Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi theo luật tố tụng hình sự việt nam...

Tài liệu Thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi theo luật tố tụng hình sự việt nam

.PDF
191
16
107

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH HỒ HẢI ĐĂNG THỜI HẠN TẠM GIAM ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH THỜI HẠN TẠM GIAM ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Định hướng ứng dụng Mã số: 60380104 Người hướng dẫn khoa học: TS. Võ Thị Kim Oanh Học viên: Hồ Hải Đăng Lớp: Cao học Luật, khóa 2 Sóc Trăng TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng nội dung của bản luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi với sự hướng dẫn của TS. Võ Thị Kim Oanh và chưa được nộp cho bất kỳ một chương trình cấp bằng cao học nào cũng như bất kỳ một chương trình cấp bằng nào khác. Tôi cũng xin cam đoan thêm rằng tôi đã nỗ lực hết mình trong việc vận dụng những kiến thức mà tôi đã được học từ chương trình và tổng hợp những khó khăn vướng mắc từ thực tế để hoàn thành bản luận văn này. Các số liệu, tài liệu tham khảo đều được trích dẫn và trích nguồn theo quy định. Tác giả luận văn Hồ Hải Đăng BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự TTHS : Tố tụng hình sự MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU ...........................................................................................................1 CHƯƠNG 1. THỜI HẠN TẠM GIAM TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI ..................................................................................7 1.1. Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra đối với người dưới 18 tuổi ............................................................ 7 1.1.1. Khái niệm thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra............................ 7 1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi .9 1.1.3. Quy định pháp luật về thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra đối với người dưới 18 tuổi ........................................................................................ 9 1.2. Thực tiễn áp dụng thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi trong giai đoạn điều tra ................................................................................................ 13 1.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng đúng thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra đối với người dưới 18 tuổi .......................................................... 22 Kết luận chương 1 ...................................................................................................24 CHƯƠNG 2. THỜI HẠN TẠM GIAM TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI .......................................................... 25 2.1. Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về thời hạn tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với người dưới 18 tuổi ..............................................25 2.1.1. Khái niệm thời hạn tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm ...............25 2.1.2. Đặc điểm, ý nghĩa của việc quy định thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi trong giai đoạn xét xử ..................................................................26 2.1.3. Quy định pháp luật về thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử sơ thẩm ..28 2.1.4. Quy định của pháp luật về thời hạn tạm giam để hoàn thành việc xét xử29 2.2. Thực tiễn áp dụng thời hạn tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với người dưới 18 tuổi......................................................................................... 30 2.2.1. Thực tiễn áp dụng thời hạn tạm giam trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm ...32 2.2.2. Thực tiễn áp dụng thời hạn tạm giam để hoàn thành việc xét xử sơ thẩm .......................................................................................................................... 34 2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng đúng thời hạn tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với người dưới 18 tuổi ..............................................37 Kết luận chương 2 ...................................................................................................40 KẾT LUẬN ..............................................................................................................41 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1 LỜI NÓI ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Người dưới 18 tuổi (chưa thành niên) là thế hệ tương lai của đất nước, họ chưa phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần, tâm lý, kinh nghiệm sống, khả năng nhận thức pháp luật còn hạn chế và dễ bị tổn thương nên Đảng và Nhà nước luôn chú trọng chăm sóc, bảo vệ, giáo dục, phòng ngừa, ngăn chặn người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên trong thời gian qua, tình hình phạm tội do người dưới 18 tuổi thực hiện ngày càng phức tạp, tăng về số vụ, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội ngày càng gia tăng; đã gây ra tình trạng bất ổn cho xã hội và khó khăn trong công tác điều tra, xử lý. Tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện tập trung chủ yếu ở các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; các tội xâm phạm sở hữu, các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng… Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 được Quốc hội khóa 13, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27/11/2015 đã kế thừa các quy định còn phù hợp và khắc phục những tồn tại, hạn chế của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003; đồng thời có rất nhiều điểm mới, sửa đổi, bổ sung một cách căn bản và toàn diện so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Trong đó đáng chú ý có nhiều điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định liên quan đến thời hạn tạm giam đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi. Những thay đổi nêu trên của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 là hợp lý, khá tương đồng với quy định Công ước về quyền trẻ em và Những quyên tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước bỏ tự do. Tạm giam trong tố tụng hình sự là một trong những biện pháp ngăn chặn trực tiếp hạn chế quyền con người, quyền công dân, nhằm bảo đảm kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng minh bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội nhằm bảo đảm và có ảnh hưởng lớn đến việc giải quyết vụ án hình sự, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật, bảo đảm thi hành án và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm. Tuy nhiên, khi áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi cần phải bảo đảm các thủ tục đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi và chỉ áp dụng trong trường hợp thật cần thiết, đảm bảo căn cứ và thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, vì việc áp dụng 2 biện pháp ngăn chặn tạm giam sẽ làm hạn chế một số quyền con người, quyền công dân và tự do cá nhân của người bị áp dụng được Hiến pháp và pháp luật quy định. Nghiên cứu thực tế trong thời gian vừa qua, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi ngày càng tăng. Tuy nhiên thời hạn tạm giam, thời hạn gia hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra và giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi còn nhiều vấn đề vướng mắc, hạn chế nên tác giả quyết định chọn đề tài “Thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ của mình. Từ đó tìm ra giải pháp để tháo gỡ những vướng mắc hiện nay khi áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trong giai đoạn điều tra, xét xử đối với bị can, bị cáo người dưới 18 tuổi. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Các công trình nghiên cứu về thời hạn tạm giam đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi trong giai đoạn điều tra, xét xử chưa nhiều, rất hạn chế và chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể và thống nhất. Ngoài ra, chưa có sách chuyên khảo nào viết về thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra, xét xử đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi. Tác giả đã tiến hành nghiên cứu các nhóm công trình nghiên cứu, chủ yếu là các bài viết, tạp chí về thời hạn tạm giam đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành, cụ thể: Sách chuyên khảo: Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh, Hồng Đức, 2013, 659 tr. Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình sự Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nguyễn Trọng Phúc, Hà Nội, Chính trị Quốc gia, 2015, 258 tr. Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học luật Hà Nội, Hà Nội, Công an Nhân dân, 2013, 595 tr. Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2018, 839 tr. 3 Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần chung, Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên)...[và những người khác], Tái bản lần thứ 22 có sửa đổi, bổ sung, Hà Nội, Công an Nhân dân, 2016, 394 tr. Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Phạm Mạnh Hùng, Hà Nội, Chính trị Quốc gia - Sự thật, 2016, 723 tr Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình sự Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nguyễn Trọng Phúc, Hà Nội, Chính trị Quốc gia, 2015, 258 tr Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Lê Thị Mỹ Vân, Người hướng dẫn, TS. Lê Huỳnh Tấn Duy, Tp. Hồ Chí Minh, 2017, 79 tr. Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Lê Đông Phong, Người hướng dẫn khoa học, GS. TS. Đào Trí Úc, Tp. Hồ Chí Minh, 2004, 123 tr. Đề tài nghiên cứu khoa học: Thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học, Nguyễn Ngọc Anh, Bùi Lan Hương, Lưu Phan Hoàng Quỳnh Linh, Tp. Hồ Chí Minh, 2005, 37 tr. Các bài viết, tạp chí: Quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Lê Huỳnh Tấn Duy, 2016, Khoa học pháp lý, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, 2016, Số 06 (100), tr. 33 – 40. Chế định biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Mai Đắc Biên, 2016, Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, 2016, Số 05, tr.26-29. Về chế định biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Bùi Thị Hạnh, 2016, Khoa học Kiểm sát, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, 2016, Số 04 (12), tr. 17 - 21. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, Mai Bộ, 2007, Kiểm sát, 3,2007, Số 6, Tr.16-20. 4 Áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội, Mai Bộ, 2006, Tòa án nhân dân, 3,2006, Số 5, Tr.28-31. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu cũng như các bài viết trên chưa nêu được những khó khăn, vướng mắc đối với việc áp dụng thời hạn tạm giam, gia hạn thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi trong các giai đoạn điều tra, xét xử sơ thẩm và chưa đưa ra được giải pháp để bảo đảm việc áp dụng thời hạn tạm giam và gia hạn thời hạn tạm giam đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Bộ luật hình sự hiện hành. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Bộ luật hình sự nhằm làm rõ một số vấn đề liên quan đến thời hạn tạm giam và gia hạn thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra và giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, đồng thời nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng thời hạn tạm giam và gia hạn thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra và giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với bị can, bị cáo người dưới 18 tuổi tại địa phương để tìm ra được những vấn đề bất cập, vướng mắc của pháp luật khi áp dụng vào trường hợp cụ thể. Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích nêu trên thì luận văn phân tích được các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thời hạn tạm giam, thời hạn gia hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra, xét xử sơ thẩm đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, đánh giá thực tiễn có vướng mắc khi áp dụng Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Qua đó đưa ra những kiến nghị để hoàn thiện quy định này. 4. Giới hạn đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định cụ thể của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về việc áp dụng thời hạn tạm giam và thời hạn gia hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra và giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi. Từ đó, tìm ra những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng thời hạn tạm giam, thời hạn gia hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra và giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi để tìm ra giải pháp phù hợp với quy định pháp luật. 5 4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Đề tài chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng thời hạn tạm giam, thời hạn gia hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra và giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi trong quá trình áp dụng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, đồng thời tiếp cận các vấn đề mới thông qua Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về áp dụng thời hạn tạm giam, thời hạn gia hạn trong giai đoạn điều tra và giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, từ thực tiễn công tác của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng. Đề tài nghiên cứu ứng dụng thực tiễn không nhắm đến nghiên cứu lý luận về pháp luật, so sánh thực tiễn áp dụng pháp luật của các nước. 5. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu có hiệu quả đề tài, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp và bình luận hồ sơ án có áp dụng biện pháp tạm giam, gia hạn thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra và giai đoạn xét xử đối với bị can, bị cáo người dưới 18 tuổi để đưa thực tiễn công tác vào công trình nghiên cứu. Qua đó phân tích quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các vấn đề liên quan đến việc áp dụng biện pháp tạm giam, gia hạn thời hạn tạm giam đối với bị can, bị cáo người dưới 18 tuổi, chủ yếu là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Phương pháp tổng hợp được sử dụng song song với phương pháp phân tích, so sánh, chứng minh để tổng hợp, kết luận kết quả nghiên cứu để hoàn thành luận văn. 6. Dự kiến kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng các kết quả nghiên cứu: Từ việc nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn áp dụng giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng phù hợp về thời hạn tạm giam, thời hạn gia hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra và giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 trên địa bàn các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng. Phân tích các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật liên quan đến việc áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn điều tra và giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi. Từ đó, tìm ra những hạn chế, vướng mắc trong quy định của pháp luật tố tụng hình sự. 6 Nghiên cứu thực tiễn áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và chỉ ra những kết quả đạt được trong quá trình áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn điều tra và giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với bị can, bị cáo người dưới 18 tuổi cũng như những hạn chế, vướng mắc khi áp dụng thực tế. Từ nghiên cứu thực tiễn, tác giả đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn điều tra và giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi. Đề tài có thể được sử dụng để làm cẩm nang tham khảo trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm. 7. Bố cục luận văn Tên đề tài: Thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi theo luật tố tụng hình sự Việt Nam. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn gồm có hai chương với cơ cấu như sau: Chương 1: Thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra đối với người dưới 18 tuổi. Chương 2: Thời hạn tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với người dưới 18 tuổi. 7 CHƯƠNG 1 THỜI HẠN TẠM GIAM TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI 1.1. Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra đối với người dưới 18 tuổi 1.1.1. Khái niệm thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra Tạm giam là một biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do các Cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp luật định nhằm ngăn chặn tội phạm hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.1 Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong tất cả biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS, thể hiện sự cưỡng chế mạnh mẽ nhất của Nhà nước đối với người phạm tội nhằm đảm bảo cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tạm giam là biện pháp ngăn chặn do Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ quy định tại điểm a đến điểm đ khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 119 BLTTHS năm 2015. Bị can bị áp dụng biện pháp tạm giam sẽ bị cách ly khỏi xã hội một thời gian nhất định tùy theo loại tội phạm đã thực hiện và bị hạn chế một số quyền của công dân. Thời hạn là khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác do BLTTHS quy định cho từng hoạt động tố tụng cụ thể. Theo BLTTHS năm 2015 thì có nhiều loại thời hạn: thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, thời hạn điều tra, truy tố, xét xử; thời hạn tạm giữ, tạm giam,… Như vậy, thời hạn tạm giam cũng là một trong những thời hạn được Luật TTHS quy định, nằm trong chuỗi những thời hạn để giải quyết một vụ án hình sự. Điều 173 BLTTHS năm 2015 quy định: “Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”2 1 2 Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật TTHS Việt Nam, tr. 300. Bộ luật TTHS (2015), khoản 1, Điều 173. 8 Thời hạn điều tra vụ án hình sự là khoảng thời gian tối đa do pháp luật quy định trong BLTTHS năm 2015 mà trong khoảng thời gian đó cơ quan có thẩm quyền điều tra tiến hành các hoạt động điều tra nhằm xác định tội phạm, người phạm tội và các tình tiết khác của vụ án, để hoàn thành điều tra vụ án hình sự.3 Giai đoạn điều tra là khoảng thời gian được bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Nhiệm vụ của giai đoạn này là cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp điều tra do pháp luật quy định để chứng minh tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. Giai đoạn điều tra kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền điều tra thu thập đầy đủ chứng cứ chứng minh tội phạm, bị can, làm bản kết luận điều tra để đề nghị truy tố hoặc để đình chỉ điều tra. 4 Điều 134 BLTTHS năm 2015 quy định các mốc thời gian để tính thời hạn trong hoạt động tố tụng hình sự chứ không đưa ra khái niệm thế nào là thời hạn, tuy nhiên, có thể hiểu thời hạn là khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác do BLTTHS quy định cho từng hoạt động tố tụng, hành vi tố tụng cụ thể để các chủ thể tố tụng hình sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình và thời hạn cũng là một tiêu chí để xác định trách nhiệm của các chủ thể tố tụng hình sự. Nói cách khác, thời hạn tố tụng hình sự là khoảng thời gian được luật TTHS giới hạn cho mỗi giai đoạn, mỗi hoạt động, mỗi biện pháp, mỗi hành vi tố tụng của các chủ thể liên quan nhằm hướng tới những mục tiêu, yêu cầu cụ thể 5. Việc quy định thời hạn hợp lý có tác động tích cực đến việc phát hiện, điều tra và xử lý tội phạm chính xác, đúng pháp luật, làm giảm thiểu tình hình tội phạm, ngược lại nếu thời hạn quy định không hợp lý sẽ dẫn đến cơ quan tố tụng không đủ thời gian để phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm, gây nên tình trạng bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội. Do đó, thời hạn trong tố tụng hình sự có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án, phát hiện tội phạm nhanh chóng, chính xác và xử lý kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Như vậy, thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra là khoảng thời gian cụ thể được BLTTHS quy định cho phép Cơ quan điều tra áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam đối với bị can kể từ khi khởi tố vụ án hình sự đến kết thúc điều tra 3 Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh, tlđd (1), tr. 385. Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh, tlđd (1), tr.22. 5 Nguyễn Ngọc Chí (2016), “Một số vấn đề lý luận về thời hạn TTHS”, Tạp chí Luật học, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, tập 32, số 1, 10-19. 4 9 vụ án hình sự. Đối với các trường hợp vụ án có gia hạn thời hạn điều tra vụ án hình sự thì thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra được tính cả thời hạn gia hạn tạm giam bị can để điều tra vụ án hình sự. 1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi Việc quy định thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra đối với người dưới 18 tuổi có ý nghĩa rất lớn trong việc đấu tranh và phòng chống tội phạm; góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, củng cố tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự quan tâm của đảng, nhà nước ta trong việc quan tâm, bảo vệ quyền lợi ích, bảo đảm các quyền tự do dân chủ của người dưới 18 tuổi; đảm bảo cho Cơ quan điều tra tiến hành điều tra nhanh chóng xác định tội phạm đã thực hiên hành vi phạm tội; không phải mất nhiều thời gian triệu tập bị can để làm việc; khi phát hiện tình tiết mới cán bộ điều tra có thể làm việc ngay lập tức. Việc quy định thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra cụ thể đã tạo cơ sở pháp lý nhằm đảm bảo sự tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp, đảm bảo mọi bị can dưới 18 tuổi đều bị tạm giam đúng thời hạn đã được quy định trong BLTTHS năm 2015, các bị can bị giam quá thời hạn luật định được quyền khiếu nại theo quy định của BLTTHS năm 2015. Việc quy định thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra là biện pháp hữu hiệu bảo đảm cho việc điều tra, thúc đẩy Điều tra viên và Kiểm sát viên được phân công thụ lý vụ án nhanh chóng điều tra, thu thập chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội để kết thúc vụ án theo luật định. Bởi lẽ, trong thời hạn bị can tạm giam là một cơ hội thuận lợi hơn cho Điều tra viên và Kiểm sát viên chứng minh hành vi phạm tội của bị can trong quá trình điều tra, phá án; đồng thời tránh được hiện tượng các bị can thông cung hoặc có người hướng dẫn thay đổi lời khai, phản cung và tìm cách chống lại các chứng cứ mà cơ quan điều tra đã thu thập. 1.1.3. Quy định pháp luật về thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra đối với người dưới 18 tuổi Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra giữa người thành niên và người chưa thành niên không có sự phân biệt. Điều 120, khoản 1 BLTTHS năm 2003 quy định: “Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm 10 trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”6. BLTTHS năm 2003 căn cứ vào loại tội phạm để quy định chung về thời hạn tạm giam để điều tra đối với bị can, không có sự phân biệt, không quy định riêng về thời hạn tạm giam để điều tra giữa bị can là người chưa thành niên và bị can là người đã thành niên là bất cập, không phù hợp, gây bất lợi cho người chưa thành niên phạm tội. Ngày 09 tháng 12 năm 2015, BLTTHS năm 2015 ra đời nhưng không có quy định thay đổi về thời hạn tạm giam để điều tra so với BLTTHS năm 2003, Điều 173 BLTTHS năm 2015 quy định: “Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”7 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và BLTTHS năm 2015 đều quy định thời hạn tạm giam bị can để điều tra đối với từng loại tội phạm khác nhau, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm để quy định thời hạn tạm giam để điều tra, giữa hai Bộ luật không có sự khác biệt về quy định này. BLTTHS 2015 đã có những bước tiến bộ trong việc quy định thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi, cụ thể, tại khoản 1 Điều 414 BLTTHS quy định: “Bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi; bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi” và “chỉ áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp áp giải đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trong trường hợp thật cần thiết”; “chỉ áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng biện pháp giám sát và các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả” BLTTHS năm 2015 quy định thời hạn tạm giam riêng dành cho người dưới 18 tuổi là đã xem xét đến các nguyên tắc xử lý trách nhiệm hình sự đối với nhóm đối tượng này. Với quy định tại khoản 1 Điều 419 BLTTHS 2015, thời hạn tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi được rút ngắn, chỉ còn bằng hai phần ba thời hạn tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở lên quy định tại BLTTHS. Cụ thể được hiểu như sau:Thời hạn tạm giam để điều tra không quá 40 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 02 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 02 6 7 Bộ luật TTHS (2003), khoản 1, Điều 120. Bộ luật TTHS (2015), khoản 1, Điều 173. 11 tháng 20 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải gia hạn điều tra thì việc gia hạn tạm giam được tính như sau: Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể gia hạn tạm giam 01 lần không quá 20 ngày; đối với tội phạm nghiêm trọng có thể gia hạn tạm giam 01 lần không quá 40 ngày; đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam 01 lần không quá 02 tháng; đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể gia hạn tạm giam 02 lần, mỗi lần không quá 02 tháng 20 ngày. Đây là quy định rất tiến bộ, chặt chẽ, tương đối phù hợp giữa thời hạn tạm giam quy định trong BLTTHS năm 2015 và quy định về hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi quy định tại Điều 101, BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Việc quy định này cũng phù hợp với xu thế phát triển của khoa học tố tụng hình sự Việt Nam, đã thể hiện sự quan tâm, bảo vệ nhất định của Đảng và Nhà nước đối với bị can là người dưới 18 tuổi. Theo quy định của BLTTHS thì thời hạn gia hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra đối với bị can cũng được tính chung vào thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra để được khấu trừ khi chấp hành án. Tuy nhiên, việc gia hạn thời hạn tạm giam đối với bị can là người dưới 18 tuổi trong giai đoạn điều tra chưa được quy định rõ. Theo quy định BLTTHS năm 2015 thì thời hạn gia hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra được áp dụng chung cho các bị can và không phân biệt độ tuổi giữa các bị can trên 18 tuổi và bị can dưới 18 tuổi. Việc gia hạn thời hạn tạm giam do Viện kiểm sát quyết định trên cơ sở đề nghị của Cơ quan điều tra. Mặc dù BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể, thu hẹp về số lần gia hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra nhưng không quy định cụ thể thời hạn gia hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi so với thời hạn gia hạn tạm giam đối với người trên 18 tuổi là chưa bảo đảm đầy đủ quyền và lợi ích của người bị tạm giam dưới 18 tuổi. Việc không quy định cụ thể thời hạn gia hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi là bất cấp, dẫn đến những người tiến hành tố tụng còn có những quan điểm và nhận thức khác nhau, dẫn đến việc áp dụng pháp luật chưa thống nhất. Các cơ quan tiến hành tố tụng còn lợi dụng vào quy định này để kéo dài thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi để phục vụ công tác điều tra. Ngoài ra, BLTTHS 2015 không quy định cụ thể căn cứ, thời điểm để gia hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi là bất cập, hạn chế. Theo quy định của BLTTHS thì thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi bằng hai phần ba thời hạn tạm giam người trên 18 tuổi. Do đó, trong vụ án có các bị can là người dưới 18 tuổi và người 12 trên 18 tuổi cùng bị tạm giam, khi thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi đã hết thì thời hạn tạm giam người trên 18 tuổi vẫn còn một phần ba thời hạn tạm giam. Tuy nhiên, các cơ quan tiến hành tố tụng lại tiếp tục gia hạn thời hạn tạm giam lần thứ nhất đối với bị can là người dưới 18 tuổi để đảm bảo việc điều tra. Việc áp dụng gia hạn thời hạn tạm giam lần thứ nhất đối với người dưới 18 tuổi như nêu trên là không phù hợp đã vô hình chung kéo dài thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi bằng hoặc nhiều hơn người trên 18 tuổi. Đáng lý ra, khi hết thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi mà thời hạn tạm giam đối với người trên 18 tuổi vẫn còn thì Cơ quan tiến hành tố tụng phải thay thế biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi và chỉ được tiếp tục gia hạn thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi khi thời hạn tạm giam người trên 18 tuổi trong cùng vụ án đã hết. Thời điểm gia hạn tạm giam của bị can là người dưới 18 tuổi và người trên 18 tuổi phải cùng một thời điểm và thời hạn gia hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phải được quy định tương tự như thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi. Bộ luật TTHS năm 2015 đã có sự phát triển, đổi mới khi quy định thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi bằng hai phần ba thời hạn tạm giam đối với người trên 18 tuổi. Tuy nhiên, BLTTHS 2015 chỉ quy định chung chung mà không có sự phân chia độ tuổi phù hợp để áp dụng thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi là chưa phù hợp. Vì theo quy định của Điều 419 BLTTHS năm 2015 đối với người dưới 18 tuổi được chia thành hai nhóm tuổi cụ thể là từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Mặc khác, theo quy định tại Điều 101 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi được chia theo hai nhóm tuổi, cụ thể như sau: “1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định; 2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.”8 8 Bộ luật HS (2015), Điều 101. 13 Việc BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định hình phạt tù có thời hạn cụ thể đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi so với người trên 18 tuổi phạm tội là phù hợp với từng độ tuổi, tâm, sinh lý, sự phát triển bình thường và toàn diện của người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2015 không quy định thời hạn tạm giam cụ thể đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là sự bất lợi, thiệt thòi đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội. 1.2. Thực tiễn áp dụng thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi trong giai đoạn điều tra Trong khoảng thời gian từ ngày 01/01/2016 đến ngày 30/6/2018, trên địa bàn các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện diễn ra hết sức phức tạp, tính chất tội phạm ngày càng nguy hiểm, thường xuyên xảy ra các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, tập trung chủ yếu ở các nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; nhóm tội xâm phạm sở hữu; nhóm tội ma túy, nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng… dẫn đến các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với các bị can là người dưới 18 tuổi trong giai đoạn điều tra để phục vụ công tác điều tra. Số liệu thống kê về người dưới 18 tuổi phạm tội của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau:9 Năm Tổng số người dưới 18 tuổi phạm tội bị khởi tố Tổng số người dưới 18 tuổi phạm tội bị tạm giam trong giai đoạn điều tra 2016 73 (Nam: 72, nữ: 01) 12 93, 104, 133, 136, 138, 143, 202. (BLHS năm 1999) 2017 56 (Nam: 55, nữ: 01) 15 93, 104, 112, 133, 136, 138, 143, 194, 202, 212. (BLHS năm 1999) 06 tháng đầu năm 2018 31 (Nam: 31, nữ: 00) 3 123, 134, 155, 157, 173, 174, 178, 260, 327, 330. (BLHS năm 2015) 9 Tội phạm quy định tại các Điều luật của BLHS Số liệu thống kê từ ngày 01/01/2016 đến ngày 30/06/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau. 14 Số liệu thống kê về người dưới 18 tuổi phạm tội của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu: 10 Năm Tổng số người dưới 18 tuổi phạm tội bị khởi tố Tổng số người dưới 18 tuổi phạm tội bị tạm giam trong giai đoạn điều tra 2016 26 (Nam: 26, nữ: 00) 10 2017 32 (Nam: 31, nữ: 01) 4 06 tháng đầu năm 2018 15 (Nam: 14, nữ: 01) 4 Tội phạm quy định tại các Điều luật của BLHS 104, 112, 133, 136, 138, 139, 143, 194, 202. (BLHS năm 1999) 104, 112, 133, 135, 136, 138, 139, 143, 194. (BLHS năm 1999) 123, 134, 155, 157, 173, 174, 178, 260, 327, 330. (BLHS năm 2015) Số liệu thống kê về người dưới 18 tuổi phạm tội của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng:11 Năm Tổng số người dưới 18 tuổi phạm tội bị khởi tố Tổng số người dưới 18 tuổi phạm tội bị tạm giam trong giai đoạn điều tra 2016 31 (Nam: 31, nữ: 00) 16 2017 38 (Nam: 37, nữ: 01) 17 06 tháng đầu năm 2018 16 (Nam: 15, nữ: 01) 6 Tội phạm quy định tại các Điều luật của BLHS 93, 104, 112, 133, 138, 140, 194, 202, 250. (BLHS năm 1999) 104, 133, 138, 143, 194, 257 (BLHS năm 1999) 104, 111, 139, 202 (BLHS năm 1999); 134, 171, 173, 249, 254, 327, 330. (BLHS năm 2015) Qua thời gian nêu trên, để xử lý các vụ án liên quan đến bị can là người dưới 18 tuổi, các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam trong giai đoạn điều tra đối với nhiều bị can. Tuy nhiên, do có sự chuyển biến của pháp luật, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 được ban hành dẫn đến có nhiều cách hiểu, 10 11 Số liệu thống kê từ ngày 01/01/2016 đến ngày 30/06/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu. Số liệu thống kê từ ngày 01/01/2016 đến ngày 30/06/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan