTg nêu rõ, cuộc vận
động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” nhằm phát huy mạnh mẽ “lòng
yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, tự tôn dân tộc, xây dựng văn hóa tiêu dùng của người
Việt Nam” [32, tr.95], người tiêu dùng hiểu rõ hơn trách nhiệm, quyền lợi của họ đối
với sản phẩm, hàng hóa sản xuất trong nước. Người tiêu dùng thay đổi thái độ, hành vi
ưu tiên mua sắm, tiêu dùng, hàng hóa thương hiệu Việt. Bên cạnh đó, doanh nghiệp
nhận thức rõ trách nhiệm, nâng cao chất lượng sản phẩm, uy tín thương hiệu để đáp ứng
tốt nhu cầu người tiêu dùng, khẳng định thương hiệu Việt trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế. Báo chí giữ vai trò vô cùng quan trọng, là công cụ sắc bén của Đảng và Nhà
nước, là người tuyên truyền, cổ động, tổ chức tập thể việc thực hiện Cương lĩnh đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Báo chí là phương tiện truyền thông
nhanh nhất, hiệu quả nhất. Chỉ thị số 24/CT-TTg ngày 17/9/2012 của Thủ Tướng Chính
phủ Về việc tăng cường thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng
Việt Nam”, nhấn mạnh: “Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, vận động để người
tiêu dùng trong nước và nước ngoài biết, hiểu, đánh giá đúng về chất lượng sản phẩm,
hàng hóa, dịch vụ, khả năng sản xuất, kinh doanh và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
doanh nghiệp Việt Nam; tiếp tục thực hiện các giải pháp thích hợp để khuyến khích,
định hướng tiêu dùng và vận động nhân dân tích cực sử dụng hàng Việt Nam” [31,
tr.95].
Báo chí là phương tiện truyền thông nhanh nhất, hiệu quả nhất. Báo chí xác định
việc thông tin tuyên truyền là một trong những nhiệm vụ thường xuyên của mình.
Thông qua các loại hình báo chí khác nhau: báo in, báo điện tử, phát thanh, truyền hình,
báo chí đã đưa thông tin nhanh nhất, hiệu quả nhất và có tính định hướng dư luận đến
đông đảo quần chúng nhân dân. Báo chí thực hiện nhiệm vụ bằng nhiều hình thức,
phương thức tuyên truyền khác nhau. Chỉ thị số 24/CT-TTg cũng chỉ rõ: “Đa dạng hóa
các hoạt động tuyên truyền cổ động về cuộc vận động bằng các hình thức, nội dung phù
hợp tại các địa điểm công cộng, trụ sở các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội”.
[32, tr. 96]. Báo chí đã tác động tích cực đến mọi mặt đời sống xã hội, trở thành một
trong những động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế-xã hội. Cơ quan báo chí luôn
không ngừng cải thiện, phát triển để hoàn thành sứ mệnh truyền tải thông tin, định
4
hướng thông tin đến quần chúng nhân dân. Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên
dùng hàng Việt Nam” đã được các cơ quan báo chí tuyên truyền cụ thể bằng nhiều
phương thức đưa thông tin đến mọi tầng lớp nhân dân một cách nhanh chóng và hiệu
quả nhất. Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” đã tác động
tích cực đến toàn xã hội. Cuộc vận động góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân
trong việc lựa chọn, tiêu dùng hàng Việt. Doanh nghiệp nhận thức rõ vai trò, trách
nhiệm, không ngừng cải tiến và ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới quy trình sản
xuất, quản lý nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng, bảo đảm sức cạnh tranh sản phẩm,
hàng hóa đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng.
Báo chí cách mạng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện nay không chỉ làm
báo in mà phát triển thêm báo điện tử, hoặc trang tin điện tử; các đài Phát thanh –
Truyền hình (PT-TH) không ngừng đổi mới, đầu tư nâng chất hiện đại, mở rộng kênh
tuyên truyền. Nhật Báo Cần Thơ, Đài PT-TH Cần Thơ có vị trí địa lý nằm ở trung tâm
ĐBSCL. Báo Vĩnh Long, đặc biệt là đài PT-TH Vĩnh Long là một trong những đài PTTH phát triển mạnh của cả nước; Báo Cà Mau và Đài PT-TH Cà Mau nằm ở tận cùng
đất nước, hoạt động báo chí khó khăn hơn rất nhiều so với các tỉnh thành khác trong
khu vực…Nhật Báo Cần Thơ, Báo Vĩnh Long, Báo Cà Mau và Đài PT-TH Cần Thơ,
Vĩnh Long, Cà Mau đã xây dựng các chuyên trang, chuyên mục, chuyên đề…với nhiều
thông điệp tích cực tuyên truyền cho cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng
hàng Việt Nam” và nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của người dân.
Tuy nhiên, trước nhu cầu hội nhập ngày càng sâu rộng, để cuộc vận động có
những tác động mạnh mẽ đến người tiêu dùng trong và ngoài nước, báo chí cần nâng
cao chất lượng nội dung, phương thức truyền thông về cuộc vận động. Để thông điệp
truyền thông về cuộc vận động“Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” trên hệ
thống báo chí tại ĐBSCL nói chung, Nhật Báo Cần Thơ, Báo Vĩnh Long, Báo Cà Mau,
Đài PT-TH Cần Thơ, Vĩnh Long, Cà Mau lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn: “Thông điệp về cuộc vận động
“Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” trên báo chí khu vực Đồng bằng sông
Cửu Long” làm đề tài nghiên cứu, với mong muốn nghiên cứu tìm ra các giải pháp tối
ưu nhất phục vụ nhiệm vụ truyền thông cuộc vận động trên báo chí khu vực ĐBSCL.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1 Vai trò của báo chí trong hoạt động truyền thông
E.P. Prôkhôrốp (2004) trong quyển “Cơ sở lý luận của báo chí”, đã nêu một cách
khái quát nhất về lý luận nghiệp vụ báo chí, những đặc thù của hoạt động báo chí với tư
cách là một lĩnh vực hoạt động sáng tạo. Tác giả giới thiệu quá trình xuất hiện, phát
5
triển của báo chí, bản chất của thông tin đại chúng. Tác giả chú trọng nhấn mạnh vị trí,
vai trò và chức năng của báo chí trong xã hội và mối quan hệ với xã hội; báo chí trong
không gian thông tin; báo chí với tư cách là một lĩnh vực hoạt động sáng tạo; hiệu lực
và có tính hiệu quả của báo chí. E.P. Prôkhôrốp (2004) nhấn mạnh: “Báo chí tác động
cả vào các lĩnh vực khác nhau trong việc quản lý điều hành nhà nước, cả vào đời sống
kinh tế của xã hội, cả vào hoạt động của công dân, với tất cả sự phong phú của các
hình thức hoạt động thiết chế hóa và phi thiết chế hóa của xã hội” [22, tr 14]. Sứ mạng
của báo chí là thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân. Báo chí dựa vào nhân dân và
có nhiệm vụ hoạt động phù hợp với nhu cầu và lợi ích của nhân dân. Báo chí phải là vũ
khí sắc bén, công cụ đắc lực của Đảng trên mặt trận tư tưởng.
Các tác giả Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2011), trong
quyển “Cơ sở lý luận báo chí truyền thông” trình bày các vấn đề về đặc trưng, chức
năng, nguyên tắc, tính sáng tạo của lao động báo chí. Các tác giả chỉ ra rằng: “vị trí của
báo chí được qui định không chỉ bởi quy mô, phạm vi, tính chất, mà bởi khuynh hướng,
nội dung của nó”. [27, tr.2]. Các phương tiện truyền thông cần khai thác, xử lý tốt các
nguồn thông tin, để đáp ứng tốt nhu cầu thông tin phong phú, đa dạng và có chất lượng
của xã hội. Nâng cao nội dung, chất lượng thông tin để góp phần thúc đẩy phát triển đất
nước. Đó cũng là thước đo quan trọng cho hiệu quả hoạt động báo chí.
Đỗ Văn Quân (2012) trong bài viết: “Vai trò của báo chí trong thực hiện phản
biện xã hội” đã nêu rõ vai trò của báo chí là chủ thể khơi nguồn cho phản biện xã hội,
phản biện xã hội là đối tượng phản ánh của báo chí, báo chí định hướng tạo ra sự lan
tỏa trong xã hội, báo chí làm gia tăng sức mạnh của các kênh và các chủ thể phản biện
xã hội khác. Đỗ Văn Quân (2012) nhấn mạnh: “Báo chí là một hiện tượng xã hội đặc
biệt, một loại hình truyền thông đại chúng đa chức năng” [23, tr. 8]. Báo chí có vai trò
định hướng và hướng dẫn dư luận, vì vậy cần cung cấp thông tin có giá trị, chính xác
cho người dân. Xã hội càng phát triển thì báo chí càng có vị trí, vai trò đặc biệt quan
trọng trong đời sống hàng ngày của mỗi quốc gia, dân tộc. “Báo chí ở nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; là
cơ quan ngôn luận của cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; là
diễn đàn của Nhân dân” [24, tr. 45]. (Luật báo chí số 103/2016/QH13). Ngày nay, báo
chí Việt Nam phát triển mạnh mẽ cả về nội dung và hình thức, từng bước đổi mới để
thích ứng với xu thế phát triển của nền công nghiệp 4.0 và truyền thông hiện đại. Đinh
Thị Thu Hằng (2018), trong bài viết: “Vai trò của báo chí đối với quá trình hoạch định
chính sách của Đảng và Nhà nước ở Việt Nam hiện nay” đã khẳng định những thành
tựu mà báo chí đã thực hiện được: “Báo chí nước ta đã tích cực truyền thông chính
6
sách, đóng góp quan trọng tạo sự đồng thuận xã hội để giải quyết các vấn đề của đời
sống. Báo chí cũng huy động nguồn lực trí tuệ của đông đảo người dân, góp phần
không nhỏ vào việc xây dựng, hoàn thiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước” [18, tr.204]
Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới, với những nhiệm vụ cách
mạng mới, báo chí cần có sự chuyển mình để thích ứng và làm tốt nhiệm vụ chính trị
của mình trên lĩnh vực tư tưởng, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa và đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội. Báo chí phải hướng
vào mục tiêu giữ vững ổn định chính trị, tiếp tục sự nghiệp đổi mới, làm cho những
nguyên lý cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng, đạo đức Hồ
Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Người làm báo cần thường
xuyên rèn luyện phẩm chất nghề nghiệp, trách nhiệm công dân của nhà báo và đạo đức
báo chí. Luật Báo chí chỉ rõ vai trò của người làm báo: “Thông tin trung thực về tình
hình đất nước và thế giới phù hợp với lợi ích của đất nước và của Nhân dân; phản ánh
ý kiến, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân” [24, tr. 47] và những người làm báo:
“Là đội quân chủ lực trong việc định hướng dư luận xã hội, tuyên truyền, cổ vũ, động
viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới do Đảng ta
khởi xướng và lãnh đạo” (Nguyễn Phú Trọng, 2015). Nghĩa là các nhà báo phải luôn
bám sát thực tiễn sinh động, để thông tin kịp thời, phân tích sâu sắc những diễn biến
hàng ngày trên tất cả lĩnh vực, ở khắp mọi miền tổ quốc.
Trong công tác tuyên truyền cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng
Việt Nam”, hệ thống báo chí cả nước đã cung cấp những thông tin cần thiết về chủ
trương, chính sách, hoạt động, các sản phẩm…đến mọi tầng lớp nhân dân. Các cơ quan
truyền thông với các loại hình khác nhau, báo in, báo điện tử, PT–TH, là những kênh
thông tin quan trọng trong việc truyền tải thông tin đến công chúng. Các cơ quan
truyền thông báo chí đã xây dựng nhiều chuyên mục, chuyên trang, kênh phát thanh,
phát sóng tuyên truyền cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.
Hình thức chuyển tải thông tin với nhiều thể loại rất đa dạng: phỏng vấn, phóng sự, ghi
chép,...đưa thông tin đến người dân một cách chính xác và nhanh chóng. Theo Luật báo
chí:“Báo in là loại hình báo chí sử dụng chữ viết, tranh, ảnh, thực hiện bằng phương
tiện in để phát hành đến bạn đọc, gồm báo in, tạp chí in” [24, tr.45] và “Báo điện tử là
loại hình báo chí sử dụng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được truyền dẫn trên môi
trường mạng, gồm báo điện tử và tạp chí điện tử”…[24, tr.46]. Báo in đưa thông tin
đến độc giả một cách sinh động, thiết thực thông qua chữ viết, kết hợp hình ảnh; báo
điện tử được truyền dẫn trên môi trường mạng. “Báo nói là loại hình báo chí sử dụng
tiếng nói, âm thanh, được truyền dẫn, phát sóng trên các hạ tầng kỹ thuật ứng dụng
7
công nghệ khác nhau”. [24, tr.45). Báo nói thông qua âm thanh, tiếng nói được truyền
dẫn qua các ứng dụng công nghệ để truyền tải thông tin đến độc giả. “Báo hình là loại
hình báo chí sử dụng hình ảnh là chủ yếu, kết hợp tiếng nói, âm thanh, chữ viết, được
truyền dẫn, phát sóng trên các hạ tầng kỹ thuật ứng dụng công nghệ khác nhau”. [24,
tr.45]. Báo hình sử dụng hình ảnh, kết hợp tiếng nói, âm thanh được truyền dẫn, phát
sóng qua các ứng dụng công nghệ. Với hình thức chuyển tải thông tin đa dạng phong
phú về nội dung và hình thức, các cơ quan báo chí truyền thông nói chung và báo chí
khu vực ĐBSCL nói riêng đã góp phần đưa thông điệp truyền thông về cuộc vận động
“Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” đến cộng đồng. Cuộc vận động – một
chủ trương đã được Bộ Chính trị xác định rất rõ. Mục đích cuộc vận động là phát huy
lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, tự tôn dân tộc, xây dựng văn hóa tiêu dùng của
người Việt Nam và sản xuất ra nhiều hàng Việt Nam có chất lượng.
Báo chí đảm nhận vai trò tham gia giám sát, phản biện, đóng góp ý kiến xây
dựng các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân. Báo chí góp công lớn trong việc mở rộng quan hệ đối ngoại, đưa
Việt Nam đến với bạn bè thế giới; đóng góp tích cực vào việc quảng bá, giới thiệu đất
nước, con người, văn hóa Việt Nam với bạn bè quốc tế, đồng thời là cầu nối quan trọng
giúp bạn đọc trong nước hiểu biết nhiều hơn về tình hình khu vực và thế giới.
2.2 Chất lượng tuyên truyền của báo chí với thực tiễn xã hội
Luận văn: “Tìm hiểu vai trò của báo chí trong xây dựng lối sống đô thị thành
phố Hồ Chí Minh” , tác giả Nguyễn Chiến Dũng, đề cập vai trò của báo chí trong công
tác tuyên truyền, phản ánh thực tiễn xã hội, về việc xây dựng lối sống trong đô thị.
Trong đó tác giả tập trung nêu các vấn đề về lập lại trật tự đô thị, góp phần xây dựng
môi trường văn minh đô thị, hoàn thiện thị hiếu thẩm mỹ về đô thị. Luận văn “Vai trò
của báo chí đối với công cuộc cải cách hành chính: khảo sát qua báo in thành phố Hồ
Chí Minh từ năm 2001 đến năm 2004” của Nguyễn Thanh Vân. Tác giả đã khái quát
vai trò của hệ thống báo chí của cả nước nói chung và hệ thống báo in tại Thành phố
Hồ Chí Minh thời gian qua đã tích cực tham gia tuyên truyền, phổ biến chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước trong công tác cải cách hành chính. Tác giả Nguyễn
Lê Đình Thống với đề tài nghiên cứu khoa học: “Thực trạng và các giải pháp để nâng
cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa đến
2010”, đã khái quát những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, về công tác quản lý báo
chí…Ngoài ra, tác giả đề cập đến thực trạng chất lượng và hiệu quả của hoạt động báo
chí trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa. Tác giả Tạ Ngọc Tấn (2001), truyền thông đại chúng,
đã chỉ ra rằng: “Truyền thông đại chúng vừa đóng vai trò là môi trường sư phạm, người
8
thầy, vừa có khả năng trở thành người bạn hay môi trường văn hóa đối với mọi người
dân. Nó có thể mang tới cho con người những tri thức sâu sắc, những vốn hiểu biết
phong phú,…hay trở thành cầu nối các mối quan hệ giữa con người với nhau” [28,
tr.33]. Hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng có sức mạnh và những khả
năng to lớn để giải quyết các nhiệm vụ tư tưởng trên phạm vi toàn xã hội. Phương tiện
truyền thông đại chúng là công cụ duy nhất có thể tác động đồng thời, nhanh chóng đến
từng thành viên xã hội, liên kết các thành viên xã hội. Việc tác động này được thực hiện
với những hình thức phong phú, sinh động, giàu sức thuyết phục và dễ tiếp nhận.
2.3 Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”
Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” đã được đề cập
đến trong nhiều công trình nghiên cứu, như “Để cuộc vận động người Việt Nam ưu tiên
dùng hàng Việt Nam thực sự đi vào cuộc sống”, tác giả Nguyễn Đình Dương; “Để
người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” tác giả Lê Bá Trình; “Giải pháp thực
hiện chương trình “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”” của Nguyễn Mạnh
Hùng; “Vai trò của nhà bán lẻ trong cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng
hàng Việt Nam”” của Đinh Thị Mỹ Loan; “Hàng Việt Nam chất lượng cao: phù hợp
tâm lý người tiêu dùng” của Lê Hằng… các tác giả nhấn mạnh sự đúng đắn, cần thiết
của cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, sự tác động của
cuộc vận động đối với các nhà sản xuất, doanh nghiệp và người tiêu dùng. Bài viết “Để
cuộc vận động người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam thực sự đi vào cuộc sống”
(Nguyễn Đình Dương, 2012) tác giả nhấn mạnh về việc tăng khả năng thanh toán và
nhận thức của người tiêu dùng về hàng Việt; nâng cao chất lượng và sự hấp dẫn của
hàng Việt; quan tâm xây dựng, quảng bá và bảo vệ thương hiệu hàng Việt; kiểm soát
các hành vi cạnh tranh không bình đẳng và gian lận thương mại. Theo Lê Bá Trình
(2014) cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” là một trong
những giải pháp quan trọng góp phần giải quyết những khó khăn trước mắt, đồng thời
mang tính chiến lược lâu dài đối với sự phát triển bền vững của nền kinh tế đất nước
cũng như xây dựng thói quen, văn hóa tiêu dùng của người Việt”; “Giải pháp thực hiện
chương trình “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” (Nguyễn Mạnh Hùng,
2009), nhấn mạnh chương trình hành động của Bộ Công thương về cuộc vận
động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, những yêu cầu của sản xuất và
tiêu dùng, sự liên kết ba bộ: doanh nghiệp-người tiêu dùng-ngân hàng. Tác giả chỉ ra
rằng: “Chương trình hành động của bộ Công Thương có giá trị để các cơ quan, đơn vị
trong và ngoài ngành tham khảo, bổ sung, cụ thể bằng những điểm nhấn có ấn tượng
trong người tiêu dùng, và doanh nghiệp có ý thức về chất lượng sản phẩm, thái độ phục
vụ cộng đồng” [19, tr.10]. Bài viết: “Vai trò của nhà bán lẻ trong cuộc vận động
9
“Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, tác giả Đinh Thị Mỹ Loan (2012)
người tiêu dùng Việt Nam cần có nhiều thông tin hơn về hàng hóa, sản phẩm Việt Nam
và các nhà phân phối lẻ giữ vai trò khá quan trọng trong việc đưa sản phẩm trực tiếp
đến người tiêu dùng. Theo Đinh Thị Mỹ Loan (2012): “Vai trò của các nhà phân phối,
bán lẻ với tư cách là những người trực tiếp giao dịch hàng ngày với người tiêu dùng là
hết sức quan trọng”, [20, tr. 33-34], các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, nhà bán lẻ
phải nỗ lực nhiều hơn nữa để thuyết phục người tiêu dùng tin tưởng và ủng hộ hàng
Việt. Tác giả Nguyễn Thị Thu Hà (2012) trong bài viết: “Công tác tuyên truyền thực
hiện cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” chỉ ra những thành
công bước đầu, cuộc vận động đã có sức lan tỏa sâu rộng trong xã hội, thu hút sự quan
tâm hưởng ứng của đông đảo nhân dân. Công tác tuyên truyền của các cấp, các ngành,
đặc biệt là các cơ quan thông tấn báo chí đã vào cuộc rất sớm, với các chuyên trang, nội
dung, hình thức tuyên truyền thiết thực, cụ thể. Tác giả nhấn mạnh: “Công tác tuyên
truyền đã vào cuộc sớm, thể hiện rõ vai trò đi trước, thúc đẩy cổ vũ toàn xã hội tham
gia hưởng ứng cuộc vận động”. [15, tr.36]. Tác giả Nguyễn Hằng (2016) trong bài viết
“Phát huy vai trò của báo chí đối với sự phát triển của đất nước” tác giả nhấn mạnh vai
trò của báo chí trong công tác tuyên truyền, đưa thông tin đến quần chúng nhân dân,
trong đó: “thông tin kinh tế luôn chiếm vị trí quan trọng, mật độ cao và tỷ lệ thông tin
lớn trên các loại hình báo chí khác nhau”. [16, tr. 2] “Hàng Việt Nam chất lượng cao:
phù hợp tâm lý người tiêu dùng” của Lê Hằng (2011) đề cập đến vấn đề chất lượng sản
phẩm và giá trị thương hiệu, tác giả nhấn mạnh: “Để thương hiệu ấy có thể vượt trội,
đứng vững trong tâm trí người tiêu dùng, thì phần còn lại thuộc về khái niệm chất
lượng mang đậm màu sắc cảm xúc của người tiêu dùng”, [17, tr.9] sự lựa chọn, ủng hộ
của người tiêu dùng đã đặt ra nhiều trách nhiệm cho doanh nghiệp.
Xây dựng các chương trình truyền thông có nội dung trọng tâm và hình thức
tuyên truyền thích hợp về phát triển kinh tế bền vững cho từng nhóm đối tượng trong xã
hội phù hợp với thực tiễn và yêu cầu phát triển đất nước và khu vực trong từng thời kỳ
2.4 Truyền thông cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt
Nam” trên báo chí
Đài Truyền hình Việt Nam với tham luận “Vai trò của truyền thông trong việc
nâng cao nhận thức của người dân đối với cuộc cuộc vận động“Người Việt Nam ưu
tiên dùng hàng Việt Nam” ”, chỉ ra rằng, Đài Truyền hình Việt Nam luôn chú trọng phát
triển về số lượng, chất lượng tuyên truyền. Ngoài những chuyên mục thường xuyên,
Đài Truyền hình Việt Nam tập trung vào các vấn đề trọng tâm, trọng điểm theo từng
giai đoạn để tuyên truyền cụ thể. Thí dụ, chú trọng tuyên truyền các loại sản phẩm,
hàng hóa liên quan trực tiếp đến tiêu dùng của người dân. Từng nội dung, Đài Truyền
10
hình Việt Nam sẽ xây dựng thành từng thông điệp truyền thông để chuyển tải đến khán
giả thông qua các chương trình truyền hình, từ đó giúp người dân nâng cao ý thức sản
xuất và tiêu dùng hàng Việt Nam. Theo đánh giá Ban Tuyên giáo Trung Ương “Đài
truyền hình Việt Nam vẫn là nguồn thông tin chủ yếu để người dân nắm thông tin về
cuộc vận động” (chiếm 61%). [40, tr.15], với nhiều chuyên mục “Chắp cánh thương
hiệu”, “thương hiệu Việt”, bản tin tiêu dùng (VTV1), Nông nghiệp sạch (VTV1), bạn
của Nhà nông (VTV2),… và được duy trì thường xuyên.
Đài tiếng nói Việt Nam với tham luận “Vai trò của đài tiếng nói Việt Nam trong
việc nâng cao nhận thức của người dân đối với cuộc vận động”, cho thấy rằng, Đài
tiếng nói Việt Nam đã lựa chọn nhiều hình thức truyền thông để chuyển tải các thông
điệp về cuộc vận động đến ngươi dân, như: mở nhiều chuyên mục phát vào giờ “vàng”
với thời lượng nhiều hơn giúp người tiêu dùng có thông tin kịp thời về sản phẩm của
doanh nghiệp trong nước sản xuất đạt tiêu chuẩn, chất lượng để ưu tiên lựa chọn dùng
hàng Việt Nam. Đài tiếng nói Việt Nam mời chuyên gia, nhà bình luận để thông tin về
tiêu chuẩn, giá cả chất lượng các sản phẩm do các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất, đặc
biệt là các hàng hóa liên quan trực tiếp đến đời sống người dân
Viết về vai trò của các phương tiện truyền thông, về chất lượng, phương thức
tuyên truyền trên báo chí, các thông điệp tuyên truyền cho cuộc vận động “Người Việt
Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” đã được đề cập đến trong một số trong công trình
nghiên cứu. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình cụ thể nào đi sâu vào vấn đề
“Thông điệp về cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” trên
báo chí khu vực Đồng bằng sông Cửu Long”. Vì vậy khi thực hiện đề tài này, chúng
tôi có kế thừa từ các công trình nghiên cứu trước. Từ đó, giúp chúng tôi có những định
hướng tìm hiểu, khảo sát thông điệp về cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng
hàng Việt Nam” trên chí khu vực ĐBSCL. Nghiên cứu thông điệp về cuộc vận động
“Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” trên trên báo chí khu vực ĐBSCL,
giúp chúng tôi có cái nhìn toàn diện, khách quan về thông điệp cuộc vận động “Người
Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” trên trên báo chí khu vực ĐBSCL. Từ những
thực trạng này, chúng tôi đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao thông điệp cuộc vận
động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” trên báo chí khu vực ĐBSCL.
3.Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng tuyên truyền của báo chí
đối với cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng về thông điệp cuộc vận động Người
Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam trên Nhật báo Cần Thơ, Báo Vĩnh Long, Báo Cà
Mau, PT-TH Cần Thơ, Vĩnh Long và Cà Mau.
11
- Đề xuất các giải pháp để nâng cao thông điệp về cuộc vận động Người Việt
Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam trên Nhật báo Cần Thơ, Báo Vĩnh Long, Báo Cà
Mau, PT-TH Cần Thơ, Vĩnh Long và Cà Mau và báo chí truyền thông ĐBSCL.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thông điệp về cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”
trên báo chí khu vực Đồng bằng sông Cửu Long”
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Khảo sát thông điệp truyền thông của Nhật Báo Cần Thơ, Báo Vĩnh Long, Báo
Cà Mau, PT-TH Cần Thơ, Vĩnh Long và Cà Mau đối với cuộc vận động “Người Việt
Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.
- Địa bàn, đối tượng bạn đọc khảo sát:
Bạn đọc Nhật Báo Cần Thơ, PT – TH Cần Thơ
Bạn đọc Báo Vĩnh Long, PT-TH Vĩnh Long
Bạn đọc Báo Cà Mau, PT- TH Cà Mau
- Khảo sát hoạt động báo chí của Nhật báo Cần Thơ, Báo Vĩnh Long, Báo Cà
Mau, PT-TH Cần Thơ, Vĩnh Long và Cà Mau.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát từ tháng 9/ 2019 đến tháng 12/2019 trên ba địa
bàn Tp.Cần Thơ, tỉnh Vĩnh Long và Cà Mau. Nghiên cứu này được thực hiện theo
phương pháp hỗn hợp. Đó là kết hợp dữ liệu định lượng có được từ bảng khảo sát và dữ
liệu định tính có từ các câu hỏi mở và kết quả phỏng vấn nhà báo và độc giả Nhật báo
Cần Thơ, Báo Vĩnh Long, Báo Cà Mau, PT-TH Cần Thơ, Vĩnh Long và Cà Mau. Các
bước thực hiện cụ thể:
Bước 1: Nhóm nghiên cứu tiến hành phát phiếu khảo sát trực tiếp ngẫu nhiên với
246 độc giả, cụ thể: độc giả Nhật Báo Cần Thơ, PT – TH Cần Thơ thông qua bảng hỏi
113 độc giả; Báo Vĩnh Long, PT-TH Vĩnh Long là 70 độc giả; Báo Cà Mau, PT- TH
Cà Mau là 63 độc giả. Nội dung khảo sát tìm hiểu về thông điệp của báo chí trong cuộc
vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Phiếu khảo sát độc giả gồm
17 câu hỏi (CH) trắc nghiệm.
Bước 2: Nhóm nghiên cứu tiến hành phát phiếu khảo sát 115 biên tập viên,
phóng viên đang công tác tại Nhật Báo Cần Thơ, Vĩnh Long, Cà Mau; PT – TH Cần
Thơ; Báo Vĩnh Long, PT-TH Vĩnh Long; Báo Cà Mau, PT- TH Cà Mau. Nội dung
khảo sát nhận thức như thế nào về vai trò của báo chí với thông điệp cuộc vận động
“Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” trên báo, PT-TH ở vùng ĐBSCL.
Phiếu khảo sát biên tập viên, phóng viên gồm 12 câu hỏi (CH) trắc nghiệm.
12
Theo Krejcie và Morgan (1970) về xác định số lượng mẫu trong nghiên cứu và
dựa trên số liệu thống kê, Nhật Báo Cần Thơ và PT- TH Cần Thơ trung bình có khoảng
160 lượt tuyên truyền/ tháng thì số lượng mẫu là 113; Báo Vĩnh Long, PT-TH Vĩnh
Long trung bình có khoảng 85 lượt tuyên truyền/ tháng thì số lượng mẫu là 70; Báo Cà
Mau, PT- TH Cà Mau bình có khoảng 75 lượt tuyên truyền/ tháng thì số lượng mẫu là
63.
Bước 3: Phỏng vấn 12 biên tập viên, phóng viên trực tiếp thực hiện chuyên mục
“Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” Nhật Báo Cần Thơ, PT – TH Cần Thơ;
Báo Vĩnh Long, PT-TH Vĩnh Long; Báo Cà Mau, PT- TH Cà Mau và 9 độc giả Nhật
Báo Cần Thơ, PT – TH Cần Thơ; Báo Vĩnh Long, PT-TH Vĩnh Long; Báo Cà Mau,
PT- TH Cà Mau. Nội dung phỏng vấn phóng viên là họ đánh giá như thế nào về thông
điệp truyền thông về cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”
trên báo chí ĐBSCL. Nội dung phỏng vấn độc giả Nhật Báo Cần Thơ, PT – TH Cần
Thơ; Báo Vĩnh Long, PT-TH Vĩnh Long; Báo Cà Mau, PT- TH Cà Mau nhận thức về
thông điệp truyền thông về cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt
Nam” trên báo chí ĐBSCL.
Bước 4: Phương pháp phân tích trong nghiên cứu này là thống kê mô tả các dữ
liệu thu thập câu hỏi điều tra độc giả Nhật Báo Cần Thơ, PT – TH Cần Thơ; Báo Vĩnh
Long, PT-TH Vĩnh Long; Báo Cà Mau, PT- TH Cà Mau, kết quả ý kiến độc giả Nhật
Báo Cần Thơ, PT – TH Cần Thơ; Báo Vĩnh Long, PT-TH Vĩnh Long; Báo Cà Mau,
PT- TH Cà Mau được mã hóa và xử lý với phần mềm IBM SPSS 20.0.
- So sánh, phân tích qua nghiên cứu Nhật Báo Cần Thơ, PT – TH Cần Thơ; Báo
Vĩnh Long, PT-TH Vĩnh Long; Báo Cà Mau, PT- TH Cà Mau
Chúng tôi tổng hợp hệ thống các văn bản, chỉ thị, chủ trương của Đảng, Nhà
nước về tuyên truyền cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam. Các
báo cáo tổng kết phong trào Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam… hệ thống
văn bản này là cơ sở lý luận, định hướng cho việc nghiên cứu đề tài.
Tìm hiểu các cơ sở lý luận về báo chí, luật báo chí, vai trò của báo chí trong
công tác tuyên truyền cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam. Hệ
thống văn bản này giúp chúng tôi có cái nhìn toàn diện về cuộc vận động người Việt
Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam những điều đạt được và chưa được của báo chí trong
công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin đến bạn đọc.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Thông điệp theo Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2011), trong
quyển “Cơ sở lý luận báo chí truyền thông” là: “Thông điệp có thể bằng tín hiệu, kí
hiệu, mã số, bằng mực trên giấy, song trên không trung hoặc bằng bất cứ tín hiệu nào
13
mà người ta có thể hiểu được và được trình bày ra một cách có ý nghĩa” [27, tr.14].
Thông điệp được diễn đạt bằng ngôn ngữ mà người cung cấp và người tiếp nhận đều
hiểu. Thông điệp một trong bốn yếu tố trong quá trình truyền thông. Trong truyền
thông, các thông điệp được truyền tải qua lại giữa các thành viên tham gia tạo ra sự liên
tục và tác động qua lại của quá trình truyền thông. Từ các cơ sở lý luận về thông điệp,
về truyền thông, chúng tôi tiến hành khảo sát độc giả và phóng viên Nhật Báo Cần Thơ,
PT – TH Cần Thơ; Báo Vĩnh Long, PT-TH Vĩnh Long; Báo Cà Mau, PT- TH Cà Mau
để làm rõ thông điệp truyền thông cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng
Việt Nam trên báo chí ĐBSCL.
Từ các cơ sở lý luận, kết quả khảo sát thực tế về thông điệp truyền thông về cuộc
vận động, chúng tôi đề xuất giải pháp để nâng cao chất lượng và phương thức truyền
thông thông điệp về cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”
trên báo chí khu vực ĐBSCL. Mức độ cao nhất của hiệu quả xã hội của truyền thông
đại chúng là hiệu quả thực tế. “Hiệu quả thực tế của truyền thông đại chúng là những
thay đổi, vận động thực tế của đời sống xã hội dưới tác động của truyền thông đại
chúng” (Tạ Ngọc Tấn (2001) [28, tr.31].
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mục lục, bảng quy ước viết tắt, mở đầu, kết luận, phụ lục, luận văn gồm
các chương
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về cuộc vận động “Người Việt Nam ưu
tiên dùng hàng Việt Nam” trên báo chí Đồng bằng Sông Cửu Long
Chương 2: Thực trạng truyền thông thông điệp về cuộc vận động “Người Việt
Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” trên trên báo chí Đồng bằng Sông Cửu Long
Chương 3: Những giải pháp nâng cao chất lượng thông điệp về cuộc vận động
“Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” trên báo chí Đồng bằng Sông Cửu
Long
14
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CUỘC VẬN ĐỘNG
“NGƢỜI VIỆT NAM ƢU TIÊN DÙNG HÀNG VIỆT NAM”
TRÊN BÁO CHÍ KHU VỰC ĐBSCL
1.1 Hệ thống các khái niệm
1.1.1 Truyền thông và truyền thông đại chúng
Trong sự phát triển như vũ bão của xã hội thông tin như ngày nay, nhu cầu tiếp
cận các nguồn thông tin chính thống, đáng tin cậy từ các cơ quan truyền thông là vô
cùng quan trọng. Báo chí (truyền thông) là kênh tương tác giữa Nhà nước và nhân dân.
Báo chí với chức năng giáo dục tư tưởng, tuyên truyền, cổ động, quản lý, giám sát xã
hội thông qua các phương tiện truyền thông để cung cấp thông tin kịp thời, nhanh
chóng, chính xác đến công chúng. Truyền thông góp phần lan tỏa thông tin, truyền tải
thông điệp, kết nối cộng đồng, định hướng dư luận, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội.Có nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về truyền thông, tùy theo góc nhìn
truyền thông. Theo John (1954): “Truyền thông là quá trình trao đổi tư duy hoặc ý
tưởng bằng lời” [9, tr.11] (Dẫn theo Nguyễn Văn Dững (2012). Truyền thông thường
được mô tả như là việc truyền ý nghĩ, thông tin, ý tưởng, ý kiến hoặc kiến thức từ một
người/một nhóm người sang một người/nhóm người khác bằng lời nói, văn bản, hình
ảnh, hoặc tín hiệu. Lê Thanh Bình (2008) cho rằng: “Truyền thông là quá trình trao đổi
thông điệp giữa các thành viên hay nhóm người trong xã hội nhằm đạt được sự hiểu
biết lẫn nhau, để từ đó chia sẻ ý tưởng hay hành động vì một mục đích nhất định”. [7,
tr.8]. Và Nguyễn Văn Dững (2012): “Truyền thông là quá trình liên tục trao đổi thông
tin, tư tưởng, tình cảm…, chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều người
nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau, thay đổi nhận thức, tiến tới điều chỉnh hành vi và
thái độ phù hợp với nhu cầu phát triển của cá nhân/nhóm/cộng đồng xã hội”.[9, tr.13].
Truyền thông là hoạt động tương tác hai chiều giữa bên cung cấp thông tin và người
tiếp nhận thông tin, làm sao cho thông điệp tuyên truyền được lan tỏa sâu rộng trong
quần chúng, tác động vào ý thức, điều chỉnh hành vi và biến thành những hành động cụ
thể, nhằm đạt được mục tiêu mà thông điệp hướng tới.
Theo Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2011): “Truyền thông là
một quá trình liên tục trao đổi hoặc chia sẻ thông tin, tình cảm, kĩ năng nhằm tạo sự
liên kết lẫn nhau để dẫn tới sự thay đổi trong hành vì và nhận thức”. [27, tr.13]. Truyền
thông là quá trình mang tính liên tục, trao đổi, chia sẻ để dẫn đến sự hiểu biết lẫn nhau.
Đây là yếu tố rất quan trọng đối với mục đích và hiệu quả của truyền thông. Truyền
thông giúp thay đổi nhận thức và hành vi.
15
Tạ Ngọc Tấn (2001), Lê Thanh Bình (2008), Dương Xuân Sơn (2014), Nguyễn
Văn Dững (2012) đã nêu lên những quan điểm về truyền thông đại chúng. Theo Tạ
Ngọc Tấn (2001): “Truyền thông đại chúng là hoạt động giao tiếp xã hội rộng rãi,
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng”. [28, tr.10]. Truyền thông đại chúng là
hoạt động giao tiếp xã hội, đó là quá trình trao đổi chia sẻ thông tin giữa người nói và
người nghe nhằm đạt mục tiêu giao tiếp nào đó. Nghĩa là truyền thông đại chúng đáp
ứng và thỏa mãn các nhu cầu giao tiếp mang tính phổ biến và tạo ra hiệu quả quy mô và
phạm vi xã hội rộng lớn. Lê Thanh Bình (2008) thì “Truyền thông đại chúng là hoạt
động chuyển giao các thông tin có tính phổ biến trong xã hội một cách rộng rãi, công
khai, qua các phương tiện… như báo in, đài, internet, báo điện tử...đến đông đảo công
chúng” [7, tr.16]. Các phương tiện truyền thông như báo in, đài phát thanh, truyền
hình, báo điện tử,…có nhiệm vụ chuyển tải và đưa thông tin đến rộng rãi đến công
chúng, đó được xem: “Là một quá trình truyền tải thông tin và thực hiện giao tiếp
tương tác chủ động hơn rất nhiều; do đó mà thông tin truyền đi cũng rộng và mở hơn
nhiều” [7, tr.16]. Hiểu biết, tác động và ảnh hưởng lẫn nhau Dương Xuân Sơn (2014)
cho rằng: “Truyền thông đại chúng có thể được hiểu là hệ thống hoặc mạng lưới các
phương tiện truyền thông hướng tác động vào đông đảo công chúng xã hội (nhân dân
các vùng miền, cả nước, khu vực hay cộng đồng quốc tế) để thông tin chia sẻ, nhằm lôi
kéo và tập hợp giáo dục, thuyết phục và tổ chức đông đảo công chúng xã hội nhân dân
nói chung tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế, văn hóa xã hội đã và đang đặt ra”.
[25, tr.35]. Tác giả Nguyễn Văn Dững (2012), truyền thông đại chúng: “là hoạt động
truyền thông-giao tiếp xã hội trên phạm vi rộng lớn được thực hiện thông qua các
phương tiện kỹ thuật và công nghệ truyền thông” [9, tr.35]
Truyền thông đại chúng làm cho hoạt động giao tiếp xã hội, chuyển giao thông
tin, phổ biến được rộng khắp, công chúng tiếp cận các nguồn thông tin, thay đổi nhận
thức, hành vi cùng tham gia vào các hoạt động về kinh tế, văn hóa, xã hội đang đặt ra
và cùng lan tỏa trong cộng đồng.
1.1.2 Tuyên truyền, thông điệp truyền thông và thông điệp báo chí
Theo Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2011), “Thông điệp
trong truyền thông phải qua các bước mã hóa, truyền đi, tiếp nhận và giải mã”.
[27;20]. Nghĩa là mỗi thông điệp bắt đầu từ một tổ chức, một cơ quan hay một người
chuyển thông điệp đến người tiếp nhận, thông tin truyền thông chứa thông tin mã hóa
bằng các tín hiệu ngôn ngữ. Người tiếp nhận giãi mã bằng con đường riêng của mình để
làm sáng tỏ thông tin và tiếp nhận. Theo tác giả Nguyễn Văn Dững (2012) “Thông điệp
được hiểu là một phát ngôn hoàn chỉnh cả về nội dung và hình thức dành cho một
16
- Xem thêm -