Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thiên nhiên trong truyện tây bắc của nhà văn tô hoài...

Tài liệu Thiên nhiên trong truyện tây bắc của nhà văn tô hoài

.PDF
52
500
104

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC LÊ THỊ NHUNG THIÊN NHIÊN TRONG TRUYỆN TÂY BẮC CỦA NHÀ VĂN TÔ HOÀI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƠN LA, NĂM 2014 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC LÊ THỊ NHUNG THIÊN NHIÊN TRONG TRUYỆN TÂY BẮC CỦA NHÀ VĂN TÔ HOÀI Chuyên ngành: Lí luận văn học KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Giảng viên hƣớng dẫn: ThS. Phạm Thị Phƣơng Huyền SƠN LA, NĂM 2014 LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới cô giáo, Thạc sĩ Phạm Thị Phƣơng Huyền, người đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Đồng thời em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Ngữ văn, các cô chú cán bộ Thư viện trường Đại học Tây Bắc, tập thể lớp K51 ĐHSP Ngữ Văn đã tạo điều kiện giúp đỡ và động viên em trong quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Sơn La, tháng 5 năm 2014 Ngƣời viết Lê Thị Nhung MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................. 1 2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................ 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................... 5 4. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................... 5 5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 5 6. Đóng góp của khóa luận ................................................................................. 6 7. Cấu trúc của khóa luận ................................................................................... 6 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ..................................................... 7 1.1. Tác phẩm văn học và đề tài của tác phẩm văn học ....................................... 7 1.1.1. Tác phẩm văn học..................................................................................... 7 1.1.1.1. Khái niệm .............................................................................................. 7 1.1.1.2. Mối quan hệ của tác phẩm văn học........................................................ 8 1.1.1.3. Nội dung và hình thức của tác phẩm văn học ........................................ 9 1.1.2. Đề tài của tác phẩm văn học .................................................................. 11 1.2. Tô Hoài và tác phẩm Truyện Tây Bắc........................................................ 13 1.2.1. Tô Hoài – “một trong những đời văn đẹp của văn học Việt Nam đương đại ” [9, 208] .................................................................................................... 13 1.2.1.1. Cuộc đời .............................................................................................. 13 1.2.1.2. Sự nghiệp văn chương ......................................................................... 14 1.2.2. Truyện Tây Bắc ...................................................................................... 17 1.2.2.1. Xuất xứ ............................................................................................... 17 1.2.2.2. Giá trị của tác phẩm ............................................................................ 17 Tiểu kết ............................................................................................................ 20 CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM THIÊN NHIÊN TRONG TRUYỆN TÂY BẮC CỦA TÔ HOÀI............................................................................................... 21 2.1. Thiên nhiên vừa mang vẻ hoang sơ, bí ẩn vừa thơ mộng, trữ tình .............. 21 2.1.1. Thiên nhiên mang vẻ hoang sơ, bí ẩn...................................................... 21 2.1.2. Thiên nhiên mang vẻ thơ mộng, trữ tình ................................................. 24 2.2. Thiên nhiên gắn với cuộc sống sinh hoạt, đậm sắc thái dân tộc ................. 27 Tiểu kết ............................................................................................................ 30 CHƢƠNG 3: NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ THIÊN NHIÊN TRONG TRUYỆN TÂY BẮC CỦA TÔ HOÀI ........................................................................................ 32 3.1. Thiên nhiên Tây Bắc được miêu tả qua những hình ảnh độc đáo ............... 32 3.2. Thiên nhiên Tây Bắc được gợi lên từ những âm thanh riêng biệt ............... 36 3.3. Thiên nhiên Tây Bắc được miêu tả bằng những màu sắc nổi bật và mùi vị đặc trưng .......................................................................................................... 39 Tiểu kết ............................................................................................................ 42 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 43 TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 46 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Tô Hoài là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Với tám mươi lăm năm tuổi đời, sáu mươi tư năm tuổi nghề, ông đã có hơn một trăm sáu mươi đầu sách được xuất bản, đây là điều mà ít nhà văn Việt Nam hiện đại đạt được. Tác giả Phong Lê nhận xét: “Nếu đóng góp của một nhà văn vào nền văn học dân tộc vào đời sống tinh thần của cộng đồng là ở phong cách,khối lượng và số lượng của tác phẩm, thì có thể nói: Tô Hoài là một trong những đời văn đẹp của văn học Việt Nam đương đại” [9, 208]. Tác giả Vương Trí Nhàn trong Tô Hoài tác gia và tác phẩm cũng nhận định: “Đời văn của Tô Hoài gợi ra hình ảnh một dòng sông miên man chảy và mang trong mình cả cuộc sống bất tận” [9, 208]. Tô Hoài là một trong những tác gia lớn có đóng góp quan trọng vào nền văn học dân tộc với nhiều tác phẩm tiêu biểu đạt cả giá trị nội dung và hình thức. 1.2. Sau Cách mạng tháng 8 - 1945, đặc biệt từ sau kết quả thực tế mà Tô Hoài đi khắp các chiến trường Tây Bắc, ngòi bút của ông hướng đến đồng bào dân tộc nơi đây và những sáng tác xuất sắc về đề tài miền núi ra đời: Núi cứu quốc (1948), Du kích huyện (1948), Ngược sông Thao (1949), Truyện Tây Bắc (1953), Miền Tây (1964)… Trong đó tập Truyện Tây Bắc đã đạt giải nhất - giải thưởng của Hội văn nghệ Việt Nam (1954 - 1955). Đây là một tập truyện xuất sắc trong văn xuôi kháng chiến, đánh dấu bước phát triển mới của Tô Hoài về cả hai mặt tư tưởng và nghệ thuật. 1.3. Tô Hoài là một trong những nhà văn viết về miền núi với một phong cách sáng tạo độc đáo, đặc biệt là nghệ thuật sử dụng ngôn từ, nghệ thuật tả cảnh, phong tục tập quán, nghệ thuật miêu tả nhân vật, và nghệ thuật trần thuật. Trong đó, những trang viết miêu tả về thiên nhiên, phong tục tập quán của miền núi Tây Bắc là những trang viết thành công nhất. Có được điều này là nhờ sự am hiểu sâu sắc, gần gũi với đời sống nhân dân đồng bào dân tộc và đặc biệt là nhãn quan sắc sảo, nhạy bén của ông về thiên nhiên và con người nơi đây. Với cái nhìn chân thực, ông đã hướng ngòi bút của mình vào tái hiện những đặc điểm của thiên nhiên và hiện thực cuộc sống. Tô Hoài đã thực sự tìm được cho mình một lối viết rất riêng. 1 1.4. Xuất phát từ thực tế giảng dạy các tác phẩm văn học của Tô Hoài trong nhà trường phổ thông, khi nghiên cứu, tìm hiểu đề tài: “Thiên nhiên trong Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài” chúng tôi mong muốn được khám phá, tìm hiểu cụ thể về đề tài miền núi nói chung và đề tài thiên nhiên nói riêng trong sáng tác của ông, đặc biệt là qua tập Truyện Tây Bắc nhằm giúp cho người giảng dạy cũng như người học có thể tham khảo, nghiên cứu và hiểu hơn về phong cách của nhà văn. Đồng thời bổ sung một cái nhìn toàn diện hơn về giá trị của các sáng tác viết về đề tài Tây Bắc của Tô Hoài. 2. Lịch sử vấn đề Tô Hoài bắt đầu sáng tác từ khi còn rất trẻ (hai mươi tuổi). Hơn nữa “vừa vào nghề sớm, vừa kéo dài tuổi nghề, một sự kéo dài đàng hoàng chứ không phải lê lết trong tẻ nhạt” (Vương Trí Nhàn). Ông là một nhà văn có sức viết mạnh, dồi dào “viết bất cứ đâu và viết không ngừng nghỉ” (Đoàn Văn Bổng). Trong hơn sáu mươi năm cầm bút, Tô Hoài đã có một số lượng tác phẩm văn chương đồ sộ. Bàn về giá trị văn chương của Tô Hoài xưa nay có rất nhiều ý kiến đánh giá, tuy nhiên chúng tôi chỉ xin trình bày vắn tắt một số ý kiến liên quan đến đề tài và nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Ngay sau khi tác phẩm ra đời đã có nhiều sự cổ vũ và đồng tình từ phía bạn đọc. Những công trình nghiên cứu về giá trị của tác phẩm tăng nhanh về số lượng và chất lượng. 2.1. Về giá trị tập Truyện Tây Bắc Về Tô Hoài và Truyện Tây Bắc đã có đến 90 bài viết của các tác giả nghiên cứu. Nhìn chung các tác giả đều thống nhất cho rằng: Truyện Tây Bắc là tác phẩm thành công, đánh dấu sự chuyển biến cả về tư tưởng, nghệ thuật và phong cách của Tô Hoài. Phong Lê và Vân Thanh là những người rất công phu khi tập hợp và giới thiệu cuốn sách Tô Hoài về tác gia và tác phẩm. Trong cuốn sách này hầu hết các tác giả nghiên cứu tập truyện đều chú ý đến Vợ chồng A Phủ và Mường Giơn với một số bài viết sau: Trong bài viết về Vợ chồng A Phủ, tác giả Đỗ Kim Hồi cho rằng: “Công đầu viết về Tây Bắc, đem đến cho người đọc những hiểu biết về miền đất còn xa lạ này thuộc về Tô Hoài và Truyện Tây Bắc là thành quả đẹp trong mùa thu hoạch đầu tiên của Tô Hoài trên quê hương văn học mới” [9, 258]. 2 Trong bài viết Sáng tác của Tô Hoài, tác giả Vân Thanh cho rằng: “Thành công của Truyện Tây Bắc còn là sự miêu tả những khung cảnh mang đậm màu sắc riêng của miền núi. Tô Hoài am hiểu sâu và kể lại khá thành công những chuyện sinh hoạt như tục lệ đi ở cuông, đi ở rể, chơi hang, tắm suối nước nóng, cưới vợ, hoặc những cảnh sinh hoạt vui chơi như chơi xuân ,đánh pao, thổi sáo, thổi kèn. Tất cả những khung cảnh sinh hoạt đó có tác dụng làm nền cho tính cách nhân vật và đem lại cho người đọc một cảm giác chân thật, tin cậy” [9, 73]. Ngoài ra tác giả cũng khẳng định “ Truyện Tây Bắc ra đời đánh dấu bước phát triển mới của Tô Hoài về cả hai mặt tư tưởng và nghệ thuật. Đây là một tập truyện xuất sắc trong văn xuôi kháng chiến” [9, 67]. Hoàng Trung Thông trong bài Tô Hoài và Truyện Tây Bắc (1957) khẳng định tác phẩm Mường Giơn đã “ đánh dấu một mốc mới trong sáng tác của Tô Hoài” , rằng: “Ngòi bút biểu hiện nghệ thuật của Tô Hoài đã vượt xa nhiều tác phẩm trước của anh” [9, 227]. “Tô Hoài viết Mường Giơn với con mắt của một nhà thơ. Phong cảnh và con người đẹp đẽ của Tây Bắc được ngòi bút của Tô Hoài vẽ nên với một sức rung động thơ” [9, 228]. Giáo sư Huỳnh Lý trong bài Truyện Tây Bắc của Tô Hoài nhận định: “Truyện Tây Bắc là kết tinh tình cảm nồng nàn của nhà văn Tô Hoài đối với con người và cuộc sống ở biên giới miền Tây Bắc đất nước, là kết tinh quá trình tích lũy sự hiểu biết của nhà văn về con người và cuộc sống ở đây trước cách mạng và khi tiếp xúc với cách mạng mà trước kia có thể nói là chưa ai mô tả” [9, 230]. Tác giả Mã Giang Lân trong bài viết của mình có nhận định: “Truyện Tây Bắc vừa là một bản cáo trạng chất chứa căm hờn tố cáo thực dân phong kiến miền núi, vừa là bản tình ca, ca ngợi cảnh đẹp, tập quán hay tinh thần cách mạng, quan hệ giữa người với người, giữa quần chúng và cán bộ ở Tây Bắc ... Và tất cả những điều đó đều được thể hiện bằng một bút pháp trữ tình giàu chất thơ” [ 9, 102]. 2.2. Về nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Truyện Tây Bắc Trong bài viết Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, tác giả Nguyễn Văn Long nhận định: “Chất thơ thấm đượm trong những bức tranh thiên nhiên giàu màu sắc tươi sáng và đường nét uyển chuyển và hùng vĩ của Tây Bắc làm nền cho những sinh hoạt giàu chất trữ tình của con người” [9, 256]. 3 Trong bài viết Vợ chồng A Phủ của tác giả Nguyễn Quang Trung, ông cho rằng: “Tô Hoài quả là sành tả thiên nhiên. Nhà văn chỉ chấm phá vài nét mà làm hiện lên một đoạn văn đầy màu sắc hội họa, như một mảnh hồn không thể thiếu của núi rừng Tây Bắc” [9, 275]. Giáo sư Huỳnh Lý có một cái nhìn khá toàn diện về Truyện Tây Bắc, không chỉ đề cập đến chủ đề, nội dung tác phẩm,còn có những đánh giá sắc sảo về nghệ thuật: “Khi miêu tả một cảnh đẹp, một cuộc vui, một không khí gia đình đầm ấm, ông không ngại nói nhiều, ông đưa rất đúng lúc màu sắc, hình ảnh và nhạc điệu vào khiến cho đoạn văn vừa như một khúc nhạc, một bức tranh, một bài thơ” [9, 241]. Tác giả Phan Cự Đệ trong bài viết Tô Hoài - nhà văn Việt Nam hiện đại đã có sự so sánh, đánh giá về đặc điểm phong cách nghệ thuật của Tô Hoài như sau: “…. bao giờ cũng cố gắng gắn liền bút pháp hiện thực với màu sắc lãng mạn trữ tình thơ mộng. Ở một cây bút hiện thực nghiêm ngặt như Ngô Tất Tố, cái thiên nhiên miền núi có thể chỉ hằn lên những đường nét dữ dội: đàn ngựa kéo dài qua những quãng kẹt núi dựng, tiếng gió gào quẩn trên đầu sóng cỏ tranh, chốc lại xô lên lấp cả người cả ngựa. Bóng tối trĩu nặng từng quãng nhanh và dữ dội… Dưới con mắt của Tô Hoài, thiên nhiên Tây Bắc vừa dữ dội, lại vừa thơ mộng… ” [9, 86]. Giáo sư Hà Minh Đức trong bài viết Lời giới thiệu tuyển tập Tô Hoài nhận định: “Tô Hoài giỏi miêu tả thiên nhiên. Thiên nhiên trong tác phẩm của ông gồm nhiều màu vẻ từ những cảnh thơ mộng gợi cảm đến một thiên nhiên khắc nghiệt hung dữ. Tô Hoài miêu tả thiên nhiên theo một cách nhìn ngắm tự nhiên, nhẹ nhàng. Không có những dấu vết ngăn cách khung cảnh thiên nhiên và bức tranh xã hội. Từ tả người đến tả cảnh, từ xã hội đến thiên nhiên, văn mạch của ông vận động tự nhiên và biện chứng… Trong tác phẩm của ông thiên nhiên luôn có mặt và dường như là một nhân vật có cuộc sống, có tâm hồn. Khi miêu tả thiên nhiên cũng là lúc điệu văn của Tô Hoài đậm màu sắc trữ tình và giàu chất thơ” [9, 138]. Nhận xét về phong cách nghệ thuật của Tô Hoài, Trần Hữu Tá cho rằng: “Tô Hoài có khả năng quan sát tinh tế và nghệ thuật miêu tả linh động. Người, vật, thiên nhiên, cảnh sinh hoạt… tất cả đều hiện lung linh, sống động, nổi rõ cái thần của đối tượng và thường bàng bạc một chất thơ” [9, 158]. 4 Những công trình nghiên cứu nói trên là những gợi ý quý giá giúp chúng tôi có thêm tư liệu và sự định hướng quan trọng trong quá trình nghiên cứu đề tài này. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Khóa luận không đi sâu nghiên cứu vào tất cả những vấn đề của tác phẩm, mà chỉ chú trọng đến đặc điểm và nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi Tây Bắc. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu của khóa luận là: đặc điểm thiên nhiên miền núi Tây Bắc, nghệ thuật miêu tả thiên nhiên và một số vần đề lí luận liên quan đến nội dung và hình thức của tác phẩm văn học. - Phạm vi khảo sát: Truyện Tây Bắc (1969) của Tô Hoài, NXB Văn học, Hà Nội. 4. Mục đích nghiên cứu Khóa luận nhằm làm rõ những đặc điểm về thiên nhiên Tây Bắc cũng như nghệ thuật miêu tả đặc sắc của Tô Hoài, góp phần đưa ra sự đánh giá khách quan về những đóng góp của Tô Hoài về đề tài miền núi nói chung và phong cách nghệ thuật của ông nói riêng trong văn xuôi hiện đại Việt Nam. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Các phương pháp chủ yếu mà chúng tôi tiến hành khi làm khóa luận này: 5.1. Phƣơng pháp khảo sát tác phẩm Tác phẩm là căn cứ chính để tiến hành nghiên cứu, vì thế chúng tôi phải đọc kĩ tác phẩm Truyện Tây Bắc. 5.2. Phƣơng pháp thống kê, phân loại Sau khi khảo sát tác phẩm, chúng tôi tiến hành thống kê và phân loại các đặc điểm của thiên nhiên trong tác phẩm, sau đó tìm ra đặc sắc về nghệ thuật miêu tả thiên nhiên mà tác giả đã thể hiện trong sáng tác này. 5.3. Phƣơng pháp lịch sử so sánh Sử dụng phương pháp này để so sánh các tác phẩm viết về đề tài miền núi trong sáng tác của Tô Hoài. Đồng thời so sánh với các tác phẩm của các nhà văn 5 khác cùng viết về đề tài này. Từ đó đối chiếu, so sánh để thấy được vị trí riêng của Tô Hoài trong nền văn học Việt Nam hiện đại. 5.4. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp Tiến hành phân tích cụ thể các đặc điểm của thiên nhiên miền núi ở nhiều khía cạnh khác nhau. Sau đó khái quát lên đặc điểm của thiên nhiên và nghệ thuật miêu tả thiên nhiên. Đồng thời hiểu thêm về phong cách nghệ thuật của Tô Hoài. 6. Đóng góp của khóa luận Tiến hành thực hiện khóa luận này chúng tôi mong muốn góp thêm một cái nhìn khái quát về đặc điểm và nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi qua tập Truyện Tây Bắc. Khóa luận hoàn thành có thể là một tài liệu tham khảo cho sinh viên khoa Ngữ Văn học tập và nghiên cứu về Tô Hoài. 7. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, thư mục, tài liệu tham khảo, nội dung chính của khóa luận được triển khai ở 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung Chương 2: Đặc điểm thiên nhiên trong Truyện Tây Bắc Chương 3: Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Truyện Tây Bắc 6 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Tác phẩm văn học và đề tài của tác phẩm văn học 1.1.1. Tác phẩm văn học 1.1.1.1. Khái niệm Trong lịch sử nghiên cứu văn học, tồn tại nhiều khái niệm khác nhau về tác phẩm văn học. Tác phẩm văn học là công trình nghệ thuật ngôn từ do một cá nhân hoặc tập thể sáng tạo ra nhằm thể hiện những khái quát về cuộc sống con người, biểu hiện tâm tư, tình cảm, thái độ của chủ thể thẩm mỹ trước thực tại bằng hình tượng nghệ thuật. Hiểu theo cách khác, tác phẩm văn học là “đơn vị sáng tạo của nhà văn, là đối tượng tiếp nhận của bạn đọc, là chỉnh thể trung tâm của hoạt động văn học” [10, 241]. Hiện thực cuộc sống khách quan qua quá trình tư duy nghệ thuật của tác giả, biến những biểu tượng, ý nghĩ, cảm xúc bên trong của nhà văn thành một sự thực văn hóa xã hội gửi gắm trong tác phẩm để bạn đọc suy ngẫm. Tác phẩm văn học bao giờ cũng là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Sự nghiệp văn học của một người hay một dân tộc, một giai đoạn lịch sử bao giờ cũng lấy tác phẩm làm cơ sở. Vì thế tác phẩm văn học là tấm gương khách quan về tầm vóc, tiếng nói nghệ thuật, chiều sâu phản ánh, trình độ nghệ thuật, tài năng sáng tạo của nhà văn. Tác phẩm văn học có thể tồn tại dưới phương diện là ngôn bản truyền miệng hoặc hình thức văn bản được ghi lại bằng văn tự cụ thể; có thể được tạo thành bằng văn vần (thơ) hoặc văn xuôi; và được xếp vào các thể loại nhất định như: tự sự, trữ tình, kịch, nhật kí, kí, tùy bút, hay một thể tài văn học nhất định như: hài kịch, bi kịch, thơ trào phúng, thơ tự do, truyện tiếu lâm, truyện ngắn, tiểu thuyết, sử thi... Chẳng hạn, sử thi Mahabharata của văn học Ấn Độ bao gồm hơn 74.000 câu thơ và những đoạn văn xuôi dài, tổng cộng khoảng 1,8 triệu từ và là cuốn thiên sử thi dài nhất trên thế giới, tồn tại ở dạng văn bản cụ thể. Nhưng có những câu ngắn cũng được coi là một tác phẩm văn học, ví dụ như tục ngữ, thành ngữ tồn tại theo hình thức truyền miệng. Mỗi tác phẩm là một hệ thống phức tạp bao gồm hàng loạt các yếu tố thuộc những bình diện khác nhau như đề tài, chủ đề, tư tưởng, kết cấu, ngôn ngữ, nhân vật, hình tượng và cốt truyện. Sự kết hợp và tác động lẫn nhau giữa các yếu tố này khiến tác phẩm trở thành một chỉnh thể nghệ thuật, mang tính thống nhất hữu cơ giữa nội dung thẩm mĩ và hình thức nghệ thuật. 7 1.1.1.2. Mối quan hệ của tác phẩm văn học Tác phẩm văn học khi đặt trong mối quan hệ với hiện thực phản ánh, nhà văn và thời đại sẽ giữ vai trò và chức năng riêng. Trong quan hệ với hiện thực mà nó phản ánh, tác phẩm là nơi lưu giữ những hình ảnh, phản ánh những quy luật của cuộc sống. Chẳng hạn, Truyện Tây Bắc của Tô Hoài phản ánh công cuộc đấu tranh giai cấp của nhân dân các dân tộc miền núi chống chế độ áp bức của phong kiến, thực dân, đồng thời ca ngợi cách mạng đã giải phóng cho nhân dân Tây Bắc thoát khỏi cuộc đời tối tăm, ca ngợi những con người miền núi, nhất là lớp thanh niên đã vùng dậy làm chủ cuộc sống của mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc ( HMông, Dao, Thái). Trong quan hệ với nhà văn, tác phẩm là nơi khẳng định vị trí, tài năng, tầm ảnh hưởng; là nơi cụ thể hóa những biểu tượng tri thức khách quan để bạn đọc có thể suy ngẫm. Những tác phẩm vĩ đại nhất của Ph.m.Đôxtôiépxki như: Tội ác và hình phạt, Chàng ngốc, Lũ người quỷ ám, Người chồng vĩnh cửu, Nhật kí nhà văn... đã khẳng định vị trí, tài năng và ảnh hưởng của của ông đối với văn học nhân loại. Ông không chỉ là “nhà văn vĩ đại của nước Nga thế kỉ XIX, mà còn là một trong những người khổng lồ của văn học thế giới. Sáng tác của Đôxtôiépxki không chỉ có ảnh hưởng rộng lớn đến nhiều thế hệ nhà văn kế tiếp của nhân loại, mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới tư tưởng và ý thức của con người trong xã hội hiện đại” [4, 44]. Đặt tác phẩm trong quan hệ với thời đại mà nó ra đời, tác phẩm sẽ góp phần khẳng định tầm vóc, quy mô, trình độ, ý thức nghệ thuật. Ở thời đại mà tác phẩm tồn tại (đời sống bạn đọc), nó trở thành một sinh mệnh độc lập, có thể lôi kéo một bộ phận này, có thể phân hóa một bộ phận khác. Nó có thể sống ngắn ngủi hơn hoặc lâu hơn đời một nhà văn. Nguyễn Du là nhà thơ nhân đạo tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX. Với tác phẩm Truyện Kiều ông đã có những đóng góp to lớn cho nền văn học dân tộc về nhiều phương diện nội dung và nghệ thuật. Truyện Kiều ra đời cách đây hơn 200 năm, tuổi đời của nó tồn tại lâu dài hơn tuổi đời của nhà thơ. Nó xứng đáng là “kiệt tác số một của văn học Việt Nam, di sản văn học của nhân loại, là một tập đại thành của truyền thống nghệ thuật, văn hóa Việt Nam…” [8, 200]. 8 1.1.1.3. Nội dung và hình thức của tác phẩm văn học Dưới góc độ triết học Mác - Lênin mọi sự vật và hiện tượng trong vũ trụ đều mang nội dung và hình thức. Nội dung là cái chứa đựng bên trong và hình thức là cái bao bọc bên ngoài. Tác phẩm văn học cũng không nằm ngoài quy luật đó, bởi vì nó gắn liền với bản chất, chức năng của văn học đối với đời sống, gắn với quy luật phát triển của văn học. Nó cũng gồm nội dung và hình thức. Nội dung quyết định hình thức. Hình thức là cái biểu hiện của nội dung. Nội dung tác phẩm văn học có cơ sở vững chắc từ mối quan hệ mật thiết giữa văn học và hiện thực. Nó bao hàm cả nhân tố khách quan của đời sống và nhân tố chủ quan của nhà văn, nó vừa là cuộc sống được ý thức, vừa là sự đánh giá - cảm xúc đối với cuộc sống đó. Vì vậy, người ta thường nói đến hai cấp độ của nội dung tác phẩm. Cấp độ thứ nhất là nội dung cụ thể (nội dung trực tiếp, nội dung phản ánh). Khái niệm này nhằm chỉ dung lượng trực cảm của tác phẩm. Ðó là sự thể hiện một cách sinh động và khách quan một phạm vi hiện thực cụ thể của đời sống với sự diễn biến của các sự kiện, sự thể hiện các hình ảnh, hình tượng, sự hoạt động và quan hệ giữa các nhân vật, suy nghĩ và cảm xúc của các nhân vật... Xuyên qua nội dung cụ thể của tác phẩm, ở một cấp độ cao hơn, sâu hơn là nội dung tư tưởng (nội dung khái quát, nội dung biểu hiện). Ðó chính là sự khái quát những gì đã trình bày trong nội dung cụ thể thành những vấn đề của đời sống và giải quyết những vấn đề ấy theo một khuynh hướng tư tưởng nhất định. Như vậy, có thể nói nội dung của tác phẩm là toàn bộ những hiện tượng thẩm mĩ độc đáo được phản ánh bằng hình tượng thông qua sự lựa chọn, đánh giá chủ quan của người nghệ sĩ, tức là tiếng nói riêng của nhà văn bao gồm những cảm xúc, tâm trạng, lí tưởng của tác giả về hiện thực đó. Nội dung tác phẩm văn học không đơn giản là hiện thực được miêu tả, hoặc ý nghĩ trừu tượng của nhà văn, mà là quan hệ chủ quan - khách quan được phản ánh trong tác phẩm. Đó là “cái nội dung toàn vẹn, phong phú, nhiều bình diện độc đáo của nghệ thuật đòi hỏi phải thể hiện qua hình thức nghệ thuật, chứ không thể thông báo được bằng lời” [ 10, 251]. Đi tìm hai mặt khách quan và chủ quan này chính là nội dung của tác phẩm. Hình thức tác phẩm văn học là một hệ thống các phương tiện và phương thức thể hiện nội dung. Nó được hợp thành bởi nhiều yếu tố: nghệ thuật sử dụng 9 các chất liệu, phương tiện nghệ thuật, các qui định của loại thể, những biện pháp kết cấu, cách xây dựng nhân vật, thể hiện hình tượng... Tất cả đều nhằm mục đích biểu hiện trực tiếp và sinh động nội dung của tác phẩm, tạo thành một dạng tồn tại nhất định của nội dung ấy, qua đó xây dựng tác phẩm thành một chỉnh thể nghệ thuật thống nhất. Hình thức của tác phẩm văn học mang tính cụ thể, thẩm mĩ, không lặp lại. Lấy thể lục bát mà nói, lục bát của Nguyễn Du, của ca dao, của Nguyễn Bính, của Tố Hữu đều không giống nhau. Lấy bài, thì lục bát trong các bài Bà bủ, Bầm ơi, Việt Bắc của Tố Hữu đều không giống nhau. Lục bát Bà bủ đầy vẻ dân dã, thô mộc; lục bát Việt Bắc đã được trau chuốt đến mức tuyệt đỉnh của sự hài hòa,vẻ hồn hậu của tiếng hát đồng quê. Hình thức của tác phẩm không chỉ có trong ngôn ngữ, kết cấu, cốt truyện mà có cả trong nhân vật. Khi nói đến nhân vật, người ta thường phân tích tính cách, các chi tiết, hành động biểu hiện tính cách đó. Nhưng nhân vật cũng có hình thức chi phối sự lựa chọn các chi tiết, hành động dùng để miêu tả nhân vật. Chẳng hạn hình thức nhân vật truyện cổ tích khác hình thức nhân vật văn học viết. Hình thức nhân vật tự sự, thơ, kịch đều không giống nhau. Nội dung và hình thức vốn là một phạm trù triết học có liên quan đến mọi hiện tượng trong đời sống. Hình thức tất yếu phải là hình thức của một nội dung nhất định và nội dung bao giờ cũng là nội dung được thể hiện qua một hình thức. Không thể có cái này mà không có cái kia hoặc ngược lại. Tác phẩm nghệ thuật là một hiện tượng xã hội, cho nên trong những tác phẩm nghệ thuật có giá trị, nội dung và hình thức luôn luôn thống nhất khăng khít với nhau. Nói về một tác phẩm có giá trị, Biêlinxki cho rằng: Trong tác phẩm nghệ thuật, “tư tưởng và hình thức phải hòa hợp với nhau một cách hữu cơ như tâm hồn và thể xác, nếu hủy diệt hình thức thì cũng có nghĩa là hủy diệt tư tưởng và ngược lại cũng vậy” [10, 251]. Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức được biểu hiên ở hai mặt: nội dung quyết định hình thức và hình thức phù hợp nội dung. Trong mối tương quan giữa nội dung và hình thức, nội dung bao giờ cũng đóng vai trò chủ đạo. Nó là cái có trước, thông qua ý thức năng động và tích cực của chủ quan nghệ sĩ, cố gắng tìm một hình thức phù hợp nhất để bộc lộ một cách đầy đủ, hấp dẫn nhất bản chất của nó. Với bài thơ Tiếng thu, Lưu Trọng Lư đã chia bài thơ làm 10 ba khổ. Cái đặc biệt của bài thơ đó là nó được tổ chức bằng ba câu hỏi, được đặt bằng phủ định từ “không”: “Em không nghe mùa thu Dưới trăng mờ thổn thức? Em không nghe rạo rực Hình ảnh người chinh phu Trong lòng người cô phụ. Em không nghe rừng thu Lá thu kêu xào xạc Con nai vàng ngơ ngác Đạp trên lá vàng khô.”[ 2, 27 ]. Với cách tổ chức hình thức bài thơ về mặt từ ngữ như vậy đã giúp nhà thơ biểu đạt được nội dung một cách thầm kín. Tiếng thu không chỉ là tiếng buồn, tiếng rạo rực trong lòng người cô phụ mà còn là tiếng lòng đồng cảm của nhà thơ. Trên thực tế không dễ dàng các nhà văn thống nhất nội dung và hình thức. Tuy nhiên trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung vẫn là cái quyết định. Điều này được thể hiện ở chỗ nội dung là chủ đề được nhận thức, từ đó nó gợi ra những hình thức phù hợp. 1.1.2. Đề tài của tác phẩm văn học Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Đề tài là khái niệm chỉ loại các hiện tượng đời sống được miêu tả phản ánh trực tiếp trong sáng tác văn học. Đề tài là phương diện khách quan của nội dung tác phẩm” [2, 110]. Đề tài bao giờ cũng có giới hạn. Đó có thể là một giới hạn bề ngoài như đề tài loài vật, đề tài sản xuất, đề tài cải cách ruộng đất, đề tài kháng chiến chống Mĩ, đề tài tiểu tư sản… Ở giới hạn bề ngoài của đề tài, các phạm trù xã hội, lịch sử đóng vai trò rất quan trọng. Ở phương diện bên trong, người ta quan tâm đến cuộc sống nào, con người nào được miêu tả trong tác phẩm. Chẳng hạn, Tắt đèn thể hiện cuộc sống bế tắc tan vỡ của người nông dân trước Cách mạng tháng 11 Tám. Sống mòn của Nam Cao thể hiện cuộc sống quẫn bách mòn mỏi của tầng lớp trí thức nghèo. Truyện Tây Bắc của Tô Hoài viết về đề tài miền núi trong sự đổi thay sau Cách mạng tháng Tám. Ðề tài gắn bó chặt chẽ với đối tượng nhưng không thể đồng nhất hai khái niệm này. Ðối tượng là một phần của khách thể mà con người có thể chiếm lĩnh, phù hợp với một nhu cầu, một năng lực nhất định nhưng là cái nằm bên ngoài tác phẩm, chưa được chủ thể nhận thức còn đề tài là đối tượng đã thông qua sự lựa chọn và miêu tả, thể hiện trong tác phẩm của nhà văn. Nói cách khác, đối tượng là cơ sở của đề tài, là sự khái quát những phạm vi xã hội, lịch sử trong tác phẩm. Trong tác phẩm văn học, thường không phải chỉ có một đề tài mà có rất nhiều đề tài liên quan nhau, bổ sung cho nhau để tạo thành một hệ thống đề tài. Pospelôp cho rằng: “Hệ đề tài là toàn bộ đề tài của tác phẩm hoặc sáng tác”. Chẳng hạn, Truyện Kiều của Nguyễn Du vừa có đề tài về tình yêu đôi lứa, vợ chồng, hoạt động nhà chứa, có đời sống quý tộc, có sự nổi loạn chống lại triều đình, có việc quan lại xử oan, có đề tài báo ân, báo oán… Các đề tài đó gắn bó chặt chẽ và xoay quanh đề tài về cuộc đời bi thảm của người tài hoa, người phụ nữ như nàng Kiều. Trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, bên cạnh đề tài về cuộc đời bi thảm của người nông dân còn có các đề tài khác. Với Nghị Quế, tác phẩm mở ra mảng đề tài quan nghị, một sản phẩm lố bịch của xã hội thực dân thuộc địa; với lí trưởng, chánh tổng, tuần đinh, lính lệ, tác phẩm mở ra mảng đề tài bộ máy cai trị địa phương của bọn quan lại tham lam, ích kỉ, tàn bạo; những đứa con của chị Dậu tác phẩm mở ra đề tài về cuộc đời của các em bé nghèo khổ... Như vậy, khi nói đến đề tài của một tác phẩm hoặc của văn học nói chung, thực chất không phải chỉ nói một đề tài mà là cả một hệ thống đề tài. Ðề tài của tác phẩm thường gắn chặt với hiện thực cuộc sống của thời đại mà nhà văn đang sống, vì vậy nó mang tính lịch sử xã hội sâu sắc. Tìm hiểu quá trình phát triển của lịch sử văn học, có thể nhận thấy trong mỗi thời kì lịch sử khác nhau, thường nổi lên những loại đề tài trung tâm khác nhau. Trong giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX, đề tài về số phận của người phụ nữ chiếm một vị trí đáng kể trong trào lưu văn học nhân đạo chủ nghĩa Việt Nam. Trong giai đoạn từ 1945-1975, đề tài về người chiến sĩ cách mạng, về những người công nhân tiên tiến lại nổi lên hàng đầu. Có những đề tài dường như thường được lặp đi lặp lại trong văn học ở mọi nơi và mọi thời đại. Chẳng hạn, đề tài về tình yêu và hạnh phúc, chiến tranh và hòa bình, sự sống và cái 12 chết... Có người cho rằng đấy là những đề tài vĩnh cửu của văn học. Thật ra, đó chỉ là một cách nói. Bởi vì, ngay chính một nhà văn khi viết về một phạm vi cuộc sống thì đề tài của tác phẩm cũng đã là một cái gì mới mẻ, không lặp lại. Bên cạnh đó đề tài còn mang tính khách quan tương đối. Ðề tài có tính khách quan vì bản thân nó chưa thể hiện tính tư tưởng. Những nhà văn có lập trường tư tưởng khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau vẫn có thể cùng viết một đề tài. Chẳng hạn cùng viết về đề tài tiểu tư sản, nhưng tác phẩm của Đỗ Đức Thu thiên về phơi bày sự tầm thường của lối sống viên chức, còn Nam Cao xoáy vào những cảnh đời xám xịt của lớp trí thức nghèo, sống dở, chết dở. Tính khách quan của đề tài cũng chỉ mang tính tương đối vì xét đến cùng, đề tài ít nhiều cũng gắn bó với thế giới tinh thần của nhà văn. Sự quan tâm và hứng thú của nhà văn đối với một loại đề tài nhất định nào đó nhiều khi cũng xuất phát từ chỗ đứng, quan điểm tư tưởng, thậm chí từ khuynh hướng chính trị của nhà văn đó. Đề tài luôn gắn với hiện thực khách quan và cũng chịu sự chi phối của tư tưởng tác giả, cho nên tính khách quan là chủ yếu nhưng trong đó cũng có một phần chủ quan. Đề tài là cơ sở để nhà văn khái quát những chủ đề và xây dựng những hình tượng, những tính cách điển hình. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp đề tài , chủ đề hòa quyện với nhau không tách được, như một số tác phẩm ngụ ngôn, truyện đồng thoại, một số thơ trữ tình… Người tiếp nhận có thể đi thẳng từ đề tài bên ngoài vào chủ đề, tư tưởng tác phẩm. 1.2. Tô Hoài và tác phẩm Truyện Tây Bắc 1.2.1. Tô Hoài – “một trong những đời văn đẹp của văn học Việt Nam đương đại ” [9, 208] 1.2.1.1. Cuộc đời Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 27/9/1920. Nguyên quán là làng Kim An, huyện Thanh Oai, thuộc Hà Tây. Tô Hoài sinh ra và lớn lên ở quê ngoại - làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông cũ, nay là phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Ở Nghĩa Đô, có sông Tô Lịch chảy ngang phủ Hoài Đức nên ông chọn bút danh gắn với hai địa danh này. Khi viết báo, ông còn một số bút danh như Mắt Biển, Mai Trang, Duy Phương, Hồng Hoa. Trước cách mạng tháng Tám, thời kỳ Mặt Trận Dân Chủ, Tô Hoài tham gia phong trào Ái Hữu Thợ Dệt, làm thư ký ban trị sự Hội Ái Hữu Thợ Dệt Hà Đông, rồi tham gia phong trào phản đế. Năm 1943 ông gia nhập Hội Văn hóa 13 Cứu quốc đầu tiên ở Hà Nội. Sau Cách mạng tháng Tám, tham gia phong trào Nam tiến, lên Việt Bắc làm báo Cứu quốc, chủ nhiệm báo Cứu quốc Việt Bắc, chủ bút Tạp chí Cứu quốc. Từ 1951 về công tác ở Hội văn nghệ Việt Nam. Sau khi hòa bình lập lại, trong Đại hội nhà văn lần thứ nhất - 1957, ông được bầu làm Tổng Thư ký của Hội. Từ 1958 - 1980 tiếp tục tham gia Ban Chấp hành, rồi làm Phó Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Từ 1966 - 1996, ông là Chủ tịch Hội văn nghệ Hà Nội. Tô Hoài còn tham gia nhiều công tác xã hội khác: Đại biểu Quốc hội khóa VII, Phó Chủ Tịch Uỷ Ban Đoàn Kết Á - Phi, Phó Chủ Tịch Hội Hữu Nghị Việt - Ấn, Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Hữu Nghị Việt - Xô. Tô Hoài không chỉ là một nhà văn có tài mà ông còn là một chiến sĩ cách mạng, một đảng viên gương mẫu có sức phấn đấu dẻo dai, bền bỉ, bám chắc vào cuộc sống, luôn có ý thức vươn lên không ngừng. Nếu nhìn vào tuổi thơ của Tô Hoài, chúng ta khó có thể tìm thấy một sự chuẩn bị hay một tiền đề nào đưa ông đến với sự nghiệp văn chương. Gia đình bên nội rất nghèo, ông lớn lên đi học ở quê ngoại, sau này được các dì, mợ dắt ra làm quen với phố xá Hà Nội. Cũng từ đó Tô Hoài được tiếp xúc với mấy quyển truyện nôm của các nhà in sách ở phố Hàng Gai, quyển Truyện Kiều truyền tay bạn bè hay mấy cuốn báo mà anh thợ cửi Nguyễn Sen mượn nhà ông lý trưởng làng quê đọc lúc nhàn rỗi… tất cả những sự được tạm gọi là chuẩn bị trên không đủ để đảm bảo chắc chắn rằng con người này đến với nghề cầm bút. Tuy nhiên sự chuẩn bị từ gia đình và xã hội đến với nghiệp văn là không đáng kể thì càng khẳng định cái năng khiếu to lớn của ông, khiến cho Tô Hoài chỉ trong nghề này mới tìm thấy sự thích thảng, thoải mái (Vương Trí Nhàn). 1.2.1.2. Sự nghiệp văn chương Sự nghiệp văn chương của Tô Hoài có thể chia làm ba giai đoạn lớn: Trước năm 1945: Ông chủ yêu sáng tác truyện ngắn. Trong số những sáng tác đầu tiên Tô Hoài gửi báo Hà Nội tân văn được đăng là truyện ngắn Nước lên, Bụi ôtô (8 -1940), Một đêm sáng trăng suông (9 -1940), Đàn bà (10 -1940), Tâm sự cô hàng xén (3-12-1940) , Ba bố con (17-12-1940)… Sau khi Hà Nội tân văn bị đóng cửa, Tô Hoài gặp được ông chủ báo Vũ Đình Long, sắp ra báo Truyền bá, chuyên cho đối tượng thiếu nhi. Vũ Đình Long yêu cầu Tô Hoài viết thử truyện Con dế mèn, câu chuyện nhận được sự ủng hộ của độc giả. Ngay sau 14 đó, Tô Hoài được đặt viết tiếp Dế mèn phưu lưu ký dài gấp đôi Con dế mèn, sau đó gộp hai tác phẩm thành Dế mèn phưu lưu ký in lần đầu 1941. Tô Hoài tiếp tục khẳng định tài năng của mình trong những truyện ngắn miêu tả thế giới loài vật. Thế giới ấy hiện lên qua cách nhìn của trẻ thơ như Mụ ngan, O chuột… Thế giới loài vật luôn là nội dung đặc sắc và độc đáo trong thế giới truyện của Tô Hoài. Thời kỳ này, bên cạnh những trang viết cho thiếu nhi, ông còn viết về một mảng đề tài khác: vùng quê Bưởi - ven đô. Một vùng quê đã có sự xâm nhập của lối sống thành thị nhưng vẫn còn xa cách biệt lập với thành thị. Qua những trang viết này thể hiện ông là người có tâm hồn gắn bó với quê nghèo, với những con người chân lấm tay bùn. Trước năm 1945, ngòi bút Tô Hoài có cùng lúc hai đối tượng phản ánh. Một bên là cuộc sống xung quanh mình - miền quê sát gần thành thị đã không còn mấy sự yên lành thơ mộng bởi túng đói, thất nghiệp, ly tán… và một bên là thế giới riêng - thế giới loài vật với những ước mơ , tưởng tượng và khát vọng. Hai mảng đề tài này hội tụ, thống nhất trong một thế giới nghệ thuật chung của Tô Hoài. Sau năm 1945: Cách mạng tháng Tám đã tạo ra một bước chuyển biến trong tư tưởng và sáng tác của Tô Hoài. So với nhiều nhà văn hiện thực khác Tô Hoài là một trong số ít những nhà văn không phải trăn trở, ngập ngừng trước trang giấy. Ông đã có thể kịp thời bám sát các vấn đề mới của đời sống và viết thành công nhiều tác phẩm, góp phần vào bước chuyển chung của văn xuôi sau cách mạng. Ở thời kỳ này, sức sáng tạo nghệ thuật của ông tăng tiến cả về số lượng lẫn chất lượng. Đánh dấu sự đổi mới trong sáng tác của ông ở giai đoạn này trước hết là đề tài: cuộc sống với những đổi thay và cách mạng của đồng bào dân tộc thiểu số. Làm báo Cứu quốc Việt Bắc, Tô Hoài có điều kiện tham gia, đi sâu vào đời sống các dân tộc miền núi như một cán bộ quần chúng thực thụ. Núi cứu quốc gồm bốn truyện: Đồng chí Hùng Vương, Nà Lôộc, Tào Lường, Công tác xã được Tô Hoài viết trên những kết quả thâm nhập vào các làng Tày, làng Dao, ở núi Phia Boóc (Bắc Cạn) và cá bản Cốc Phường, Vàng Kheo, Pích Cáy, Khuổi Buồm… Năm 1949, Tô Hoài viết Ngược sông Thao; 1951 viết Chính phủ tạm vay và Xuống làng. Năm 1952, Tô Hoài chuyển công tác ở Hội văn nghệ, sau đó theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc trong chiến dịch Tây Bắc, ông đã viết: “Giải phóng tới đâu, tôi đi sâu tìm hiểu các khu du kích tới đó, bắt đầu là lên cùng du kích các 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan