Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự ...

Tài liệu Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự

.PDF
78
119
144

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƢ PHÁP TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI NÔNG THANH XUYÊN THỜI HIỆU KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ THỜI HIỆU YÊU CẦU GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ CHUYÊN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ MÃ SỐ: 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI THỊ HUYỀN HÀ NỘI - 2010 MỤC LỤC Tên đề mục A - LỜI NÓI ĐẦU …………………………………………………… B - NỘI DUNG ………………………………………………………. CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỜI HIỆU KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ THỜI HIỆU YÊU CẦU GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ……………………………………………………… 1.1. Khái niệm thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự ………………………………………………. 1.1.1. Khái niệm vụ việc dân sự, vụ án dân sự, việc dân sự ………… 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự…………………………… 1.2. Ý nghĩa của việc quy định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu và hậu quả của việc hết thời hiệu…………………………………… 1.2.1.Ý nghĩa của việc quy định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu 1.2.2 Hậu quả của việc hết thời hiệu …………………………………. 1.3. Cơ sở của việc xác định thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự …………………………………. 1.3.1 Cơ sở lý luận…………………………………………………. 1.3.2. Cơ sở thực tiễn ………………………………………………… 1.4. Nguyên tắc áp dụng pháp luật để xác định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu và cách tính thời hiệu…………………………… 1.4.1. Nguyên tắc áp dụng pháp luật để xác định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu…………………………………………………….. 1.4.2. Cách tính thời hiệu…………………………………………….. 1.5. Bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu ……………. CHƢƠNG 2: THỜI HIỆU KHỞI KIỆN, THỜI HIỆU YÊU CẦU ĐỐI VỚI MỘT SỐ VỤ VIỆC DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH…………………………………………… 2.1. Thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp về dân sự ……… 2.1.1. Thời hiệu khởi kiện tranh chấp về hợp đồng dân sự …………. 2.1.2. Thời hiệu khởi kiện tranh chấp bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp Trang 1 6 6 6 6 8 14 14 16 17 17 18 19 19 22 25 26 26 26 30 đồng …………………………………………………………………. 2.1.3. Thời hiệu khởi kiện tranh chấp thừa kế …………………….. 2.1.4. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu ……………………………………………………………… 2.2. Thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp về lao động……… 2.3. Thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp về kinh doanh, thƣơng mại……………………………………………………….. 2.4. Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu đối với những loại vụ việc khác ……………………………………………………………….. 2.4.1. Thời hiệu khởi kiện, yêu cầu về bảo hiểm ………………….. 2.4.2. Thời hiệu khởi kiện về hàng hải……………………………….. 2.5. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự với những vụ việc pháp luật nội dung không có quy định cụ thể ………………………………………………………………… 2.5.1. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự với những trƣờng hợp pháp luật nội dung không có quy định cụ thể ……………………….. 2.5.2. Thời hiệu yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự trong những trƣờng hợp pháp luật nội dung không có quy định cụ thể ………… CHƢƠNG III: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỜI HIỆU KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ THỜI HIỆU YÊU CẦU GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ……………………………………… 3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự …… 3.2. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự ………………………… 3.2.1. Đáp ứng yêu cầu của cải cách tƣ pháp ……………………… 3.2.2. Đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trƣờng…………………. 3.2.3. Khắc phục bất cập của pháp luật hiện hành ………………… 3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự ………………………. 3.3.1. Kiến nghị sửa đổi một số quy định của Bộ luật dân sự 2005 34 38 42 45 47 47 49 53 53 53 55 55 62 62 63 65 66 66 và Bộ luật Tố tụng dân sự về thời hiệu khởi kiện và thời hiệu yêu cầu 3.3.2. Các giải pháp khác ……………………………………………. C – KẾT LUẬN ……………………………………………………. 68 71 1 A- LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ, phong phú của các quan hệ dân sự thì các tranh chấp, yêu cầu về dân sự phát sinh tại Tòa án ngày càng nhiều và đa dạng. Điều này đòi hỏi cần có một hệ thống pháp luật đầy đủ và hoàn thiện hơn để điều chỉnh các quan hệ dân sự mới phát sinh và giải quyết các tranh chấp, yêu cầu của các chủ thể. Để đáp ứng nhu cầu này, hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật tố tụng dân sự nói riêng đang ngày càng đƣợc chú trọng xây dựng. Sự ra đời của Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 đánh dấu một bƣớc phát triển mới của pháp luật Tố tụng dân sự Việt Nam. Đây là văn bản pháp luật quy định đầy đủ và có hệ thống các vấn đề về tố tụng dân sự nhƣ: các nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự, trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thƣơng mại và lao động. Bộ luật cũng quy định khá đầy đủ về cơ chế bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Khi quyền dân sự bị xâm hại, ngƣời có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm hại có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tuỳ thuộc vào tính chất, mức độ xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp mà các chủ thể có thể khởi kiện hoặc yêu cầu toà án giải quyết. Để các chủ thể có thể thực hiện đƣợc quyền này cần có những điều kiện nhất định, trong đó yêu cầu, khởi kiện phải còn thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu. Việc xác định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu là một vấn đề rất quan trọng. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 và Bộ luật Dân sự năm 2005 đã có những quy định khá đầy đủ về vấn đề này. Song, để có đƣợc cách hiểu thống nhất và áp dụng đƣợc một cách hiệu quả nhất những quy định này đòi hỏi sự nỗ lực, phối kết hợp của các cơ quan lập pháp và tƣ pháp. 2 Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện và thời hiệu yêu cầu còn nhiều vƣớng mắc, bất cập: Cách xác định bắt đầu thời hiệu chƣa chính xác; một số quy định của pháp luật hiện hành chƣa hợp lý nhƣ quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế; quy định của pháp luật về vấn đề thời hiệu còn thiếu hƣớng dẫn cụ thể nhƣ vấn đề thời hiệu yêu cầu… Bởi vậy, tác giả đã chọn vấn đề: “Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự ” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình với mong muốn có thể đóng góp một phần vào quá trình nghiên cứu và hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là một vấn đề khá mới mẻ và phức tạp. Bởi vậy, số lƣợng các bài viết, công trình nghiên cứu về vấn đề này còn rất hạn chế. Có thể kể đến một số bài viết về vấn đề này nhƣ: “Những vướng mắc về việc không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế” của Nguyễn Công Lực đăng trên tạp chí Toà án nhân dân số 19 tháng 10/2006 bàn về thời hiệu khởi kiện về thừa kế; “Bàn về thời hiệu đối với tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất khi phải qua hoà giải” của Nguyễn Thanh Hải đăng trên tạp chí Toà án nhân dân số 21 kỳ I tháng 11/2008; “Về thủ tục giải quyết việc dân sự trong Bộ luật Tố tụng dân sự ” của Tống Công Cƣờng đăng trên tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật số 11/2007; “Một số vấn đề về thủ tục giải quyết việc dân sự theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2004” của Vũ Thị Hồng Vân đăng trên tạp chí Toà án nhân dân số 9 tháng 5/2006; “Thời hiệu khởi kiện các vụ án kinh tế theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 ” của Đoàn Đức Lƣơng đăng trên tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật số 10/2005; “Về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu trong Bộ luật Tố tụng dân sự” của Nguyễn Minh Hằng - giảng viên Học viện Tƣ pháp - tuyển tập bài viết hội thảo khoa học cấp trƣờng về việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 ngày 30/12/2005… 3 Tuy nhiên, các bài viết mới chỉ đề cập đến thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu đối với những vụ án dân sự, việc dân sự cụ thể mà chƣa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về thời hiệu khởi kiện và thời hiệu yêu cầu nói chung. 3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự, pháp luật của Việt Nam và một số nƣớc trên thế giới về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự; thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự. Về đề tài “Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự” có rất nhiều vấn đề cần bàn luận, tuy nhiên, trong phạm vi khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề liên quan đến thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu nhƣ: khái niệm thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu, các quy định của pháp luật hiện hành về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu và những bất cập của nó, từ đó đƣa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn đƣợc nghiên cứu dựa trên phƣơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp với các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học khác nhƣ: phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải … 5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự, nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu và thực tiễn áp dụng chúng, từ đó thấy đƣợc những vƣớng mắc, bất cập và đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần bảo vệ quyền khởi kiện, 4 quyền yêu cầu của các chủ thể và hoàn thiện pháp luật Tố tụng dân sự Việt Nam. Với mục đích nghiên cứu nhƣ vậy, nhiệm vụ nghiên cứu đƣợc đặt ra nhƣ sau: - Làm rõ một số vấn đề lý luận về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sƣ nhƣ: khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu; sự phát triển của pháp luật Tố tụng dân sự Việt Nam về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu. - Phân tích, đánh giá những quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 và Bộ luật Dân sự năm 2005 về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu. - Tìm hiểu quy định của pháp luật một số nƣớc trên thế giới đại diện cho hai truyền thống tố tụng điển hình là Tố tụng tranh tụng và Tố tụng xét hỏi nhƣ: Nga, Pháp, Nhật Bản, Thái Lan, Anh, Mỹ về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu nhằm so sánh và tham khảo. - Nêu lên thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu, phân tích, đánh giá để từ đó thấy đƣợc những bất cập, vƣớng mắc, nguyên nhân của thực trạng và đƣa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Tố tụng dân sự Việt Nam về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu. 6. Những điểm mới của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên khảo đầu tiên có tính hệ thống và toàn diện về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự. Luận văn có những điểm mới sau đây: - Phân tích, làm sáng tỏ khái niệm thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự. - Làm rõ đƣợc cơ sở của việc quy định thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quuyết việc dân sự. - Phân tích có hệ thống các quy định của pháp luật liên quan đến thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự. 5 - Đề xuất đƣợc một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và thực hiện những quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn đƣợc kết cấu thành 3 phần: Lời mở đầu, nội dung và kết luận. Phần nội dung gồm 3 chƣơng: - Chƣơng I: Một số vấn đề lý luận về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự - Chƣơng II: Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu đối với một số vụ việc dân sự cụ thể theo pháp luật Việt Nam hiện hành - Chƣơng III: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự Kết luận Danh mục tài liệu tham khảo 6 B- NỘI DUNG CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỜI HIỆU KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ THỜI HIỆU YÊU CẦU GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ 1.1. Khái niệm thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự 1.1.1 Khái niệm vụ việc dân sự, vụ án dân sự, việc dân sự Trong lĩnh vực dân sự, lợi ích của các bên đƣợc xem nhƣ là tiền đề dẫn đến tranh chấp, yêu cầu về dân sự. Tranh chấp pháp lý sẽ không thể xuất hiện, nếu không có yêu cầu, khởi kiện của các bên. Khởi kiện là hành vi đầu tiên của các cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Khởi kiện, yêu cầu trƣớc hết là quyền dân sự của các chủ thể, là phƣơng thức mà các chủ thể yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền dân sự cho mình, cho nhà nƣớc hoặc ngƣời khác. Tuy nhiên, quyền khởi kiện của các chủ thể chỉ làm phát sinh nghĩa vụ thụ lý vụ việc của Tòa án khi việc khởi kiện tuân thủ đúng và đủ các điều kiện khởi kiện về nội dung, về hình thức khởi kiện và tạm ứng án phí. Việc xem xét, thụ lý yêu cầu, khởi kiện của các cá nhân, cơ quan, tổ chức chính là sự bảo đảm của nhà nƣớc đối với việc thực hiện các quyền dân sự của các chủ thể đã đƣợc pháp luật ghi nhận và làm phát sinh tại Tòa án các vụ việc dân sự. Pháp luật của đa số các nƣớc trên thế giới đều quan niệm vụ việc dân sự là các tranh chấp, yêu cầu phát sinh từ các quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng được Tòa án thụ lý giải quyết (bao gồm: Dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thƣơng mại và lao động). Do đó, theo pháp luật của nhiều nƣớc trên thế giới không có sự tách biệt giữa khái niệm vụ án dân sự và việc dân sự nhƣ pháp luật Việt Nam hiện hành mà chỉ có khái niệm vụ việc dân sự. 7 Ở Việt Nam, trƣớc năm 2004, theo quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết vụ án lao động tồn tại ba khái niệm: vụ án dân sự, vụ án kinh tế, vụ án lao động. Theo đó, vụ án kinh tế bao gồm các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa cá nhân có đăng ký kinh doanh với pháp nhân, các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty, tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các tranh chấp kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Vụ án lao động bao gồm các tranh chấp lao động cá nhân giữa ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lƣơng, thu nhập và các điều kiện lao động khác, về thực hiện hợp đồng lao động và trong quá trình học nghề, tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể ngƣời lao động với ngƣời sử dụng lao động về thực hiện thỏa ƣớc lao động tập thể, về quyền thành lập, gia nhập, hoạt động công đoàn. Vụ án dân sự bao gồm những tranh chấp và những việc không có tranh chấp về dân sự và hôn nhân gia đình nhƣ: tranh chấp về quyền sở hữu, hợp đồng, bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng hoặc những tranh chấp khác … Nhƣ vậy, trong các Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết vụ án lao động không có khái niệm vụ việc dân sự mà chỉ có các khái niệm vụ án dân sự, vụ án kinh tế, vụ án lao động trong đó bao gồm cả những việc có tranh chấp và những việc không có tranh chấp. Trên cơ sở đƣờng lối đổi mới của Đảng về xây dựng nhà nƣớc pháp quyền, về cải cách tƣ pháp, tại kỳ họp thứ 5, từ ngày 11 tháng 5 đến ngày 15 tháng 6 năm 2004, Quốc hội khóa XI nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam đã thông qua Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) (có hiệu lực từ ngày 01/01/2005). BLTTDS là kết quả của sự pháp điển hóa quan trọng và khắc phục đƣợc nhiều điểm bất cập, chƣa khả thi của các Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (PLTTGQCVADS), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (PLTTGQCVAKT), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động 8 (PLTTGQCTCĐ). Bên cạnh đó, BLTTDS còn tách các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết đối với trƣờng hợp các bên có tranh chấp (thủ tục tố tụng thông thƣờng) và trình tự, thủ tục giải quyết đối với trƣờng hợp các bên không có tranh chấp mà chỉ có yêu cầu Tòa án công nhận một sự kiện pháp lý hoặc một quyền dân sự (thủ tục tố tụng đặc biệt). Do đó, theo các quy định của BLTTDS thì vụ án dân sự là các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động giữa các bên đƣơng sự đƣợc Tòa án thụ lý giải quyết. Cụ thể hơn, vụ án dân sự là các tranh chấp quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 BLTTDS mà đƣợc Tòa án thụ lý giải quyết theo yêu cầu của các cá nhân, cơ quan, tổ chức. Việc dân sự là các yêu cầu của các cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động của mình hoặc của các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác, yêu cầu Tòa án công nhận cho mình quyền về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động đƣợc Tòa án thụ lý giải quyết. Cụ thể hơn, việc dân sự là các yêu cầu quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 BLTTDS mà đƣợc Tòa án thụ lý giải quyết theo yêu cầu của các cá nhân, cơ quan, tổ chức. Việc dân sự là trƣờng hợp không có tranh chấp giữa các bên đƣơng sự. Vì vậy, vụ việc dân sự bao gồm vụ án dân sự và việc dân sự. Chính vì có sự phân biệt giữa vụ án dân sự và việc dân sự nên có sự phân biệt giữa thời hạn để các cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự và thời hạn yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự. Từ đó hình thành nên hai khái niệm thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự. 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự Trong giao lƣu dân sự, các chủ thể tham gia quan hệ đƣợc hƣởng quyền và phải thực hiện các nghĩa vụ dân sự, việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của bên này sẽ xâm phạm tới lợi 9 ích của bên kia. Khi đó bên có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có quyền thực hiện các biện pháp để bảo vệ. Tuy nhiên, cùng với thời gian việc bảo vệ quyền, lợi ích trở nên khó khăn hơn. Vì thế pháp luật quy định một thời hạn nhất định cho sự phát sinh, tồn tại hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự, các biện pháp bảo vệ quyền, lợi ích. Thời hạn này đƣợc gọi là thời hiệu. “ Thời hiệu là thời hạn do pháp luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì chủ thể được hưởng quyền dân sự, miễn trừ nghĩa vụ dân sự hoặc mất quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự ”. Có thể thấy thời hiệu trƣớc tiên là một khoảng thời gian do pháp luật quy định, nó có điểm bắt đầu và điểm kết thúc. Tùy thuộc vào tính chất của từng quan hệ cụ thể mà khoảng thời gian này có thể dài hay ngắn, cũng có những trƣờng hợp không áp dụng thời hiệu nhƣ: yêu cầu hoàn trả tài sản thuộc hình thức sở hữu Nhà nƣớc, yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân … Theo quy định của pháp luật dân sự, có các loại thời hiệu nhƣ: Thời hiệu hƣởng quyền dân sự, thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự. Đối với các nƣớc không có sự phân biệt giữa vụ án dân sự và việc dân sự thì thời hạn để các cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự đƣợc gọi là thời hiệu khởi kiện. Theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam thì thời hạn để các cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự đƣợc gọi là thời hiệu khởi kiện. Thời hạn để các cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự đƣợc gọi là thời hiệu yêu cầu. Tuy nhiên, dù là thời hiệu khởi kiện hay thời hiệu yêu cầu thì đều có những đặc điểm sau: 1.1.2.1. Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu do pháp luật quy định Khi các chủ thể có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm và thực hiện quyền khởi kiện, quyền yêu cầu của mình thì họ phải tuân thủ các quy định 10 của pháp luật về thời hiệu khởi kiện, yêu cầu. Họ chỉ có thể thực hiện đƣợc quyền khởi kiện, quyền yêu cầu của mình khi còn thời hiệu. Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu đƣợc quy định trong các văn bản pháp luật một cách cụ thể, trƣớc khi các tranh chấp giữa các chủ thể xảy ra, các chủ thể không thể thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện hay thời hiệu yêu cầu. Sự tồn tại của thời hiệu khởi kiện hay thời hiệu yêu cầu không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các chủ thể có quyền, lợi ích liên quan. Thời hiệu khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự không chỉ đƣợc quy định tại BLTTDS mà còn đƣợc quy định trong các văn bản pháp luật chuyên ngành khác. Nhƣ vậy, thời hiệu khởi kiện, yêu cầu không chỉ liên quan đến chủ thể khởi kiện, yêu cầu và các chủ thể tham gia vào vụ việc dân sự mà còn ảnh hƣởng đến hoạt động của Tòa án bởi vậy nó không thể do các chủ thể tự thỏa thuận, quyết định. Thật vậy, thời hiệu khởi kiện đƣợc pháp luật của nhiều nƣớc trên thế giới ghi nhận. Chẳng hạn, quy định về thời hiệu trong BLDS Thái Lan có những điểm tƣơng đồng với pháp luật Việt Nam, cụ thể: cũng có quy định về bắt đầu thời hiệu (Điều 169), quy định về bắt đầu lại thời hiệu (Điều 181), quy định về tính pháp định của thời hiệu (Điều 191) … Trong BLDS Nhật Bản, BLDS Pháp cũng có những nét tƣơng đồng với BLDS Việt Nam về vấn đề thời hiệu. Ở Việt Nam, trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989; Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động năm 1996, vấn đề thời hiệu khởi kiện đối với vụ án kinh tế, vụ án lao động và vụ án dân sự cũng đã đƣợc đề cập đến. Cụ thể: Tại Điều 36 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định các trƣờng hợp trả lại đơn khởi kiện trong đó có trƣờng hợp hết thời hiệu khởi kiện; tại Điều 32 – Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án lao động; tại Điều 31 – Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án kinh tế, tại Điều 32 quy định về các trƣờng hợp trả lại đơn khởi kiện trong 11 đó có trƣờng hợp thời hiệu khởi kiện đã hết. Hiện nay, cả trong BLDS và BLTTDS đều có quy định cụ thể về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự. Nhƣ vậy, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là do pháp luật quy định. Tùy theo pháp luật của mỗi nƣớc mà chúng đƣợc quy định trong các văn bản pháp luật nội dung hoặc pháp luật tố tụng dân sự. 1.1.2.2. Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu là cơ sở thực hiện quyền khởi kiện, quyền yêu cầu của các chủ thể và là điều kiện để Tòa án thụ lý vụ việc dân sự Một trong những điều kiện để chủ thể thực hiện quyền khởi kiện, yêu cầu của mình là còn thời hiệu khởi kiện, yêu cầu. Có thể nói việc còn thời hiệu là điều kiện cần để chủ thể thực hiện đƣợc quyền khởi kiện, yêu cầu của mình. Khi không còn thời hiệu thì dù thực tế chủ thể đó có quyền, lợi ích hợp pháp cần bảo vệ, chủ thể cung cấp đƣợc các tài liệu chứng minh cho yêu cầu của mình là đúng thì Tòa án cũng không có cơ sở pháp lý để giải quyết yêu cầu của chủ thể đó. Khi tiếp nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của các chủ thể, vấn đề đầu tiên mà Tòa án quan tâm xét đến là còn thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu hay không. Chỉ khi còn thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu thì đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của chủ thể mới đƣợc chấp nhận, nhờ đó quyền, lợi ích của các chủ thể đƣợc bảo vệ. 1.1.2.3. Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu mang tính định lượng và tính liên tục, trừ các trường hợp do pháp luật quy định Thời hiệu khởi kiện, yêu cầu trƣớc tiên là thời hạn, khi nói tới thời hạn tức là nói tới một khoảng thời gian xác định, nó có điểm bắt đầu và điểm kết thúc. Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu thông thƣờng đƣợc tính bằng một đơn vị cụ thể nhƣ ngày, tháng, năm và đƣợc định lƣợng bằng con số cụ thể nhƣ: thời hiệu khởi kiện là hai năm, thời hiệu yêu cầu là 1 năm. Thông thƣờng thời hiệu khởi kiện, yêu cầu là khoảng thời gian có tính liên tục từ khi bắt đầu tới khi kết thúc. Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp 12 nếu có các sự kiện sau thì khoảng thời gian diễn ra các sự kiện đó không đƣợc tính vào thời hiệu: sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan; chƣa có ngƣời đại diện trong trƣờng hợp ngƣời có quyền khởi kiện, yêu cầu chƣa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự; chƣa có ngƣời đại diện thay thế. Ngoài ra, trong trƣờng hợp trong khoảng thời hạn của thời hiệu nhƣng bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với ngƣời khởi kiện hoặc bên có nghĩa vụ thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với ngƣời khởi kiện hoặc các bên đã tự hòa giải với nhau thì thời hiệu phải đƣợc tính lại kể từ ngày tiếp theo sau ngày xảy ra các sự kiện trên. 1.1.2.4. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự phụ thuộc vào tính chất của quan hệ pháp luật tranh chấp. Mỗi loại quan hệ có những đặc trƣng riêng, vì vậy các tranh chấp diễn ra trong quan hệ ấy cũng có những đặc thù nhất định. Với những quan hệ mang tính chất phức tạp (ví dụ quan hệ thừa kế) thì các tranh chấp xảy ra trong các quan hệ ấy cũng thƣờng khó giải quyết hơn bởi vậy khoảng thời gian để các chủ thể tự giải quyết trƣớc khi đƣa tranh chấp tới Tòa án cũng cần dài hơn so với các tranh chấp khác. Do đó, thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp thừa kế thƣờng đƣợc quy định dài hơn so với các loại việc khác. Đối với các việc dân sự, do các bên không tranh chấp về quyền và nghĩa vụ dân sự mà các cá nhân, cơ quan, tổ chức chỉ yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động của mình hoặc của các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác, yêu cầu Tòa án công nhận cho mình quyền về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động nên tính chất của việc dân sự thƣờng đơn giản hơn so với vụ án dân sự, Do đó, thời hiệu yêu cầu thƣờng ngắn hơn thời hiệu khởi kiện. Hay có thể nói, mức độ phức tạp của tranh chấp tỷ lệ thuận với mức độ phức tạp của quan hệ pháp luật đó. Bên cạnh đó, thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu còn phụ thuộc vào sự ảnh hƣởng của việc giải quyết nhanh chóng loại việc đó với các chủ thể liên quan nói riêng và xã hội nói chung. 13 Chẳng hạn, do tính chất của quan hệ kinh doanh thƣơng mại và lao động nên thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp này thƣờng ngắn hơn so với thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp dân sự. 1.1.2.5. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự phụ thuộc vào pháp luật của mỗi nước, cụ thể là phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của nước đó. Pháp luật là vấn đề thuộc về kiến trúc thƣợng tầng còn kinh tế xã hội là vấn đề thuộc về cơ sở hạ tầng. Theo triết học Mác – Lênin thì kiến trúc thƣợng tầng và cơ sở hạ tầng có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau, để những tác động đó trở thành tác động tích cực thì cần có sự phù hợp giữa kiến trúc thƣợng tầng và cơ sở hạ tầng. Hay nói cách khác là pháp luật phải phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội. Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu là một bộ phận của hệ thống pháp luật do vậy nó cũng phải phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội. Ví dụ: Ở Pháp, do điều kiện kinh tế xã hội phát triển, việc sử dụng pháp luật trong đời sống đã trở thành thói quen của ngƣời dân nên hầu hết các quan hệ đã đƣợc xác lập nếu có tranh chấp xảy ra đều có cơ sở chứng minh và căn cứ xét xử. Do đó, thời hiệu khởi kiện theo pháp luật Pháp là rất dài: 30 năm (Điều 2262 BLDS Pháp). Ở Việt Nam, do điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn và ý thức pháp luật của ngƣời dân chƣa cao nên sau khi sự việc xảy ra một thời gian dài thì việc xác minh trở nên rất khó khăn. Do đó, thời hiệu khởi kiện theo pháp luật Việt Nam là rất ngắn, thƣờng là hai năm. 1.1.2.6. Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu thường được bắt đầu khi có tranh chấp hoặc vi phạm hoặc xuất hiện một sự kiện pháp lý Khi một bên chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự có sự vi phạm nghĩa vụ của mình thì chủ thể phía bên kia có quyền khởi kiện mà chƣa cần biết sự vi phạm đó đã gây ra thiệt hại cho mình hay chƣa (ví dụ: thời hiệu khởi kiện về hợp đồng dân sự - Điều 427 BLDS). Có trƣờng hợp ngay khi xảy ra một sự kiện pháp lý, các chủ thể có quyền, lợi ích liên quan đã có thể thực hiện quyền khởi kiện của mình và thời hiệu khởi kiện đƣợc tính từ thời 14 điểm sự kiện đó xảy ra (ví dụ: thời hiệu khởi kiện về thừa kế - Điều 645 BLDS). Nhƣ vậy, do có sự phân biệt giữa vụ án dân sự và việc dân sự nên theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam có sự phân biệt giữa thời hiệu khởi kiện và thời hiệu yêu cầu nhƣng về bản chất thời hiệu khởi kiện và thời hiệu yêu cầu đều là khoảng thời gian mà các cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của ngƣời khác hoặc lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nƣớc thuộc lĩnh vực mình phụ trách. Từ các phân tích trên có thể đƣa ra khái niệm thời hiệu khởi kiện và thời hiệu yêu cầu nhƣ sau: Thời hiệu khởi kiện là thời hạn do pháp luật quy định mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó hết thì mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Thời hiệu yêu cầu là thời hạn do pháp luật quy định mà chủ thể được quyền yêu cầu Tóa án giải quyết việc dân sự để bảo vệ, công nhận quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền yêu cầu trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. 1.2. Ý nghĩa của việc quy định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu và hậu quả của việc hết thời hiệu 1.2.1.Ý nghĩa của việc quy định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu Cùng với sự phát triển của hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật Tố tụng dân sự nói riêng, các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu ngày càng đƣợc chú trọng và quy định đầy đủ, chi tiết hơn. Việc quy định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu có ý nghĩa rất lớn cả về mặt khoa học pháp lý và thực tiễn, nó có tác động không nhỏ đến hoạt động tố tụng. Có thể thấy đƣợc ý nghĩa của việc quy định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu dƣới các khía cạnh sau: * Đối với việc giải quyết vụ việc dân sự: 15 Nếu pháp luật không có quy định về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu thì số lƣợng đơn khởi kiện, yêu cầu đƣợc gửi đến Tòa án sẽ rất lớn. Khi đó Tòa án sẽ rơi vào tình trạng quá tải, không thể giải quyết đƣợc khối lƣợng công việc khổng lồ, những vụ việc Tòa án tiếp nhận và bắt tay vào giải quyết cũng có thể dẫn đến bế tắc do không thu thập đƣợc chứng cứ, không có điều kiện xác minh đƣợc những lý lẽ, bằng chứng do các bên cung cấp. Nếu vụ việc đƣợc đƣa tới Tòa án, Tòa án tiếp nhận và giải quyết nhƣng lại không thể giải quyết thì sẽ gây ảnh hƣởng đến uy tín của Tòa án, làm mất niềm tin của ngƣời dân đối với cơ quan công quyền. Quy định của pháp luật về thời hiệu sẽ giúp giảm tải đƣợc cho Tòa án những vụ việc đã xảy ra trƣớc đó một khoảng thời gian dài và không còn ảnh hƣởng nhiều đến các chủ thể tham gia. Lúc này Tòa án sẽ có thời gian tập trung giải quyết những vụ việc mới xảy ra, kịp thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Có thể nói, với công tác giải quyết vụ việc dân sự thì việc quy định thời hiệu có ý nghĩa hết sức lớn lao. Nếu hệ thống cơ quan tƣ pháp của Việt Nam nhƣ một chiếc cổ chai – nó có thể tắc nghẽn khi dồn vào đó quá nhiều một lúc thì quy định về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu nhƣ một chiếc lƣới chắn để trƣớc cổ chai đó. Nó sẽ giúp sàng lọc bớt những vụ việc xảy ra trƣớc đó một khoảng thời gian dài và không còn nhiều ý nghĩa đối với các bên, giúp cho số lƣợng vụ việc đi qua cổ chai vừa phải, đúng mực và trôi chảy. * Đối với kinh tế xã hội: Trong điều kiện của nền kinh tế thị trƣờng, các quan hệ xã hội ngày càng diễn ra đa dạng, giao lƣu dân sự ngày càng đƣợc đẩy mạnh. Tỷ lệ thuận với nó là các tranh chấp dân sự không ngừng tăng lên. Khi có tranh chấp, vấn đề đặt ra là phải giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng để kịp thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên và thúc đẩy giao lƣu dân sự tiếp tục phát triển. Việc quy định thời hiệu khởi kiện sẽ là động lực thôi thúc các 16 chủ thể đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ việc, tích cực trong việc thu thập và cung cấp chứng cứ chứng minh cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Mặt khác, nếu các mâu thuẫn luôn thƣờng trực nhƣng lại không có cơ chế đảm bảo quyền lợi thì sẽ khiến các chủ thể dè dặt hơn trong việc tham gia các quan hệ. Để các quan hệ dân sự ngày càng gia tăng thì cần tạo cho nó một môi trƣờng lành mạnh, ít tranh chấp và tranh chấp đƣợc giải quyết minh bạch, rõ ràng, công bằng và triệt để. Việc giải quyết triệt để, nhanh chóng các vụ việc sẽ là chất xúc tác kích thích giao lƣu dân sự diễn ra mạnh mẽ. Thêm vào đó, môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh, ít tranh chấp sẽ là yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tƣ trong nƣớc và nƣớc ngoài tăng cƣờng đầu tƣ vào Việt Nam, giúp cho nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển. Việc quy định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu nhằm đảm bảo tính ổn định của giao lƣu dân sự. Có nghĩa là khi thời hiệu khởi kiện hết thì các chủ thể mất quyền khởi kiện, giao dịch dân sự trong đa số các trƣờng hợp là có hiệu lực pháp luật. * Đối với các chủ thể tham gia quan hệ dân sự: Việc quy định thời hiệu sẽ giúp các bên chủ động hơn, yên tâm hơn trong việc thực hiện các biện pháp nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Mặt khác, việc quy định thời hiệu cũng giúp nâng cao trách nhiệm của chủ thể có quyền. Họ phải cố gắng để thực hiện quyền khởi kiện, quyền yêu cầu của mình trong một khoảng thời gian nhất định nếu không muốn mất quyền khởi kiện, quyền yêu cầu. Đối với chủ thể bị kiện (bị đơn), việc quy định thời hiệu khởi kiện cũng tạo cho họ những thuận lợi trong việc đƣa ra chứng cứ phản bác lại yêu cầu của ngƣời khởi kiện (nguyên đơn). 1.2.2 Hậu quả của việc hết thời hiệu Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu vừa có tác dụng làm phát sinh, vừa có tác dụng làm chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các chủ thể. Nếu còn thời hiệu thì chủ thể có quyền, lợi ích bị xâm phạm có quyền khởi kiện, yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Ngƣợc lại, nếu
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất