Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thơ mới (1932 – 1945) từ góc nhìn phê bình sinh thái tt...

Tài liệu Thơ mới (1932 – 1945) từ góc nhìn phê bình sinh thái tt

.DOC
27
12
73

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI BÙI THỊ THU THỦY THƠ MỚI (1932 -1945) TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI Ngành: Lí luận văn học Mã số: 9220120 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC HÀ NỘI, 2020 Công trình đƣợc hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. Lƣu Khánh Thơ 2. TS. Phạm Phƣơng Chi Phản biện 1: PGS. TS Đỗ Lai Thúy Phản biện 2: PGS. TS Đoàn Đức Phƣơng Phản biện 3: PGS. TS Mai Thị Hƣơng Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại: Học viện Khoa học xã hội, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, hà Nội. Vào hồi giờ phút, ngày tháng năm 2020 Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: - Thư viện Quốc gia Thư viện Học viện MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bắt đầu từ cuối thế kỷ XX đến nay, những hiểm họa về suy thoái môi trường đã trở nên trầm trọng. Điều đó đặt ra những vấn đề liên quan đến sự tồn vong của nhân loại. Và đây là lí do vì sao trong lĩnh vực kinh tế xuất hiện khái niệm phát triển bền vững với chủ trương phát triển kinh tế nhưng không làm tổn hại đến môi trường sinh thái vì các thế hệ tương lai. Trong địa hạt khoa học xã hội và nhân văn cũng đã xuất hiện khái niệm phê bình sinh thái. Về bản chất đó là bộ môn nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Đây được xem là một hướng nghiên cứu mới có tính liên ngành, ngày càng có ảnh hưởng lớn. Phê bình sinh thái còn gọi là nghiên cứu xanh xuất hiện ở Tây Âu rồi lan rộng ra toàn cầu. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển phê bình sinh thái thể hiện rõ những tiềm năng và đã được giới nghiên cứu văn học Việt Nam tiếp cận, giới thiệu, ứng dụng, nghiên cứu Hiện nay, những nghiên cứu dựa trên nền tảng phê bình sinh thái chủ yếu hướng đến các sáng tác văn học đương đại, nghiên cứu những sáng tác văn học trước đó còn hạn chế, đặc biệt tập trung nghiên cứu nhiều vào thể loại văn xuôi mà chưa có nhiều nghiên cứu về thơ. Với lí do đó, chúng tôi muốn soi rọi lý thuyết phê bình sinh thái vào tìm hiểu một thực thể quan trọng của văn học Việt Nam thế kỷ XX là Thơ mới. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài xem xét phê bình sinh thái, một hướng tiếp cận văn học xuất phát từ phương Tây sẽ có những thích hợp hay sự khác biệt gì khi được nhìn nhận trong sự tương quan với văn học Việt Nam, đặc biệt là với Thơ mới. Đề tài muốn khám phá Thơ mới từ một góc nhìn mới, đó là sự gắn kết của trường phái thơ này với các vấn đề môi sinh, môi trường và tự nhiên. Từ đó, đề tài khẳng định giá trị trường tồn và sự đa diện của Thơ mới. Thơ 1 mới có giá trị ngay cả khi được khám phá dưới những cách tiếp cận xuất hiện sau sự ra đời và phát triển của nó rất nhiều. Đưa ra các cách hiểu về phê bình sinh thái như vậy, chúng tôi muốn khẳng định rằng phê bình sinh thái cũng chỉ là một hướng tiếp cận mới đối với Thơ mới, giống như các cách tiếp cận khác đã từng được dùng để tiếp cận bộ phận thơ ca này. Luận án của chúng tôi không nhằm xác định Thơ mới như một chỉnh thể sinh thái. Bởi lẽ trọng tâm của Thơ mới là bộc lộ cái tôi cá nhân và sự cô đơn của con người. Nhưng nghiên cứu trào lưu văn học này với công cụ là phê bình sinh thái chúng tôi muốn khám phá thêm các ý nghĩa, giá trị của Thơ mới. Do vậy, lí thuyết phê bình sinh thái sẽ góp phần soi tỏ những khía cạnh khác nhau của khuynh hướng văn chương sinh thái trong Thơ mới. Theo đó, Thơ mới được hình dung như một trường hợp để chứng minh sự hữu dụng của phê bình sinh thái trong việc nghiên thực tiễn văn học Việt Nam.. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tổng quan tình hình nghiên cứu lí thuyết phê bình sinh thái trên thế giới và ở Việt Nam. - Phân tích sự ra đời và phát triển phê bình sinh thái trên thế giới, từ đó đưa ra nhận định riêng về sự phát triển và nội hàm của phê bình sinh thái. - Tìm hiểu mối quan hệ giữa tự nhiên và con người trong Thơ mới. - Tìm hiểu ngôn ngữ và biểu tượng trong Thơ mới. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Luận án xác định đối tượng nghiên cứu là những tác phẩm trực tiếp, gián tiếp thể hiện mối quan hệ giữa tự nhiên và con ngườitrong Thơ mới. -Vận dụng những tri thức của phê bình sinh thái để cắt nghĩa lý giải mối quan hệ giữa tự nhiên và con ngườitrong Thơ mới. Từ đó khẳng định những đóng góp của Thơ mới một cách đầy đủ, toàn diện hơn. 3.2. Phạm vi nghiên cứu 2 Luận án của chúng tôi được thực hiện dựa trên sự khảo sát chính ở tuyển tập:Thơ mới 1932 – 1945 tác giả và tác phẩm, Lại Nguyên Ân (biên soạn), 1999, NXB Hội nhà văn, Hà Nội - (tập 1, tập 2 - 1401 trang). Ngoài khảo sát các diễn ngôn phê bình sinh thái trong Thơ mới chúng tôi cũng khảo sát mối quan hệ giữa tự nhiên và con người trong văn học các giai đoạn trước và sau nó, nhằm làm nổi bật và rõ hơn sự khác biệt của mối quan hệ trên trong Thơ mới. 4. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp hệ thống; Phương pháp thống kê; Phương pháp liên ngành; Phương pháp tiếp cận văn hóa học, Phương pháp tiếp cận thi pháp học; Phương pháp so sánh. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án. Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về Thơ mới từ lý thuyết phê bình sinh thái. Luận án đã tổng thuật, phân tích, đánh giá chi tiết, cụ thể các công trình nghiên cứu phê bình sinh thái trên thế giới và Việt Nam, chỉ ra vị trí và xu hướng phát triển của phê bình sinh thái nước nhà trong thời gian hiện nay. Luận án không nhằm trả lời Thơ mới có phải là văn học sinh thái hay không mà chủ yếu chỉ ra những giá trị đa diện, ý nghĩa của Thơ mới dưới sự soi chiếu của lý thuyết phê bình sinh thái. Dưới lý thuyết phê bình sinh thái, luận án lần đầu tiên khám phá trên những bình diện cơ bản về mối quan hệ con người và tự nhiên trong Thơ mới: Tự nhiên với tư cách như một khách thể và như là chủ thể; Đồng thời, luận án đã khám phá hệ thống ngôn ngữ sinh thái cùng các biểu tượng cơ bản trong Thơ mới: Biểu tượng vườn, biểu tượng rừng... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Ý nghĩa lý luận: Luận án tập trung trả lời câu hỏi Thơ mới có thể đóng góp gì cho phê bình sinh thái, tức là khi được xét trong trường hợp cụ thể là thơ ca về thiên nhiên của Thơ mới thì phê bình sinh thái có thể cần phải bổ sung điều gì; từ trường hợp của Thơ mới, có thể quay lại để bình 3 luận, bàn luận thêm về phê bình sinh thái. Một lí thuyết của thế giới, được sinh ra trong một bối cảnh lịch sử xã hội khác Việt Nam, khi đem quy chiếu đến thơ ca Việt Nam - vốn cũng được ra đời trong một bối cảnh lịch sử xã hội đặc trưng - chắc chắn sẽ có nhiều điểm khập khiễng, không phù hợp. Nghiên cứu Thơ mới từ góc nhìn phê bình sinh thái để phần nào cho thấy sự chưa phù hợp này sẽ là một đóng góp về lí luận của đề tài và Thơ mới vì thế cũng có thêm giá trị lí luận. Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm và nghiên cứu về phê bình sinh thái cũng như muốn khám phá thêm những giá trị của Thơ mới (1932 -1945) 7. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung chính của luận án gồm 4 chương như sau: Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu Chương 2: Phê bình sinh thái như là một hướng tiếp cận văn học Chương 3: Những bình diện sinh thái của mối quan hệ tự nhiên và con người trong Thơ mới Chương 4: Ngôn ngữ và biểu tượng sinh thái trong Thơ mới CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1.Nghiên cứu phê bình sinh thái ở nƣớc ngoài 1.1.1.Phê bình sinh thái ở phương Tây 1.1.1.1. Thời kỳ đầu Thời kỳ đầu những nghiên cứu về văn học và môi trường đã bắt đầu được chú ý và ngày càng gia tăng trên thế giới. Song hầu như chỉ tập trung vào các nghiên cứu ở Anh và Mỹ đặc biệt là miền Tây nước này. Nhiều công trình tập trung viết về cái hoang dại và sự hiển linh của cá nhân, chỉ ra sự hài hòa, cân bằng của thiên nhiên và giữa con người với thiên nhiên – những thứ thực ra là do văn hóa con người và ngôn ngữ con người tạo ra chứ không phải là thực tế thiên nhiên có như vậy. Chính vì thế, các nhà phê bình sinh thái gọi đây là giai đoạn tụng ca phê bình sinh thái. 4 1.1.1.2. Thời kỳ phát triển Khởi nguồn ở Anh và Mỹ, phê bình sinh thái đã mở rộng nghiên cứu ra toàn cầu. Nếu như phê bình sinh thái manh nha hình thành khoảng từ những năm 70 của thế kỉ XX, phát triển mạnh khoảng từ năm 1990 đến năm 2007 thì sang khoảng năm 2008 vẫn trên đà phát triển đó phê bình sinh thái đã có nhiều sự chuyển hướng trong nghiên cứu, mở rộng nhiều hơn tới các vấn đề giới, chủng tộc và giai cấp cũng như nhấn mạnh đến các góc nhìn liên văn hóa…Điều đó càng chứng tỏ sự hứa hẹn phê bình sinh thái là một hướng nghiên cứu phát triển và mang tính toàn cầu. 1.1.2. Phê bình sinh thái các quốc gia ngoài phương Tây Việc mở rộng kinh điển sinh thái để bao gồm tất cả các nền văn học trên thế giới với sự đóng góp của các nhà phê bình toàn cầu được coi như là một cột mốc gần đây nhất trong thực hành phê bình sinh thái, nhằm khám phá các vấn đề môi trường và hướng đến phê bình môi trường trong các truyền thống văn học ở Châu Á, đặc biệt là Nhật Bản, Hàn Quốc, hay các nền văn học tiếng Hán. Điều đó có nghĩa, đây là những nhánh phê bình sinh thái và chúng có những đặc trưng riêng cho từng nền văn hóa, từng nền văn học cũng là phê bình sinh thái của riêng nền văn hóa, nền văn học đó. 1.2.Nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt Nam 1.2.1.Cây cối, con vật và những khủng hoảng môi trường trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam Người viết sẽ khảo sát các tài liệu về phê bình sinh thái Việt Nam và những công trình dịch, tổng thuật, giới thiệu và viết về lí thuyết phê bình sinh thái để xác định vị trí của phê bình sinh thái trong nghiên cứu văn học sinh thái nói riêng và trong đời sống nghiên cứu văn học nói chung ở nước nhà. Tổng số tài liệu nghiên cứu văn học Việt Nam về phê bình sinh thái từ góc độ lí thuyết là 27 bài (Bảng 1 đính kèm) và phê bình sinh thái được khảo sát bao gồm 77 tài liệu (Bảng 2 đính kèm). Qua khảo sát hai bảng, người viết nhận ra hướng tiếp cận văn học trong mối liên quan đến môi trường ở Việt Nam có sự tương hợp với nội dung của phê bình sinh thái ở giai đoạn thứ nhất, đó là sự quan tâm đến 5 quang cảnh thiên nhiên, đến sự đối lập giữa văn hóa (đô thị - hiện đại hóa) với thiên nhiên (đồng quê - hoang dã). Điều này được thể hiện và cũng là có nguyên nhân ở sự tiếp nhận phê bình sinh thái ở Việt Nam (dịch thuật, tổng thuật) chủ yếu hướng tới nội dung thiên nhiên của phê bình sinh thái cổ điển. Cụ thể, bảng 1 cho thấy phê bình sinh thái đã được giới thiệu (dịch thuật, tổng thuật), phân tích (các bài viết mang tính lí luận) ở Việt Nam, dù không sớm nhưng khá dồi dào và cập nhật...Qua các bản dịch và tổng thuật ở đây, có thể thấy rằng nội dung được tiếp nhận của phê bình sinh thái ở Việt Nam chủ yếu là mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Theo đó, các vấn đề liên quan đến sự hòa hợp của thiên nhiên được nhấn mạnh và quan tâm nhất. Phải đến cuốn sách do Viện văn học thực hiện, những chuyển biến gần đây của phê bình sinh thái – sự hướng tới các vấn đề thuộc chính trị, xã hội, lịch sử - mới được giới thiệu. Vì vậy, sự liên đới giữa môi trường và vấn đề giai cấp, nữ quyền, dân tộc, được quan tâm về mặt lí thuyết. Và điều này hứa hẹn một xu hướng áp dụng và phát triển phê bình sinh thái mới ở Việt Nam. Phân tích sâu hơn vào bảng 2 cho thấy, các công trình lấy đối tượng là văn học dân gian, văn học trung đại và văn học hiện đại làm chất liệu nghiên cứu thì hướng tiếp cận chủ yếu theo phê bình sinh thái ở làn sóng thứ nhất. Đó là những khám phá về sự hòa hợp và sự tôn trọng giữa con người và tự nhiên. Có thể nói, với lăng kính của phê bình sinh thái, các học giả ở Việt Nam đã khám phá vị trí làm chủ thể của thiên nhiên trong mối quan hệ với con người trong văn học Việt Nam. Đây là một hướng đi mới trong phê bình, nghiên cứu văn học trên một đối tượng vốn thường được nhìn nhận như là một cấu trúc ngôn từ, nơi khám phá thế giới con người với tất cả những phức tạp, tinh vi của nó. Và có thể thấy rõ các học giả Việt Nam khám phá văn học Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái ở làn sóng đầu tiên, đó là cái nhìn có nguồn gốc sâu xa từ sinh thái bề sâu (deep ecology), nó gắn liền với sự bảo vệ và bảo tồn thiên nhiên. Các tác giả đề cao sự ổn định tĩnh tại của thiên nhiên và 6 mối quan hệ biện chứng của nó với con người; họ nhận ra và đề cao khái niệm mang tính phổ quát toàn vũ trụ về thiên nhiên và tập trung vào các văn bản viết về thiên nhiên, cây cối một cách hiển lộ. 1.2.2.Văn học và công lí môi trường trong nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt Nam Phần này của luận án nói về sự hiện diện của phê bình sinh thái trong đời sống nghiên cứu văn học ở Việt Nam như là một biểu hiện của phê bình sinh thái ở làn sóng thứ hai. Phê bình sinh thái tiếp tục ở làn sóng thứ hai có một đặc trưng là rời xa châu Âu trung tâm luận, hướng tới khám phá văn bản thuộc thế giới bên ngoài châu Âu; phê bình sinh thái trở thành một hướng tiếp cận văn học phi phương Tây của các học giả phương Tây và ở ngoài phương Tây. Một đặc trưng của phê bình sinh thái ở làn sóng thứ hai là việc hướng tới các vấn đề xã hội, chính trị, lịch sử. Cụ thể, ở Việt Nam, trước và sau khi Hội thảo quốc tế Phê bình sinh thái Tiếng nói bản địa, Tiếng nói toàn cầu do Viện Văn học (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) tổ chức (tháng 12 năm 2017), một loạt các công trình phê bình sinh thái ở Việt Nam xác định các mối bận tâm thuộc con người trong mối quan hệ với môi trường sinh thái: đó là vấn đề môi trường đô thị và khu vực cận đô thị trong các văn bản văn học thuộc tất cả các thể loại chứ không chỉ là văn học chuyên viết về thiên nhiên và sự hoang dã. Các học giả Việt Nam không còn nhìn nhận con người và thiên nhiên đối lập nhau mà cho rằng con người là một bộ phận trong chu trình thiên nhiên, do đó, mọi sự biến đổi của đời sống con người sẽ tác động đến thiên nhiên; hàm ẩn trong những luận điểm mang tính phản biện và phân tích về môi trường của các học giả Việt Nam qua các công trình, dường như là mối âu lo và nặng lòng về vấn đề bảo vệ môi trường tự nhiên trước sự hủy hoại của thiên nhiên do tác động của quá trình văn minh hóa. Như vậy, phê bình sinh thái ở Việt Nam mặc dù phản ánh sự phát triển của phê bình sinh thái thế giới qua những giai đoạn khác nhau (từ xu hướng gắn với các văn bản thiên nhiên đến việc xem xét các vấn đề chính trị, xã hội đặc trưng như chiến tranh, sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa) 7 nhưng vẫn có đặc trưng riêng ở việc hướng đến quan điểm truyền thống về mối quan hệ hợp nhất con người - tự nhiên. Điều này làm nên đặc trưng của phê bình sinh thái ở Việt Nam trong sự tương quan với phê bình sinh thái ở một số nước khác trong khu vực. Điều đó còn cho thấy phê bình sinh thái có khả năng cao được phát triển hơn nữa trong nghiên cứu văn học Việt Nam. Sự cần thiết về các nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt Nam càng được nhấn mạnh do sự nhận thức của cộng đồng trước những thay đổi môi trường đặc biệt liên quan đến ô nhiễm không khí, vệ sinh thực phẩm, sự phá hủy hệ thống thủy sinh và lâm sinh. Tiểu kết Chương này của luận án khảo sát và phân tích lí thuyết phê bình sinh thái đã được tiếp nhận và vận dụng trong việc nghiên cứu văn học nói chung và Thơ mới nói riêng ở Việt Nam. Luận án đặt diện mạo và sự phát triển của phê bình sinh thái ở Việt Nam trong dòng chảy của phê bình sinh thái thế giới trên cả hai phương diện lí thuyết và ứng dụng. Nói cách khác, luận án không liệt kê và tóm tắt các công trình phê bình sinh thái ở Việt Nam một cách riêng biệt và tràn lan mà phân tích và khảo sát chúng theo một định hướng và phương pháp nhất định. Bằng cách này, người viết hi vọng phần tổng quan về phê bình sinh thái ở Việt Nam sẽ là một đóng góp cho những tổng kết về mặt lí luận đối với hướng tiếp cận văn học từ sinh thái và môi trường, tức phê bình sinh thái. Chƣơng 2: PHÊ BÌNH SINH THÁI NHƢ LÀ MỘT HƢỚNG TIẾP CẬN VĂN HỌC 2.1. Phê bình sinh thái lấy trái đất làm trung tâm trong nghiên cứu văn học 2.1.1. Tiền đề triết học của phê bình sinh thái Đặt thiên nhiên như là hệ quy chiếu trung tâm trong nghiên cứu tác phẩm văn học. Thể hiện rõ nhất cho điều này là khi các nhà lí thuyết về phê 8 bình sinh thái chỉ ra các tiền đề triết học của hướng tiếp cận văn học: Ý thức sinh thái (Ecological consciousness); Triết học sinh thái (Ecological philosophy); Sinh thái học bề sâu(Deep ecology); Luân lí học trái đất (The land ethic); Thuyết giải phóng động vật (Animal liberation theory);Tư tưởng sinh thái học chủ nghĩa Marx và Engels. Từ các nền tảng triết học trên, có thể nhận ra một luận điểm chung rằng phê bình sinh thái, với việc đặt thiên nhiên hay sinh thái ở điểm quy chiếu trung tâm trong nghiên cứu văn học, dựa trên tư duy mang tính kiểu thân rễ (rhizomic thought) mà Gilles Deleuze và Félix Guattari phát triển trong công trình Chủ nghĩa tư bản và Tâm thần phân liệt (Capitalism and Schizophrenia, 1972–1980. Tinh thần thân rễ của phê bình sinh thái thể hiện ở chỗ các nhà sinh thái học cũng xóa bỏ mối quan hệ thứ tự, chia cắt, cố định giữa con người và tự nhiên; thay vào đó, phê bình sinh thái đưa lại mô hình liên kết, tương tác lẫn nhau và mang tính tạo sinh giữa con người và thế giới tự nhiên. 2.1.2. Phê bình sinh thái và “các câu chuyện có cây cối” Các nhà phê bình sinh thái thường kể hai câu chuyện mang tính tưởng tượng nhằm ngầm khẳng định về vai trò của văn học viết về thiên nhiên trong sự định hình hướng tiếp cận văn học từ góc độ phê bình sinh thái. Từ đó các câu chuyện đó cho thấy, phê bình sinh thái là cách tiếp cận lấy trái đất làm trung tâm trong nghiên cứu văn học. Đây là định nghĩa mang tính tuyên ngôn của phê bình sinh thái, nó xác định đặc trưng của phê bình sinh thái trong tương quan với các hướng nghiên cứu văn học khác Luận án tập trung phân tích định nghĩa của Cheryll Glotfelty nêu trong lời mở đầu của cuốn được gọi là sách giáo khoa về phê bình sinh thái đó là Sách giáo khoa về phê bình sinh thái: Các dấu mốc trong sinh thái văn học (The ecocriticism reader: Landmarks in lterary ecology, Athens and London: University of Georgia, 1996) và công trình Sự tưởng tượng về môi trường: Thoreau, Văn học tự nhiên và sự tọa thành văn hóa Mỹ xuất bản năm 1995 của Lawrence Buell (The environmental imagination: Thoreau, nature writing, and the formation of American culture. Cambridge, MA and 9 London, England: Harvard University Press). Từ đó cho thấy cả Glotfelty và Buell, những đại diện của các nhà lí luận phê bình sinh thái cổ điển, đều khám phá văn học thiên nhiên giai đoạn đầu để đưa ra những cách hiểu mang tính lí thuyết về phê bình sinh thái. Nói cách khác, với phê bình sinh thái cổ điển, các nhà phê bình sinh thái khám phá lại văn học giai đoạn đầu, đọc lại các kinh điển từ “một điểm nhìn xanh” (green perspective). 2.2. Diễn trình của phê bình sinh thái 2.2.1. Khủng hoảng của phê bình sinh thái cổ điển Nghiên cứu cho thấy phê bình sinh thái cổ điển thường tập trung vào ca tụng tự nhiên và viết chủ yếu về thiên nhiên Mỹ. Nhưng các nhà nghiên cứu phê bình sinh thái, cụ thể là Dana Phillips hay Cohen đã chỉ ra rằng : Nhân loại đang phải đối mặt với khủng hoảng môi trường nghiêm trọng. Vì thế phê bình sinh thái cần chuyển hướng kịp thời các nghiên cứu văn học để tham gia vào những vấn đề nóng bỏng của nhân loại. 2.2.2. Công lí môi trường trong phê bình sinh thái Nếu như phê bình sinh thái ở làn sóng đầu tiên đặc biệt nhấn mạnh vào các không gian làng quê và không gian hoang dã hơn là không gian đô thị thì phê bình sinh thái ở làn sóng thứ hai lại khẳng định rằng bức tường tách biệt giữa các không gian đó là sản phẩm của lịch sử, rằng thiên nhiên là đối tượng do con người định hình nên, và rằng kể từ cuộc cách mạng công nghiệp, phong cảnh thành phố và môi trường được tạo dựng nói chung phải là một nền tảng cũng năng sản không kém cho các công trình sinh thái. Phê bình sinh thái là một cách tiếp cận văn học lấy sinh thái và môi trường làm trung tâm. Tuy nhiên, từ cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, luận điểm lấy sinh thái làm trung tâm của phê bình sinh thái đứng trước những thách thức, cần phải được nhìn nhận và diễn đạt theo hướng bao gộp các vấn đề thuộc về xã hội và chính trị - đó là vấn đề công lí môi trường. Luận án phân tích các công trình lí thuyết tham gia vào cuộc tranh luận nhằm tạo ra sự chuyển biến trong cách đặt vấn đề “lấy thiên nhiên là trung tâm” của phê bình sinh thái. Cụ thể luận án chỉ ra phê bình 10 sinh thái gắn kết lý thuyết môi trường với sức khỏe cộng đồng, hướng đến phong cảnh của đô thị, công nghiệp, vấn đề an toàn lao động, chất thải và vấn đề đạo đức xã hội. 2.2.3. Phê bình sinh thái với cái toàn cầu, sự tuyệt chủng, động vật và tính liên ngành 2.2.3.1. Sự manh nha của phê bình sinh thái làn sóng thứ ba Các nhà lí luận về phê bình sinh thái đã đề cập đến phê bình sinh thái ở “làn sóng” thứ ba. Song những điều được miêu tả về làn sóng thứ ba của phê bình sinh thái thường được xem là đang được thử nghiệm và dự đoán; dù vậy, các nhà lí thuyết phê bình sinh thái vẫn khẳng định đây là hướng tiếp cận tiếp tục có đóng góp không chỉ trong phạm vi các chuyên ngành khoa học xã học, nhân văn mà còn cho cuộc đối thoại lớn hơn về cuộc khủng hoảng môi trường mà con người đang đối mặt. 2.2.3.2. Cái toàn cầu, sự tuyệt chủng, động vật và tính liên ngành Làn sóng thứ ba của phê bình sinh thái có những đặc điểm riêng, rời khỏi những đặc trưng của phê bình sinh thái thuộc hai giai đoạn trước. Trước hết, sự phát triển các khía cạnh chính trị của phê bình sinh thái, các nhà lí luận và thực hành phê bình sinh thái có xu hướng di chuyển theo hướng kết hợp phê bình hậu thuộc địa với phê bình sinh thái. Cụ thể, thứ nhất, phê bình sinh thái có xu hướng gắn bó chặt chẽ với vùng và cộng đồng, đề cao sự liên minh với nơi chốn địa phương, sự độc đáo về mặt sinh thái:; Thứ hai, phê bình sinh thái thuộc làn sóng thứ ba mang tính liên ngành. Các nhà phê bình sinh thái sẽ làm việc với phổ dữ liệu và tài liệu lịch sử rộng lớn hơn trước:; Thứ ba, phê bình sinh thái đang ngày càng có sự quan tâm đặc biệt đến sự thể hiện động vật trong quá trình nhận thức lại của con người. 2.3. Xác định cách tiếp cận văn học từ góc độ phê bình sinh thái Luận án phân tích các định nghĩa về phê bình sinh thái của Glotfelty, Richard Kerridge, Scott Slovic, William Howarth. Từ những khái quát đó, có thể hình dung ra phê bình sinh thái bao gồm hai nội dung cơ bản : Thứ nhất, đó là phân tích cách biểu đạt và nội dung về sinh thái, về mối quan hệ 11 giữa con người và tự nhiên, về các bài học đạo đức liên quan đến sinh thái, quá trình nhận thức về sinh thái trong trong tác phẩm văn học. Thứ hai, là phân tích nội dung đó và cách biểu đạt đó có thể có ảnh hưởng gì trong việc hình thành ý thức về sinh thái và môi trường trong người đọc và có ảnh hưởng gì đến chính hiện thực tự nhiên và môi trường. Tiểu kết Chương này của luận án xác định nội hàm cụ thể về hướng tiếp cận phê bình sinh thái của đề tài. Nói cách khác, nội dung chương nhằm trả lời cho câu hỏi tiếp cận phê bình sinh thái đối với Thơ mới là cách tiếp cận như thế nào? Phân tích các vấn đềcủa luận án nhằm đi đến đề xuất cách hiểu về phê bình sinh thái như là một hướng tiếp cận đối với văn học nói chung trong mối liên hệ với các vấn đề môi trường, môi sinh, sinh thái. Đưa ra các cách hiểu về phê bình sinh thái như vậy, chúng tôi muốn khẳng định rằng phê bình sinh thái cũng chỉ là một hướng tiếp cận mới đối với Thơ mới. Chƣơng 3 NHỮNG BÌNH DIỆN SINH THÁI CỦA MỐI QUAN HỆ TỰ NHIÊN VÀ CON NGƢỜI TRONG THƠ MỚI 3.1. Tự nhiên nhƣ một khách thể 3.1.1. Tự nhiên như là một sinh thể tồn tại bên ngoài con người Nếu như trong văn học trung đại thì con người và tự nhiên hô ứng và gắn bó với nhau thì đến văn học lãng mạn con người và tự nhiên lại luôn tách ra và lúc này tự nhiên được coi như là một khách thể. Điều này có thể khẳng định vị trí bên ngoài và trạng thái tôn trọng, không kiểm soát thiên nhiên của chủ thể trữ tình trong Thơ mới. Từ góc nhìn của phê bình sinh thái, có thể thấy Thơ mới bộc lộ trạng thái tôn trọng thiên nhiên, một cái nhìn thiên nhiên như là một chỉnh thể, một thế giới của riêng nó. Đây là một điểm độc đáo của Thơ mới viết về thiên nhiên dưới góc nhìn của phê bình sinh thái. Sự trân trọng với thiên nhiên, vai trò và vẻ đẹp của nó được các nhà phê bình sinh thái nhấn mạnh trên cơ sở thiên nhiên bao chứa con 12 người như là một phần của nó và trên cơ sở thiên nhiên nâng cao đời sống tinh thần và sự sống con người nói chung. Nhấn mạnh sự tôn trọng của chủ thể trữ tình đối với thiên nhiên trong Thơ mới như vậy là một trong những cách tiếp cận phổ biến của phê bình sinh thái, đó là cách tiếp cận dựa trên “cấu trúc thẩm mĩ” (aesthetic construction). Sự tương hợp của quan hệ giữa con người và thiên nhiên trong Thơ mới với quan điểm “sinh thái bề sâu” cũng cho thấy ảnh hưởng của tư tưởng triết học phương Đông, đặc biệt là quan điểm của Đạo giáo, đối với mối quan hệ này. Chính các nhà triết học môi trường phương Tây cũng bị ảnh hưởng bởi Đạo giáo, một cách thức sống đạt được bằng cách quan sát dòng chảy của các sự kiện tự nhiên như nước, sương, lửa, v.v… Các nhà Đạo giáo nhấn mạnh nguyên tắc phi ngã để hòa hợp với thiên nhiên. Quan niệm sống theo đạo của thiên nhiên đã tán dương cái quy tắc sinh thái và tiến hóa rằng con người là một phần của thiên nhiên và phải định hình cách sống của con người cho phù hợp với các chu trình và vòng quay của tự nhiên. 3.1.2. Tự nhiên như là phản chiếu những dự cảm bất an sinh thái của con người Thơ ca, đặc biệt là Thơ mới lãng mạn, cơ bản được khai thác ở phương diện là phản ánh, gợi lên, khuyến khích mối quan hệ giao hòa giữa con người và thiên nhiên; theo đó thiên nhiên là nơi bền vững, là cội nguồn, là điểm tựa đối lập lại với xã hội, với độ thị, với công nghiệp, với khoa học, hiện thân vật chất của đời sống tinh thần bất ổn, vướng bận và tham vọng. Mảng thơ viết về thiên tai và các vấn đề xã hội đi kèm chưa được chú ý nhiều, đặc biệt là từ góc độ phê bình sinh thái, chưa được tìm hiểu trong các công trình nghiên cứu về Thơ mới. Thơ mới trước tiên thể hiện sự ý thức của con người về các hiện tượng tự nhiên không thuận lợi cho con người. Nói cách khác, nhân vật trữ tình trong Thơ mới thừa nhận những hiện tượng thiên nhiên không chiều lòng người của miền đất vùng nhiệt đới gió mùa; những phản ứng sinh lí của con người trước khí hậu, thời tiết đặc trưng của miền nhiệt đới và ở khu vực 13 nông thôn. Ở mức độ cao hơn nữa, thiên nhiên trong Thơ mới còn trở thành lực lượng đe dọa đời sống con người; cùng với các lực văn hóa-xã hội, thiên nhiên tham gia vào phá hủy con người. Đáng chú ý, xu hướng của mối liên hệ này chủ yếu là những điềm gở, những tai họa. Điều này cho thấy sự bất an của con người trong vũ trụ. Nhưng Thơ mới về thiên tai, nhìn từ góc độ sinh thái, không chỉ phản ánh sự vỡ mộng của con người về bản thân mình trước thiên nhiên và vỡ mộng về thiên nhiên như là chốn đi về an bình, như là sự bất biến. Thơ mới về thiên tai, với tứ thơ được phát triển dựa vào sự kiện về thiên tai, phản ánh và gia nhập vào diễn ngôn về công lý môi trường và công lí xã hội. Có thể nói, Thơ mới, dường như đồng điệu với các vấn đề liên quan đến công lý môi trường và công lí xã hội, những vấn đề đang được các nhà phê bình sinh thái thuộc làn sóng thứ hai tập trung khai thác và phát triển trong tiếp cận văn học. 3.2. Tự nhiên nhƣ một chủ thể 3.2.1. Tự nhiên như là lực hút và lực đẩy của chốn đô thị Trong Thơ mới, đô thị trở thành một đề tài chủ đạo. Và nhìn từ góc độ phê bình sinh thái, đô thị trong Thơ mới là đối tượng của sự phê phán, sự từ chối để từ đó thi nhân hướng về với thiên nhiên.Với các nhà Thơ mới, đô thị là giấc mộng phù hoa. Nhưng rồi đô thị chỉ là giấc mộng phù du của thi nhân. Càng hi vọng bao nhiêu càng thất vọng bấy nhiêu. Bởi đô thị bên cạnh sự xa hoa, tiến bộ của nó là đầy rẫy những bon chen, lọc lừa, dối trá…. Cả một xã hội hỗn tạp, ô uế, nhớp nhúa xuất hiện trong đời sống đô thị. Đó chính là mảng màu tối trong sự tưởng tượng về đô thị vốn vẫn lung linh, xa hoa, hào nhoáng của các nhà thơ đương thời. Rõ ràng, từ góc nhìn phê bình sinh thái, có thể thấy đô thị trong Thơ mới là “một cơn ác mộng đô thị”. Sự đổ vỡ, hụt hẫng, thất vọng với đô thị là cảm thức chung của các thi sĩ Thơ mới. Bi kịch đô thị đó tỷ lệ thuận với sự hăm hở của các nhà thơ những ngày đầu nuôi giấc mộng đô thành. Càng háo hức bao nhiêu thì càng đau đớn, lạc lõng bấy nhiêu. Và nơi chốn 14 bình yên đó với các nhà Thơ mới, thật tương ứng với quan điểm của các nhà phê bình sinh thái ở làn sóng đầu tiên, đó là thôn dã. 3.2.2. Tự nhiên như là cõi đi về của con người trong thế giới hiện đại Mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên trong Thơ mới với tư cách là những trang viết về thiên nhiên nói chung và về thôn dãnói riêng. Theo đó, thiên nhiên là quá khứ và là nơi lí tưởng để con người trở về nương náu, rời khỏi cái hiện đại với những hiện thân đặc trưng của nó là thành phố, công nghệ, là nỗi lo vật chất và sự hỗn tạp.Thơ về thôn quê cũng là một biểu hiện về mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người trong thời hiện đại trong Thơ mới. Thiên nhiên thôn quê trong Thơ mới, giống như trong thơ đồng quê nói chung, đem lại hình ảnh thi vị về sự trật tự, sự bền vững và các giá trị về đồng thuận, hài hòa – đó là đời sống ổn định. Các nhân vật trữ tình trong Thơ mới, vừa trực tiếp và vừa gián tiếp, bộc lộ xu hướng đi về phía thiên nhiên thôn quê để sống giản dị, để trốn khỏi những căng thẳng của sự văn minh nơi thành phố. Sự bình dị, an yên là điều trở đi trở lại trong những câu thơ về bức tranh thôn quê. Như thế, thiên nhiên trong Thơ mới là cõi đi về của con người hiện đại, là nơi con người được trở về với quá khứ, với sự bình yên, và sự thức tỉnh của tâm trí cũng như sự thức dậy của các giác quan cơ thể. Tất cả điều đó cho thấy sự quan sát và sự cảm nhận của con người về vai trò chính của thiên nhiên trong những nỗ lực của con người nhằm giải thoát khỏi những hệ lụy của đời sống hiện đại. Tiểu kết Từ cách tiếp cận của phê bình sinh thái, chương 3 của luận án đã khám phá những phương diện trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Trên cơ sở lý luận về phê bình sinh thái, luận án đã khảo sát, phân tích kiến giải mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên trên một số bình diện cơ bản: Đó là thiên nhiên trong Thơ mới vừa như một khách thể để cho con 15 người quan sát, chiêm ngưỡng và thụ hưởng. Đồng thời thiên nhiên lại như là một chủ thể để con người có thể tìm về như tìm nơi an trú ở trong đó. Chƣơng 4 NGÔN NGỮ VÀ BIỂU TƢỢNG SINH THÁI TRONG THƠ MỚI 4.1. Ngôn ngữ sinh thái trong Thơ mới 4.1.1. Vấn đề ngôn ngữ sinh thái trong thơ ca Diễn ngôn của phê bình sinh thái và thơ ca về môi trường, tự nhiên được nhiều nhà nghiên cứu theo hướng phê bình sinh thái cho là có khả năng tương hợp, giao thoa nhau. Cả hai đều quan tâm đến ý tưởng. Cách tiếp cận theo hướng phê bình sinh thái đối với Thơ mới có thể giúp nhìn ra sự tương đồng hay đối thoại – qua hình ảnh và ngôn ngữ - của Thơ mới đối với các vấn đề môi trường đương thời và với diễn ngôn của phê bình sinh thái như là một lí thuyết nghiên cứu văn học và khoa học nhân văn hiện nay. 4.1.2. Hệ thống ngôn ngữ sinh thái trong Thơ mới 4.1.2.1. Thơ mới như là những bảng màu sinh thái Tính từ chỉ màu sắc, cụ thể là các gam màu sáng và dịu nhẹ tạo thành một vấn đề nổi bật trong ngôn ngữ các tác phẩm Thơ mới viết về thiên nhiên. Nói cách khác, ngôn từ trong Thơ mới hầu hết tập trung vào sắc diện sáng của thiên nhiên và thế giới sinh thái. Phổ biến nhất là các tính từ chỉ màu xanh, vàng, hồng, trắng. Từ cách tiếp cận sinh thái kinh điển, sự xuất hiện dày đặc của các tính từ chỉ màu sắc tươi sáng, nhất là màu xanh trong Thơ mới cho thấy sự trân trọng của con người đối với thiên nhiên. Các tính từ thiên về màu xanh tươi sáng, trong Thơ mới tạo ấn tượng về thiên nhiên như là một “nơi chốn” đẹp đẽ và có đời sống tự thân, tách biệt với thế giới con người. Do đó, dễ dàng nhận thấy tinh thần lấy thiên nhiên và thế giới sinh thái làm trung tâm của phê bình sinh thái trong sự xuất hiện nhiều các tính từ chỉ màu sắc tươi sáng của thiên nhiên trong Thơ mới. Như vậy, thế giới sắc màu trong Thơ mới hiện ra như một sinh thể sống động, là kết quả của “những ý niệm mang tính xúc giác” (sensory 16 perceptions) của chủ thể trữ tình. Nói cách khác, thế giới màu sắc ở đây như là một nơi chốn mà ở đó diễn ra sự tương tác phức hợp của các chu trình tự nhiên và chu trình văn hóa. Có thể nói, ngôn ngữ chỉ màu sắc trong Thơ mới cho thấy sự không tách rời, hay nói đúng hơn là mối quan hệ trao nhận, tương tác của chủ thể và khác thể, của tự nhiên và văn hóa trong các bài thơ về thiên nhiên và sinh thái. Điều này tương đồng với sự phát triển về lí luận gần đây trong lí thuyết phê bình sinh thái. Đó là việc chấp nhận tự nhiên không phải là một “nơi” tách biệt và đối lập với con người mà như là một quá trình trong đó có sự tương tác của các quá trình hình thành ý niệm, sự vận dụng các mã văn hóa và quá trình tự nhiên được cảm nhận qua giác quan của con người. 4.1.2.2. Thơ mới như là những khởi đầu của lý thuyết phê bình sinh thái ở Việt Nam Trong phong trào Thơ mới, có những bài thơ trực tiếp nói nói về mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên tương ứng với tư tưởng về mối quan hệ này trong lí thuyết phê bình sinh thái. Nói cách khác, Thơ mới bao gồm trong nó, thông qua hình thức thơ, với vần, nhịp và cách ngắt câu đặc trưng, những triết lí và quan niệm đặc trưng của phê bình sinh thái. Với tính luận đề về sinh thái, trong Thơ mới, ta có thể bắt gặp những câu thơ hay những cách diễn đạt ngôn từ có thể là tuyên ngôn hay phương châm của phê bình sinh thái hay các phong trào môi trường. Dường như tác giả trữ tình dùng các hình ảnh trên chỉ như là một thành ngữ, một khái niệm phổ quát. Quá trình ý niệm hóa cũng khiến cho các câu thơ đều có khả năng trở thành những tuyên ngôn về một triết lí sống hướng về thiên nhiên. Như vậy, Thơ mới, khi được nhìn nhận từ góc độ phê bình sinh thái, tràn đầy tiềm năng trở thành diễn ngôn sinh thái, tham gia vào diễn ngôn và tư tưởng về sinh thái của nhân loại ngày nay. 4.1.2.3. Thơ mới như là những tiềm ẩn lý luận bằng thơ về sự chấn thương sinh thái Các nhà phê bình sinh thái đã tìm kiếm trong văn học những biểu đạt gợi ý về sự chấn thương có thể của hệ thống sinh thái. Một chủ đề nổi bật 17 trong thơ viết về rừng nói riêng và thiên nhiên nói chung của Thơ mới là sự mất mát, tổn thương. Ở những bài thơ này, diện mạo của thiên nhiên hiện ra rên xiết, đau đớn như là hệ quả của một sự can thiệp thô bạo. Luận điểm về vấn đề chấn thương sinh thái, hình ảnh muông thú – có tính nhân cách hóa được phân tích ở trên đặt ra một câu hỏi, liệu việc biểu đạt những mất mát về thiên nhiên đó có phải là một hiện thân cho sự thống trị của con người, rằng con người đang không cho thiên nhiên nói tiếng nói thật sự của nó, rằng con người đang nói hộ, nói cho thiên nhiên theo cái cách hiểu và giọng nói của mình. Khẳng định rằng một nội dung cơ bản trong mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên được nhìn nhận trong phê bình sinh thái. Đó là mối quan hệ của con người với thế giới tự nhiên phi nhân loại có được đặc trưng chủ yếu là chấn thương. Và như vậy, Thơ mới với những biểu đạt có tính nhân hóa – hiện thân của trí tưởng tượng – đã động chạm đến những chấn thương sinh thái và điều này tương đồng với những chấn thương của con người và của dân tộc dưới các chính sách bóc lột của thực dân. 4.2. Biểu tƣợng sinh thái trong Thơ mới 4.2.1. Biểu tượng và biểu tượng “vườn” trong phê bình sinh thái Người đọc thơ đôi khi có thể cảm thấy họ thiếu đi chiếc “chìa khóa” để mở khóa “ý nghĩa bí mật” của những bài thơ đầy biểu tượng và ký hiệu. Đúng là có những bài thơ yêu cầu người đọc phải có chìa khóa như vậy. Nhưng có những bài thơ chứng tỏ rằng có nhiều thứ để nói về biểu tượng hơn là việc dựa vào công thức tương ứng 1:1 giữa biểu tượng và nghĩa. Thơ mới có rất nhiều biểu tượng như biểu tượng về nỗi cô đơn, biểu tượng cho những nỗi tiếc thương quá khứ, biểu tượng về văn hóa cổ truyền, biểu tượng về dòng sông, biểu tượng về cánh đồng,...Nhưng theo quan sát của chúng tôi thì “vườn” là biểu tượng thể hiện tính chất sinh thái rõ nhất của Thơ mới. Nghiên cứu biểu tượng “vườn” chúng tôi hướng tới hai mục đích. Thứ nhất, biểu tượng “vườn” chỉ nơi chốn và đây là nơi xoa dịu những đau thương của con người trong môi trường đô thị. Thứ hai, biểu tượng 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan