MỤC LỤC
NỘI DUNG
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM TẠ
TIỂU SỬ CÁ NHÂN
MỤC LỤC
DANH SÁCH BẢNG
DANH SÁCH HÌNH
TÓM LƯỢC
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1. LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1 MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NGHỆ THUẬT VƯỜN – CÔNG VIÊN
TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
1.1.1 Lược sử phát triển nghệ thuật bố cục vườn – công viên trên thế giới.
Nghệ thuật vườn – công viên Ai Cập
Nghệ thuật vườn công viên At-xi-ri và Ba-bi-lon
Nghệ thuật vườn – công viên Ấn Độ
Nghệ thuật vườn – công viên Trung Quốc
Nghệ thuật vườn – công viên Nhật Bản
Nghệ thuật vườn – công viên Hy Lạp
Nghệ thuật vườn – công viên La Mã
1.1.2 Nghệ thuật vườn – công viên Việt Nam
Xu hướng vườn cây cắt xén hình học
Xu hướng cảnh quan phong cảnh đồng quê
Xu hướng cảnh quan kết hợp kỹ thuật
1.2 CÁC VẤN ĐỀ CỦA MẢNG XANH.
1.2.1 Vai trò của kiến trúc và cảnh quan
1.2.2 Cây xanh cải thiện khí hậu
Điều chỉnh nhiệt độ
Bảo vệ gió và sự di chuyển không khí
Lượng mưa và ẩm độ
1.2.3 Tác dụng cây xanh trong kỹ thuật lọc môi sinh
Hạn chế ô nhiễm không khí
Hạn chế tiếng ồn
Giảm sự chói sáng và chiếu sáng
Kiểm soát giao thông
1.3 PHÂN LOẠI CÂY XANH
1.3.1 Phân loại theo mục đích sử dụng
1.3.2 Phân loại theo công dụng
1.3.3 Phân loại theo kích thước trưởng thành
1.4 CÁC QUY LUẬT BỐ CỤC CƠ BẢN CỦA NGHỆ THUẬT VƯỜN –
CÔNG VIÊN
1.4.1 Bố cục cân xứng
1.4.2 Bố cục tự do
vi
TRANG
iii
iv
v
vi
viii
ix
x
1
2
2
2
2
3
3
4
5
6
7
8
9
10
11
11
11
13
13
13
14
14
14
15
15
15
15
15
15
15
16
16
16
1.4.3 Bố cục kết hợp đối xứng và tự do
1.4.4 Trung tâm và trục bố cục chính phụ
1.5 CÁC QUI LUẬT PHỐI KẾT CÂY XANH
1.5.1 Phối kết cây xanh theo tương quan về màu sắc
1.5.2 Phối kết cây xanh theo hình dáng
1.5.3 Phối kết theo mùa – Khí hậu
1.5.4 Phối kết theo tỉ lệ
1.5.5 Phối kết theo vị trí
1.6 CÁC QUI LUẬT CỦA NGHỆ THUẬT CẢNH QUAN
1.6.1 Quy luật hài hòa
1.6.2 Quy luật cân bằng
Cân bằng đối xứng
Cân bằng không đối xứng
Cân bằng đối tâm
1.6.3 Quy luật tương phản
1.6.4 Quy luật cân đối và nhất quán
CHƯƠNG 2. PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 PHƯƠNG TIỆN NGHIÊN CỨU
2.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1 Khảo sát, phân tích hiện trạng khu đất
2.2.2 Lên ý tưởng
2.2.3 Thiết kế hoàn chỉnh
2.2.4 Thuyết minh ý tưởng thiết kế
2.2.5 Dự toán chi phí
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 HIỆN TRẠNG KHU VỰC THIẾT KẾ
3.1.1 Hiện trạng xây dựng kết cấu công trình
3.1.2 Hiện trạng cây xanh
3.1.3 Hiện trạng các công trình lân cận
3.1.4 Nhận định đánh giá chung về khu vực thiết kế
3.2 THUYẾT MINH Ý TƯỞNG BẢN VẼ
3.2.1 Phương án 1: Bố cục tự do – phong cách hiện đại
3.2.2 Phương án 2: Bố cục tự do – Phong cách đồng quê
CHƯƠNG 4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1 KẾT LUẬN
4.2 ĐỀ NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
vii
16
16
17
17
17
19
19
19
20
20
20
20
20
20
20
21
22
22
22
22
22
22
22
22
23
23
23
24
24
24
24
24
37
53
53
53
54
DANH SÁCH BẢNG
BẢNG
3.2.1
3.2.2
3.2.3
3.2.4
TÊN BẢNG
Danh sách loại cây sử dụng trong phương án 1
Dự toán kinh phí thi công phương án 1
Danh sách loại cây sử dụng trong phương án 2
Dự toán kinh phí thi công phương án 2
viii
TRANG
34
35
49
50
DANH SÁCH HÌNH
HÌNH
1.1
1.2
1.3
1.4
1.5
1.6
1.7
1.8
3.1
3.2
3.3
3.4
3.5
3.6
3.7
3.8
3.9
3.10
3.11
3.12
3.13
3.14
3.15
3.16
3.17
3.18
3.19
3.20
3.21
TÊN HÌNH
Vườn treo Ba-bi-lon của hoàng hậu Xi-mi-ra-mit
Đá, nước, nhà tạ trong vườn Shizillin, Tô Châu
Hành lang, nhà tạ trong vườn Lạc Viên, Thượng Hải
Vườn đá ở viện Ryoan-ji, Kyoto
Biệt thự Vettii, Pompeii (giữa thế kỷ I TCN)
Vườn lăng Tự Đức được kết hợp từ bố cục cân xứng và tự do
– Toàn cảnh
Cây cắt xén theo hình con vật
Phong cảnh đồng quê trong thiết kế vườn hiện đại
Mặt bằng tổng thể hiện trạng biệt thự Vạn Phát
Hiện trạng xây dựng biệt thự Vạn Phát tại Cồn Khương
Mặt bằng tổng thể thiết kế phương án 1
Phối cảnh góc nhìn 1
Phối cảnh góc nhìn 2
Phối cảnh góc nhìn 3
Phối cảnh góc nhìn 4
Phối cảnh tổng thể phương án 1
Mặt cắt chòi nghỉ
Mặt cắt đồi cỏ
Mặt cắt hồ súng lam
Mặt bằng tổng thể thiết kế phương án 2
Phối cảnh góc nhìn 1 (P. án 2)
Phối cảnh góc nhìn 2 (P. án 2)
Phối cảnh góc nhìn 3 (P. án 2)
Phối cảnh góc nhìn 4 (P. án 2)
Phối cảnh tổng thể phương án 2
Bản vẽ mặt cắt đồi cỏ
Mặt cắt hồ nước lớn
Mặt cắt chòi nghỉ
Mặt cắt hồ nước nhỏ
ix
TRANG
3
4
5
6
8
9
10
10
23
23
25
26
28
30
31
32
32
32
33
38
39
41
43
45
46
46
47
47
48
VƯƠNG NGỌC ĐĂNG KHOA. 2011. “THIẾT KẾ CẢNH QUAN BIỆT THỰ
VẠN PHÁT TẠI CỒN KHƯƠNG, QUẬN NINH KIỀU - TPCT”. Luận văn tốt
nghiệp kỹ sư ngành Hoa viên và Cây cảnh, Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng
dụng, trường Đại học Cần Thơ. 54 trang. Cán bộ hướng dẫn ThS. Mai Văn Trầm.
_________________________________________________________________
TÓM LƯỢC
Đề tài “THIẾT KẾ CẢNH QUAN BIỆT THỰ VẠN PHÁT TẠI CỒN
KHƯƠNG, QUẬN NINH KIỀU – THÀNH PHỐ CẦN THƠ” được thực hiện từ
12/2010 – 04/2011 tại biệt thự Vạn Phát Cồn Khương, Quận Ninh Kiều – TPCT. Đề
tài được thực hiện dựa trên các qui trình kĩ thuật thiết kế cảnh quan trong đơn vị nhà
phố với mục tiêu đưa ra được hai phương án thiết kế cảnh quan phù hợp và hài hoà
với khối kiến trúc ngôi nhà.
Qua thực hiện khảo sát, phân tích và đánh giá hiện trạng khu vực thiết kế kết
hợp với công năng sử dụng đã lên được ý tưởng phong cách thiết kế cho hai phương
án.
- Phương án 1: Bố cục tự do – phong cách hiện đại, phương án này tạo được
cảnh quan kết hợp hài hoà với kiến trúc công trình.
- Phương án 2: Bố cục tự do – phong cách đồng quê, phương án này tạo cảnh
quan mang nét đặc trưng đồng quê Việt Nam kết hợp với kiến trúc hiện đại của ngôi
nhà với vật liệu và loại cây đặc trưng và thân thiện.
Hai phong cách thiết kế đều chú trọng tạo bóng mát và độ thông thoáng cho
ngôi nhà. Nghiên cứu chọn loại cây và vật liệu phối kết thích hợp cho từng phong
cách bao gồm nhóm cây bóng mát, cây dạng bụi, có hoa đẹp và đặc trưng cho đồng
quê, nhóm cây trồng viền và cỏ nền. Nghiên cứu cách bày trí và lên bản vẽ mặt
bằng, bản vẽ phối cảnh hoàn chỉnh. Lập bảng dự toán chi phí thi công cho từng
phương án thiết kế.
x
MỞ ĐẦU
Cây xanh là một phần không thể thiếu của sự sống, ngày nay khi nhận thức của con
người về vai trò của mảng xanh đối với đời sống được nâng cao thì nhu cầu về
không gian xanh cho các công trình kiến trúc đã trở thành phần không thể thiếu.
Mảng xanh được kết hợp hài hoà với khối kiến trúc xây dựng sẽ tăng tính mĩ quan
cho công trình. Ngoài ra mảng xanh còn cải thiện vi khí hậu, giảm bức xạ nhiệt,
giảm ô nhiễm môi trường, cải tạo lưu thông gió và có tác dụng dung dưỡng tinh
thần cho con người.
Công trình nhà phố biệt thự Vạn Phát là một công trình lớn với diện tích 3700m2 tọa
lạc tại khu dân cư cao cấp Cồn Khương, quận Ninh Kiều – TPCT. Là một công
trình với kiến trúc đồ sộ, uy nghi và hiện đại, vì vậy biệt thự Vạn Phát rất cần có
công trình nghiên cứu thiết kế cảnh quan kết hợp với khối kiến trúc có sẵn để tăng
tính mĩ quan, tạo được không gian thư giản, vui chơi giải trí và một số công năng
khác nhằm tăng khả năng phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt đời sống của gia chủ.
Đề tài “ Thiết kế cảnh quan biệt thự Vạn Phát tại Cồn Khương, quận Ninh
Kiều – thành phố Cần Thơ” được thực hiện với mục tiêu và tính cấp thiết nêu
trên.
1
CHƯƠNG 1
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NGHỆ THUẬT VƯỜN – CÔNG VIÊN
TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
1.1.1 Lược sử phát triển nghệ thuật bố cục vườn – công viên trên thế giới.
Nghệ thuật vườn – công viên đã có từ lâu trên thế giới, vào khoảng 3.000
năm trước công nguyên, ở Trung Quốc đã xây vườn lớn bao quanh công thự vua
chúa. Tại thành phố Ba-bi-lon (thành phố thời cổ duy nhất giữ được nền văn minh
và phát triển trong liền 15 thế kỷ) đã có vườn treo của hoàng hậu Xi-mi-ra-mit. Ở
Ai Cập, Hy lạp và La Mã cổ đã chú ý nhiều đến việc xây dựng vườn: tạo mặt nước,
các công trình trang trí phong phú, số lượng tượng rất lớn.
Vào thế kỷ XIII – XIV ở Tây Ban Nha đã xây dựng các vườn nhỏ, kín. Thời
trung cổ nghệ thuật vườn hầu như không phát triển. Đến thời phục hưng vườn lại
hưng thịnh.
Ở Ý, thế kỷ XVI đã tạo nên các vườn đặc sắc của lâu đài, biệt thự. Đến thế
kỷ XVII kiểu vườn ở Ý được đưa vào Pháp và được thay đổi theo đặc điểm tự nhiên
của nước Pháp: Nếu ở Ý quy mô vườn 2-3 ha thì ở Pháp quy mô hàng trăm ha. Nổi
tiếng có vườn Véc-xai rộng 1.700 ha. Tác phẩm này của Le-no-tre đã ảnh hưởng
sâu sắc đến nghệ thuật phong cảnh Châu Âu.
Giữa thế kỷ XVIII ở Tây Âu xuất hiện khuynh hướng nghệ thuật phong cảnh
mới ảnh hưởng bởi nghệ thuật mô phỏng tự nhiên của vườn cổ Trung Quốc.
Đến thế kỷ XIX nghệ thuật phong cảnh đã mở rộng đến thành phố và trở
thành một phần hữu cơ với thành phố.
Sau cánh mạng Tháng Mười, thành phố xã hội chủ nghĩa bắt đầu hình thành
kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của quang cảnh chung. Năm 1929, lần đầu tiên trên
thế giới, ở Liên Xô đã xuất hiện kiến trúc phong cảnh trong công viên kiểu mới:
công viên văn hóa nghỉ ngơi Gooc-ki ở Mat-xcơ-va.
Ngày nay, trên thế giới đã xuất hiện nhiều khuynh hướng nghệ thuật vườn –
công viên (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 1980).
Nghệ thuật vườn – công viên Ai Cập
Bố cục vườn cổ Ai Cập theo xu hướng cân xứng, quanh nhân trung tâm là
một hồ nước lớn hình chữ nhật. Bố cục đơn giản nhưng rất chặt chẽ bởi các yếu tố
như: công trình chính (đền thờ hay dinh thự) nằm trên trục chính, đường đi dạo
thẳng hàng, cây hoa trang trí ở trung tâm, cây to bóng mát trồng thành hàng xa
trung tâm. Nguyên nhân tạo bố cục dạng hình học của vườn là do hệ thống tưới quy
định.
2
Nghệ thuật vườn công viên At-xi-ri và Ba-bi-lon
Vườn ở At-xi-ri và Ba-bi-lon hình thành trên cơ sở kiến trúc Hưỡng Hà, điển
hình là kiểu đền Zic-cu-rat. Kiểu này được gọi là là vườn treo. Nổi tiếng là vuờn
treo Xi-mi-ra-mit. Vườn có 4 tầng cao chênh nhau 5m, mỗi tầng có chiều rộng
3,5m. Chiều dài nhất của vườn là 12m. Bố cục các tầng vườn theo xu hướng tự do.
Các tầng vườn được nối với nhau bởi những bậc đồ sộ làm bằng đá hoa trắng và
hồng trông rất lộng lẫy. Yếu tố chủ yếu đưa vào bố cục vườn là cây. Có nhều loại
cây quý hiếm để tạo cảnh đẹp và cho bóng mát. Ngoài cây cỏ tự nhiên, vườn còn
được chú ý sửa sang cải tạo địa hình (đắp đồi nhân tạo). Bố cục mặt nước trong
vườn treo được tổ chức ở các dạng vòi phun, thác hay suối vừa để trang trí, vừa để
tưới.
Hình 1.1 Vườn treo Ba-bi-lon của hoàng hậu Xi-mi-ra-mit
(Lê Đàm Ngọc Tú, 2006)
Nghệ thuật vườn – công viên Ấn Độ
Yếu tố thực vật trong bố cục nghệ thuât vườn – công viên Ấn Độ rất đa dạng.
Với điều kiện thiên nhiên sẵn có: núi cao nhất thế giới, đồng cỏ mênh mông, vùng
mưa nhiều lại có vùng sa mạc. Đặc trưng của vườn Ấn Độ là hệ thống mặt nước mở
rộng, người ta có cảm tưởng như vườn nổi trên mặt nước, có loại vườn gọi là “vườn
nổi”. Vườn nổi là những “bè” chiều dài 9m chiều rộng 2 – 3 m, đắp lớp đất 60 – 70
cm. Trên những lớp đất đó có tổ chức cây xanh (thường trồng những loại cây ăn
quả). Nổi tiếng nhất Ấn Độ là quần thể công viên cung điện U-dai-pua (1571).
Vườn xây dựng trên đảo đá trắng, dưới chân núi đảo là mặt nước tự nhiên, có chổ
3
được cải tạo, cơ cấu vườn bao gồm một hệ thống sân cao. Thủ pháp bố cục sân chủ
yếu dùng cây to bóng mát trồng đăng đối, tán cây màu thẫm, đổ bóng xuống mặt
nước. Ở lâu đài trên sân có bể trang trí và lát đá màu, có bồn hoa trồng những khóm
hoa.
Nghệ thuật vườn – công viên Trung Quốc
Hình 1.2 Đá, nước, nhà tạ trong vườn Shizillin, Tô Châu
(Lê Đàm Ngọc Tú, 2006)
Nghệ thuật vườn – công viên cổ Trung Quốc là quê hương của xu hướng mô
phỏng thiên nhiên phương Đông. Đó là một nghệ thuật độc đáo với những nguyên
lý:
+ Lấy thiên nhên làm mẫu chính.
+ Các yếu tố hình thành vườn được bố trí hài hòa.
+ Vườn Trung Quốc bố cục theo kiểu đi ngắm cảnh. Vì thế luôn tạo cảnh
thay đổi, bất ngờ. Lối đi thường có mái che (trường lang) để sử dụng được cả bốn
mùa.
+ Công trình được bố trí nhiều loại, chiếm tỉ lệ trong vườn. Dùng đá tạo
thành những tác phẩm trang trí bằng cách ghép nghệ thuật.
+ Địa hình được nghiên cứu tỷ mỉ.
+ Nước là một yếu tố không thể thiếu. Thường dùng mặt nước làm trung tâm
bố cục vườn….
Nghệ thuật tạo cảnh đúng thủ pháp gây sự thay đổi trong cảm giác: như tổ
chức đồi vực xen lẫn thung lũng, đồng cỏ, dòng nước chảy mạnh xen lẫn mặt nước
phẳng lặng, cánh rừng thông tối xen lẫn rừng lá màu sáng tràn ánh nắng.
4
Sử dụng âm thanh để tạo nên những tâm trạng theo chủ đề của tác giả như:
tạo tiếng gió, tiếng vọng âm, tiếng chim hót, tiếng suối róc rách hay tiếng ầm ầm
của thác đổ, tiếng rì rào hay xào xạc của lá,…
Hình 1.3 Hành lang, nhà tạ trong vườn Lạc Viên, Thượng Hải
(Lê Đàm Ngọc Tú, 2006)
Nghệ thuật vườn – công viên Nhật Bản
Người Nhật đã chịu ảnh hưởng xu hướng nghệ thuật vườn Trung Quốc
nhưng để phù hợp với kiểu thiên nhiên đất nước mình họ đã tạo nên kiểu nghệ thuật
phong cảnh đặc sắc với những nguyên lý riêng: phong cảnh vườn cổ Nhật không
phải để đi vào ngắm mà để ngồi thưởng thức. Vì vậy không gian vườn chan hòa với
không gian bên trong nhà. Vườn được xem như một phần của nhà. Người Nhật
thích giữ nguyên phong cảnh đất nước mình, để đạt được ý nguyện họ đã thu nhỏ
thiên nhiên tạo thành những bức tranh hoàn chỉnh để ngắm. Người Nhật đã dùng
thủ pháp tượng trưng cao: Thiên nhiên đôi khi chỉ biểu hiện dáng dấp (dòng suối,
con sông, thác đổ). Nghệ thuật vườn Nhật độc đáo nhất là tạo cảnh khô. Nổi tiếng
trên thế giới có vườn Rioanji. Vườn chỉ có hai yếu tố cát trắng hạt to và đá. Cát chỉ
dùng bừa để chải giả làm sóng biển. Trên thảm cát đó sắp xếp một cách nghệ thuật
những nhóm đá tượng trưng đất nước đảo.
5
Bố cục vườn Nhật sử dụng không gian mở là chủ yếu, vườn Nhật hạn chế
dùng cây. Cây trong vườn Nhật được nghiên cứu tỷ mỉ dưới các dạng:
Cây để mọc tự nhiên. Thường dùng loại lá xanh quanh năm như cây thông
hình ô.
Cây hãm với tỷ lệ bé hài hòa với mảnh vườn nhỏ ( đó là một nghệ thuật đã
đạt đến đỉnh cao).
Rêu và cỏ hầu như không thể thiếu được trong vườn Nhật. Đặc tính chung
của vườn Nhật là bố cục tạo nên sự mềm mại đặc sắc; màu lục xám bao trùm khắp
vườn mang tính chất cổ kính nên thơ. Vườn Nhật bố cục theo 3 phong cách:
Phong cách Xin: đơn giản, phẳng.
Phong cách Xô: phức tạp, có đồi.
Phong cách Djiô: địa hình phức tạp có núi đồi, sông, suối.
Hình 1.4 Vườn đá ở viện Ryoan-ji, Kyoto
(Lê Đàm Ngọc Tú, 2006)
Nghệ thuật vườn – công viên Hy Lạp
Hy Lạp có khí hậu Địa trung hải. Vì vậy rất thuận lợi cho việc phát triển
công trình kiến trúc độc đáo: Nhà hát ngoài trời, sân vận động có khán đài v.v…
đặc biệt phát sinh các công trình mang tính chất xã hội. Do vậy, vườn công cộng bắt
nguồn từ cổ Hy Lạp. Nguyên nhân vườn mang ý nghĩa công cộng nữa là do người
Hy Lạp rất tôn thờ các anh hùng có tài võ nghệ. Hàng năm có tổ chức ngày hội thi
tài, chính tại những trường đấu này đã hình thành công viên trồng những loại cây to
rợp bóng mát. Một trong những kiểu vườn công cộng là vườn mang tính chất rừng
nhỏ. Tại đó kỷ niệm các anh hùng sáng lập ra thành phố và những người nổi tiếng
6
được xem như Chúa Trời. Ở những nơi thành kính trồng những loại cây đặc biệt
quý và đẹp như trắc bá diệp, ngô đồng cao to có bóng mát, pan-ma,…
Kiểu vườn nữa được gọi là Nhim-phê-ia: Trung tâm là hồ nước trang trí,
trong hồ có những tảng đá đẹp, quanh hồ trồng cây bóng mát. Nhim-phê-ia sau này
(thời kỳ phục hưng) trở thành mô típ của vườn La Mã. Cái đẹp của vườn Hy Lạp
còn gắn bó với những truyền thuyết dân gian. Hoa được người Hy Lạp ưa chuộng
và thường tượng trưng cho các truyền thuyết cao đẹp. Họ rất thích hoa cẩm chướng.
Hy lạp có “vườn hoa vàng” và có cả những tuyển tập viết về hoa được xem như
công trình khoa học. Hy Lạp còn có loại vườn gọi là vườn Pa-pây-on: dùng đồi
nhân tạo để trang trí, đỉnh đồi có những con đường uốn quanh hình xoắn ốc. Ngoài
ra Hy Lạp còn phổ biến kiểu vườn có xây dựng hang động, các giàn leo, tượng, mặt
nước dưới dạng vòi phun theo hình thức tượng. Bố cục vườn Hy Lạp theo xu hướng
cân xứng đều đặn nhưng rất tinh xảo về cách bài trí cảnh quan đẹp và có sức truyền
cảm về các hình tượng nghệ thuật.
Nghệ thuật vườn – công viên La Mã
Nghệ thuật vườn – công viên La mã chịu ảnh hưởng của vườn cổ Hy Lap
nhưng mang ý nghĩa thực dụng cao hơn, sử dụng nhiều loại cây ăn quả như ô liu,
táo, lê,… Bố cục thường có rào bằng cây cắt xén bao quanh, có chòi nghĩ có giàn
nho leo. Phát triển kiều “vườn trong” cổ Hy Lạp thành mô típ vườn sân trong có
trồng cây trang trí thấp và hoa; trung tâm vườn là bể trang trí có vòi phun. Về sau,
mô típ này được phổ biến rộng rãi trên các quảng trường thành phố và trở thành
phong cách chính của vườn trước công trình công cộng.
Thời kỳ La Mã trở thành nước đế quốc đi chinh phục Hy Lạp và các nước
khác, người La Mã đã mang về nước mình các bảo vật quý giá để trang trí cho
những lâu đài tráng lệ, nghệ thuật vườn lâu đài lúc này đặc biệt phát triển. Cơ cấu
vườn chia làm ba phần chính: phần vườn trang trí, phần rào, phần cây ăn quả.
Phần vườn trang trí chia làm ba khu vực:
Khu dạo, trực tiếp trước nhà: bố trí các đường thẳng trồng các cây cắt xén hai
tạo thành đường kín khoanh các vùng riêng trồng hoa. Khu dạo bố trí trên sân cao
có thể mở không gian về phía cảnh đẹp xa. Các vườn nhỏ như vậy được gọi là
Viridarium, dùng để tổ chức các tiệc trà ngoài trời.
Khu đi chơi bằng xe ngựa hay kiệu có người khiêng.
Khu công viên có thú rừng hay gia cầm, mang tính chất rừng chiếm tỉ lệ lớn.
Vườn La Mã rất phong phú về các loại cây trồng, có những tác phẩm lớn về
nghiên cứu lịch sử thiên nhiên, mô tả hàng nghìn loại cây trồng. Tuy vậy, khi đế
quốc La Mã bị sụp đổ thì vườn cũng bị mai một đi cho đến thời kỳ phục hưng nghệ
thuật vườn trang trí ở đây lại phát triển mạnh mẽ ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật
vườn – công viên trên thế giới. (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 1980).
7
Hình 1.5 Biệt thự Vettii, Pompeii (giữa thế kỷ I TCN)
(Lê Đàm Ngọc Tú, 2006)
1.1.2 Nghệ thuật vườn – công viên Việt Nam
Vườn cảnh Việt Nam thời phong kiến đã chịu ảnh hưởng bởi phong cách
vườn cảnh của Trung Quốc. Và từ nữa sau thế kỷ XIX đến nay thì các công viên lại
làm theo kiểu Pháp.
Theo Nguyễn Phi Hoanh viết trong “Nghệ thuật vườn hoa Việt Nam” thì
vườn hoa cổ điển của nước có các nguyên liệu như: nước, cây, đá,… Với các
nguyên liệu này, nghệ sĩ vườn hoa đã sáng tạo ra những cảnh lý tưởng cho con
người. Cảnh lý tưởng ấy phải có hòn giả sơn, có ao thanh hà, có cây cổ thụ, có
những lối đi khúc khuỷu như trong rừng lớn. Nó phải có đình, có tạ để khách nghỉ
chân, có những cầu qua dòng nước để khách dừng lại ngắm hoa sen hay là xem cá
lội.
Muốn cho người dạo chơi có cảm giác như đứng trước một cảnh thiên tạo,
người ta không xây đá ngay thẳng quanh bờ hồ hay bờ suối, mà thường để cho nó
nhô ra, lõm vào như thiên nhiên. Các khóm hoa mọc chen vào những khe đá hay ở
mé nước. Lối đi khi rộng khi hẹp, khi lên gò khi xuống dốc, khi đi quanh theo gốc
cổ thụ như một khu rừng núi ít có bàn tay người sửa đổi. Cũng có khi con đường
xuyên qua đám cây rậm rạp có vẻ huyền bí, lại cũng có khi nó dẫn đến một gian
phòng bằng cây lá cho người ngồi nghỉ chân trò truyện lúc trời oi bức.
Để tăng thêm vẻ tự nhiên cho cảnh vật, nghệ sĩ vườn hoa bao giờ cũng đắp
thành nhiều chổ lồi lõm, khấp khểnh trên mặt đất vườn hoa. Điểm kị nhất của vườn
hoa là mặt đất bằng phẳng. Người ta đào thêm hồ, khai dòng nước, lấy đất đắp
8
thành những ngọn đồi nhỏ để tránh cái đơn điệu của mặt bằng. Nói tóm lại, vườn
hoa Việt Nam là tác phẩm miêu tả chân thực theo một cảnh thiên nhiên thích thú.
Thật ra, vườn cảnh Việt Nam cũng đã có truyền thống lâu đời nhưng vì các lí
do khách quan cũng như chủ quan mà chúng tồn tại rất ít. Các lăng tẩm, vườn tĩnh
tâm hay giả viên ở Huế là những vườn cảnh điển hình còn sót lại (Nguyễn Hoàng
Huy, 1997).
Hình 1.6 Vườn lăng Tự Đức được kết hợp từ bố cục cân xứng và tự do – Toàn cảnh
(Lê Đàm Ngọc Tú, 2006)
Nghệ thuật cảnh quan Việt Nam với sự ảnh hưởng từ lâu của vườn cảnh
Trung Hoa, Pháp, Liên Xô theo các giai đoạn lịch sử của đất nước. Do đó, sự giao
lưu ảnh hưởng văn hóa nói chung và nghệ thuật cảnh quan nói riêng là điều không
thể tránh khỏi.
Cũng chính vì vậy mà hiện nay nghệ thuật cảnh quan của nước ta đang tồn
tại nhiều hình thức khác nhau:
Xu hướng vườn cây cắt xén hình học
Chịu ảnh hưởng của nghệ thuật cắt xén cây của phương Tây, nhưng người
Việt Nam khi áp dụng đã phát triển thêm loại hình cắt uốn cây theo các hình con vật
(rồng, chim, hươu,…) và hiện nay vẫn còn áp dụng nhiều trong các công viên công
cộng, các mặt trước trụ sở với hình thức cây thể hiện chữ.
9
Hình 1.7 Cây cắt xén theo hình con vật
(Nguồn http://www.uttungbonsai.com/vn/Tin-Tuc-Su-Kien/Tin-Tuc-Bonsai/Vuong-QuocHoa-Kieng-Cai-Mon/)
Xu hướng cảnh quan phong cảnh đồng quê
Đây là một trào lưu nổi rộ hiện nay, đặc biệt là trong các khu resort, các khu
du lịch sinh thái, các quán ăn cũng như nhà ở trong đô thị. Những khu đất được quy
hoạch với mạng đường tự do với những mảng cỏ rộng trên đó bố trí các tiểu cảnh
mang các chủ đề về miền quê Việt Nam như bụi tre, cau, chuối, lu đất, thuyền hoa,
xe thồ, guồng quay nước Tây Nguyên,…Thật sự, đây là một phát triển tích cực
trong nghệ thuật cảnh quan theo tinh thần Việt trên cơ sở “công viên phong cảnh
đồng quê” thế kỷ XVIII.
Hình 1.8 Phong cảnh đồng quê trong thiết kế vườn hiện đại
(Nhà hàng Cửu Long, TP. Cần Thơ)
10
Xu hướng cảnh quan kết hợp kỹ thuật
Là hình thức các chậu cây được xếp trên các khung sườn sắt hình chữ nhật,
kim tự tháp, hình cầu,… Đây là hình thức được áp dụng để trang trí đường phố
trong các ngày lễ hội, một số trục đường, trục chính đón tiếp của khu du lịch hay
vườn hoa trung tâm khu ở, đô thị,…mà cần thiết phô trương sự hào nhoáng bên
ngoài hoặc phục vụ cho nhu cầu trưng bày ngắn hạn (Lê Đàm Ngọc Tú, 2006).
1.2 CÁC VẤN ĐỀ CỦA MẢNG XANH.
1.2.1 Vai trò kiến trúc và cảnh quan
Thực vật sống và tăng trưởng, cây to và cây bụi phải được xem xét một
cách động về chức năng trong thiết kế kiến trúc. Vì cây xanh có những tiềm năng
về kiến trúc, chúng có thể được dùng như các thành phần kiến trúc một cách
riêng lẻ hay theo nhóm tập hợp để tạo ra các chức năng: giới hạn không gian, che
chắn tầm nhìn, kiểm soát riêng tư, sự hút tầm nhìn… (Chế Đình Lý, 1997).
Cây xanh có vai trò quan trọng trong phương diện kiến trúc và trang trí
cảnh quan. Trong thiết kế xây dựng, cây xanh là một thành phần không thể thiếu.
Sự kết hợp hình dáng, màu sắc, kết cấu lá, và kích thước cho phép sử dụng cây
xanh vào những mục đích kiến tạo công trình kiến trúc hài hòa với cảnh quan
chung quanh. Cây xanh còn tạo sự nối kết giữa các công trình kiến trúc với nhau,
che lấp những khuyết điểm của công trình kiến trúc tạo nên một tổng thể hài hoà.
Việc sử dụng sáng tạo cây xanh hoa kiểng và vận dụng các quy luật hợp lý sẽ
mang lại sự sống, vẻ đẹp thiên nhiên cho công trình (Hoàng Phú Cường, 2006).
Cây xanh độc lập có giá trí trang trí lối ra vào nhà, trước cửa, làm mềm mại
kiến trúc, làm phong phú hình thức mặt nhà hay làm trung tâm bố cục trong
sân trước nhà. Nó có thể là yếu tố hình khối chủ đạo trong bố cục phong cảnh sân
trong kiến trúc công trình (Hàn Tất Ngạn, 1999).
Nhóm cây: bao gồm một số cây được tổ hợp trong một bố cục trọn vẹn, các
nhóm cây có thể được tổ hợp từ nhiều loại cây khác nhau trên cơ sở một cây
làm chủ đạo, tạo thành một bố cục thống nhất với hình dáng và màu sắc đa
dạng, làm cho không gian thêm sinh động. Nhóm cây thường tham gia vào bố
cục kiến trúc công trình, tạo trung tâm của bố cục hoặc kết hợp với các hình thức
kiến trúc nhỏ… Ngoài ra nhóm cây còn có thể liên kết công trình với phong cảnh
xung quanh hoặc khép kín phối cảnh, chắn tầm nhìn.
Hàng cây có vị trí quan trọng trong phong cảnh đường, quảng trường, vườn
công trình. Hàng cây hai bên đường trục chính còn có tác dụng nhấn mạnh bố
cục trung tâm, hướng chú ý về trung tâm. Ở đây thường là cây thân gỗ, thẳng hòa
hợp với chi tiết kiến trúc dọc nhà (Hàn Tất Ngạn, 1999).
Cây xanh làm tường: thường gồm các bụi cây trồng dày, được cắt tỉa và có
độ cao từ 2,5m trở lên dùng để bao kín một không gian, chia cắt không gian
11
một cách tự nhiên, tạo điều kiện tổ chức các không gian đóng mở linh hoạt theo
các yêu cầu chức năng cụ thể. Ngoài ra tường cây xanh còn có thể làm nền cho các
loại hình kiến trúc nhỏ và tác phẩm nghệ thuật tạo hình.
Hàng rào cây xanh thường được cắt tỉa theo dạng hình học, được sử dụng
để trang trí hay phân chia không gian một cách ước lệ. Hàng rào cây xanh có thể
kết hợp tạo thành hình khối hài hòa với công trình, tạo khả năng chuyển tiếp các
công trình kiến trúc với thiên nhiên.
Mảng cây xanh là khu vực tập trung cây xanh trên một diện tích nhất định
theo nhiều hàng hoặc trồng tự do. Mảng cây xanh không chỉ có tác dụng điều
chỉnh bố cục công trình, che đi những không gian thiếu thẫm mỹ hoặc có tỷ lệ
không phù hợp với tỷ lệ chung
Giàn dây leo: trong cảnh quan kiến trúc giàn dây leo vừa có tác dụng
trang trí, vừa có tác dụng tạo bóng mát. Giàn dây leo thường tổ chức tại các khu
nghỉ hoặc các bãi đổ xe, có tác dụng che nắng và tạo nét mềm mại sinh động
trong không gian.
Giàn dây leo có thể đứng độc lập hay kết hợp với công trình: trường hợp
đứng độc lập, giàn cây có thể làm trung tâm bố cục các sân nghỉ trong vườn –
công viên hay trên quảng trường và nó còn có tác dụng tạo không gian nghỉ nhỏ,
thụ cảm phong cảnh ở khoảng cách gần. Còn khi kết hợp với kiến trúc công
trình, giàn cây được xem như một bộ phận cấu tạo nhà. Ở đây giàn cây làm yếu
tố trung gian hòa hợp kiến trúc khô cứng của công trình với thiên nhiên sống
động xung quanh. Giàn cây có thể bố trí trên mái, ban công hay ở lối ra vào.
Trường hợp giàn cây kết hợp cửa có tác dụng nhấn lối ra vào, thu hút sự chú ý về
phía cửa (Hàn Tất Ngạn, 1999).
Hoa: thường được tổ chức tại các không gian có yêu cầu thẫm mỹ cao, có
tác dụng hoàn chỉnh bố cục, nhấn mạnh trọng tâm, do đó thường được kết hợp
với các công trình kiến trúc nhỏ, tác phẩm nghệ thuật tạo hình hoặc làm điểm nhấn
chủ đạo cho không gian. Hàn Tất Ngạn (1999) khẳng định rằng bồn hoa có ý
nghĩa trang trí rất lớn trên đường – quảng trường hay trong vườn công viên, nhất
là vùng trung tâm. Bồn hoa có thể có hình dáng cân xứng đều đặn hay tự do và
được trồng một hay nhiều loại hoa. Bồn hoa cân xứng đều đặn, thường có hình
vuông, chữ nhật hoặc tròn, có thể là bức họa nhất định như hình ngôi sao biểu
tượng hòa bình… Ở đây hoa thường cùng một loài, gây ấn tượng mạnh về hình thể
mảng màu nhất định.
Dạng bố cục này thường gây cảm giác nghiêm trang, tĩnh lặng do đó
thường có trong bố cục vườn công trình hay ở quảng trường.
Cỏ là yếu tố trang trí và tạo vi khí hậu cần thiết trong kiến trúc cảnh quan.
Có hai dạng cỏ được sử dụng: cỏ trang trí và cỏ hoàn thiện bề mặt địa hình.
12
+ Cỏ trang trí: thường được sử dụng làm nền cho khóm cây, cây độc
lập, công trình kiến trúc lớn, nhỏ, hoa… có tác dụng hoàn chỉnh bố cục, liên
kết các hình khối và tạo chiều sâu cũng như sự phong phú về màu sắc trong không
gian. Do đó được sử dụng tại khu vực quảng trường, trước công trình kiến trúc
có yêu cầu thẫm mỹ cao và tại các không gian nghỉ.
+ Cỏ thường: được dùng để phủ các bề mặt địa hình các khu vực có yêu
cầu thẫm mỹ trung bình.
1.2.2 Cây xanh cải thiện khí hậu
Điều chỉnh nhiệt độ
Cây xanh làm giảm bức xạ nhiệt của mặt trời bằng sự hấp thụ trong quá
trình quang hợp, phản xạ và khuếch tán. Bức xạ nhiệt qua tàn cây chỉ còn lại từ 5 –
40%. Cây xanh có tác dụng làm tăng độ ẩm cho môi trường xung quanh. Trong
những giờ có nhiệt độ cao nhất trong ngày, nhiệt độ không khí dưới tán cây
xanh thấp hơn nhiệt độ ở chỗ không có cây từ 1 – 3 oC và độ ẩm lớn hơn 5 – 8%.
Cây xanh có vai trò rất lớn trong việc điều hòa khí hậu, giảm thiểu ô nhiễm môi
trường, cân bằng hệ sinh thái. Với chức năng đặc biệt của mình cây xanh có ý
nghĩa lớn trong việc cải thiện khí hậu: điều hòa nhiệt độ khi trời nắng, tạo bầu
không khí trong lành… (Hoàng Phú Cường, 2006 trích Hoàng Huy Thắng, 1998).
Ở những khu vực có cây xanh nhiệt độ giảm nhiều hơn so với khu vực
không có cây (giảm 2,5oC), khi các tia mặt trời chiếu vào lá cây, 70 – 75% năng
lượng mặt trời bị cây xanh hấp thụ, làm giảm cường độ bức xạ mặt trời từ 40
– 50%.
Ngoài ra nó còn có khả năng lọc và giữ bụi, một số loại cây còn có khả
năng tỏa ra môi trường chất phitonxit có tác dụng diệt khuẩn và ion hóa không
khí, có lợi cho sức khỏe của con người (Nguyễn Nam, 2003).
Cây to, cây bụi và cỏ điều hoà nhiệt độ trong môi trường đô thị nhờ vào
sự kiểm soát bức xạ mặt trời. Lá cây ngăn chặn phản chiếu, hấp thụ và truyền dẫn
bức xạ mặt trời. Hiệu quả của chúng tuỳ thuộc vào mật độ lá của loài cây, dạng lá,
mức vươn dài của cành và cách phân cành. Cây và các thực vật khác cũng giúp
điều hoà nhiệt độ không khí vào mùa hè thông qua sự hô hấp.
Bảo vệ gió và sự di chuyển không khí
Cây cao và thấp kiểm soát gió bằng cách cản trở, định hướng, làm
lệch hướng, và lọc gió. Hiệu quả và mức độ kiểm soát gió tuỳ thuộc vào kích thước
loài, hình dạng, mật độ lá, sự lưu giữ của lá và vị trí của cây xanh. Mức độ bảo
vệ gió bằng cây xanh còn tùy thuộc vào chiều cao, bề rộng, khả năng xuyên qua, sự
sắp đặt hàng cây và loài cây chắn gió. Cây lá kim với lá dày, thì tốt nhất đối với
hướng Bắc và hướng Tây nơi đòi hỏi bảo vệ đối với gió mùa Đông. Cây có lá
rộng thích hợp đối với phía Nam và Đông để chống lại gió nóng, khô trong mùa
13
hè (Chế Đình Lý, 1997).
Cây càng cao khoảng cách được bảo vệ càng nhiều. Tuy nhiên, khi cây
có chiều cao gia tăng, thân cây dưới thấp trở nên trống và gia tăng gió ở phần
dưới thấp. Ở đây bên cạnh những hàng cây cao, cần kết hợp với hàng cây bụi để
gia tăng hiệu quả chắn gió. Việc chọn loài cây là rất quan trọng trong hiệu quả chắn
gió (Chế Đình Lý, 1997 và Sở giao thông công chính TPHCM - Công ty công viên
cây xanh, 2006).
Cây xanh có thể tăng cường quá trình thông và cản gió. Việc trồng cây
theo hàng hai bên đường tạo thành các hành lang “gió” cho phép cải thiện
trường gió trong quần thể kiến trúc, dấn gió theo hướng có nhu cầu, cải thiện
khả năng lưu thông không khí tại một số không gian khuất gió (Nguyễn Nam,
2003).
Lượng mưa và ẩm độ
Cây xanh ngăn chặn luồng gió, làm thoát hơi nước, làm giảm bay hơi của
ẩm độ đất. Nhiệt độ dưới tán cây thấp hơn không khí ban ngày và ấm hơn vào ban
đêm. Cây xanh ngăn lượng mưa và làm chậm dòng chảy của nước trên mặt đất.
Điều đó sẽ tăng sự thẩm thấu tránh xói mòn và rữa trôi đất (Chế Đình Lý, 1997,
Nguyễn Phúc Nguyên, 2006 và Sở giao thông công chính TPHCM - Công ty công
viên cây xanh, 2006).
Các loại cây lá kim thường ngăn cản lượng mưa tốt hơn các loại cây lá
rộng. Lý do là cây lá kim có cấu trúc lá phân tán nước trên bề mặt nhiều hơn
(Chế Đình Lý, 1997).
1.2.3 Tác dụng cây xanh trong kỹ thuật lọc môi sinh
Hạn chế ô nhiễm không khí
Như chúng ta đã biết, thực vật sản xuất ra oxy trong quá trình quang
hợp. Người ta cho rừng cây xanh có vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu ô
nhiễm không khí thông qua quá trình tái tạo oxy (trả oxy vào khí quyển) và làm
giảm nồng độ ô nhiễm (trộn lẫn không khí ô nhiễm với không khí thật) (Chế Đình
Lý, 1997 và Sở giao thông công chính TPHCM - Công ty công viên cây xanh,
2006).
Theo Sở giao thông công chính TPHCM - Công ty công viên cây xanh,
2006 khi cây được trồng để giúp cho việc chống ô nhiễm không khí cần tuân thủ
hướng dẫn sau:
+ Cây nên trồng thẳng góc với hướng gió.
+ Các cây trồng thưa nên được kết hợp với quần thụ mật độ dày.
+ Trồng nên tập trung xung quanh vùng ô nhiễm.
14
Hạn chế tiếng ồn
Các sóng âm thanh được hấp thụ bởi lá cây, cành nhánh của cây xanh và
cây bụi vì các phần này của cây xanh thường nhẹ và linh động (Chế Đình Lý,
1997 và Sở giao thông công chính TPHCM - Công ty công viên cây xanh, 2006).
Hầu hết các cây hiệu quả trong việc hấp thụ âm thanh là các cây có lá
dày mọng nước, có cuống lá, nhưng các loài cây không có sự khác biệt lớn
trong tác dụng giảm âm. Âm thanh cũng bị đổi hướng và bởi các cành to và
thân cây. Nói chung, trồng đai cây cao, mật độ dày, bề rộng khoảng 30m sẽ có tác
dụng giảm âm hiệu quả (Chế Đình Lý, 1997).
Giảm sự chói sáng và chiếu sáng
Theo Chế Đình Lý (1997) cây xanh có thể dùng để che chắn và làm dịu bớt
ánh sáng sơ cấp và ánh sáng thứ cấp. Có thể kiểm soát ánh sáng ban đêm bằng
cách đặt đúng chỗ các cây, cây bụi chung quanh các sàn, sân, cửa sổ, hay dọc theo
đường phố để bảo vệ tầm nhìn cho lái xe.
Kiểm soát giao thông
Cây xanh giúp định hướng cho mọi người đi theo hướng đã định. Việc
kiểm soát giao thông không chỉ đối với giao thông cơ giới mà còn đối với khách
bộ hành (Chế Đình Lý, 1997 và Hoàng Phú Cường, 2006).
1.3 PHÂN LOẠI CÂY XANH
1.3.1 Phân loại theo mục đích sử dụng
Cây che bóng.
Cây phủ xanh.
Cây trang trí.
1.3.2 Phân loại theo công dụng
Che bóng mát
Làm tường che chắn tầm nhìn khi thiết kế các phòng sinh hoạt ngoài trời.
Sử dụng cây có hình dáng đặc biệt để nhấn mạnh cửa ra vào, hoặc trang trí tô
điểm trên nền cây che phủ.
Làm hàng rào ngăn cản sự đi lại, có xén tỉa hoặc trồng tự do.
Che phủ nền cho hoa viên.
Sử dụng cho cây leo lên các giàn.
1.3.3 Phân loại theo kích thước trưởng thành
Cây đại mộc (cao trên 20-25 m)
Cây trung mộc (10 – 20 m)
Cây tiểu mộc (dưới 10 m) (Chế Đình Lý, 1997).
15
- Xem thêm -