Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Thiên nhiên trong sáng tác của nguyễn khuyến từ góc nhìn phê bình sinh thái...

Tài liệu Thiên nhiên trong sáng tác của nguyễn khuyến từ góc nhìn phê bình sinh thái

.PDF
94
171
54

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ************************** ĐINH THỊ NHÀN THIÊN NHIÊN TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN KHUYẾN TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM HÀ NỘI - 2016 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ************************** ĐINH THỊ NHÀN THIÊN NHIÊN TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN KHUYẾN TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60 22 01 21 Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Hải Yến HÀ NỘI - 2016 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU ...................................................................................................................3 1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................3 2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................4 2.1. Lịch sử nghiên cứu chung về thơ Nguyễn Khuyến ...............................................4 2.2. Lịch sử nghiên cứu thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến ..................................6 3. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................................7 4. Mục đích nghiên cứu ...............................................................................................7 5. Phương pháp nghiên cứu .........................................................................................8 6. Đóng góp của đề tài.................................................................................................8 7. Cấu trúc của luâ ̣n văn ..............................................................................................9 NỘI DUNG ............................................................................................................ 10 Chƣơng 1: Một số vấn đề văn học sử và phƣơng pháp tiếp cận cơ bản liên quan đến đề tài ................................................................................................................. 10 1.1. Những vấn đề cơ bản của phê bình sinh thái và khả năng của nó trong nghiên cứu văn chương .......................................................................................... 10 1.2. Thiên nhiên trong quan niệm của con người Việt Nam thời trung đại ........ 12 1.2.1. Quan hệ con người và tự nhiên – thế giới bên ngoài theo quan điểm Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo .................................................................................... 12 1.2.2. Thiên nhiên trong sáng tác văn học trung đại Việt Nam ............................... 15 1.3. Những biến động tư tưởng, văn hóa Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX ........................................................................................................................ 38 Chƣơng 2: Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến – “chốn cũ lui về” ............ 41 2.1. Thơ thiên nhiên trong sáng tác của Nguyễn Khuyến .................................... 41 2.2. Thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn Khuyến khi lui về chốn cũ ................... 46 2.2.1. Hệ thực vật trong thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn Khuyến ...................... 47 2.2.2. Hệ động vật trong thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn Khuyến ..................... 53 1 2.2.3. Bức tranh tứ thời trong thơ Nguyễn Khuyến ................................................. 56 2.2.4. Nơi chốn trong thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn Khuyến .......................... 62 Chƣơng 3: "Phên giậu Hạ Di" giữa "hội Thăng Bình" ..................................... 71 3.1.Phức cảnh thời đại cựu tân qua bức tranh thiên nhiên của Nguyễn Khuyến71 3.1.1. Trạng thái “đối cảnh” và thực trạng “tương dữ/tương cảm” của “thiênnhân”trong thơ Nguyễn Khuyến ............................................................................. 71 3.1.2. Thiên nhiên đổ vỡ trong đời sống tinh thần của “hưu quan” Nguyễn Khuyến ............................................................................................................................................ 77 3.2. Một môi sinh bất an - ảnh xạ của bi kịch tinh thần ....................................... 80 3.2.1. Vị thế xuất – xử của Nguyễn Khuyến ............................................................ 80 3.2.2. Môi sinh bất an hay bi kịch tinh thần của Nguyễn Khuyến .......................... 82 KẾT LUẬN ............................................................................................................. 85 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 87 2 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Là một phần trong đời sống của con người, từ cổ kim Đông Tây, thiên nhiên thường là đề tài quen thuô ̣c của văn chương nghê ̣ thuâ ̣t . Quan hê ̣ này đặc biệt mâ ̣t thiế t ở thời kì tiền hiện đại , tiền công nghiệp khi con người và thiên nhiên còn gắn bó rất chặt chẽ với nhau . Chính vì vậy , quan sát thiên nhiên trong văn học nghệ thuật có thể hiểu được quan niệm của người sáng tạo về thế giới bên ngoài , cũng như nhâ ̣n thức của ho ̣ về mố i quan hệ thiên nhiên-con người. Và cũng như các đề tài khác, sự hiê ̣n diê ̣n của thiên nhiên trong văn chương nghê ̣ thuâ ̣t cũng mang tính lịch sử. Ở mỗi thời đại , thiên nhiên sẽ đươ ̣c hình dung và thể hiê ̣n theo những chuẩ n mực riêng về tư tưởng, thẩ m mỹ hay văn hoá . 1.2. Thuô ̣c số những tác gia có điạ vi ̣văn ho ̣c sử đă ̣c biê ̣t cả về tư tưởng và nghê ̣ thuật viết , Nguyễn Khuyến có khá nhiề u tác phẩ m viế t về thiên nhiên , về môi trường số ng làng quê [miề n Bắ c ]. Theo thố ng kê của mô ̣t số nhà nghiên cứu , thơ viết về thiên nhiên chiếm một phần ba trong tổng số hơn bốn trăm bài thơ ông để lại (gồ m cả thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm ). Bên cạnh đó, lịch sử văn học Việt Nam còn ghi nhận thơ văn Nguyễn Khuyến là thành tựu cuối cùng của nền văn học trung đại, là sự giao cắt giữa hai thời đại văn học trung đại và văn học cận hiện đại. Hình ảnh thiên nhiên trong thơ văn Nguyễn Khuyến do đó sẽ có ý nghiã phản chiế u những chuyể n đổ i trong cảm xúc , hình dung chủ quan , và nghệ thuật biểu tả của tác giả về thế giới tự nhiên bên ngoài , những thừa tiế p từ hê ̣ hin ̀ h văn ho ̣c phương Đô ng trung đa ̣i sang phương Tây câ ̣n hiê ̣n đa ̣i ở Viê ̣t Nam . 1.3. Giữa thập niên 90 của thế kỉ XX Phê bình sinh thái đã ra đời với sứ mệnh xã hô ̣i nhân văn là phân tích chỉ ra căn nguyên văn hóa , tư tưởng dẫn đến nguy cơ sinh thái, và đặt vấn đề nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên để nhìn nhận căn nguyên của tình trạng nói trên: "Trước tình trạng môi trường toàn cầu đang ngày một xấu đi, giữa thập niên 90 của thế kỉ XX Phê bình sinh thái đã ra đời với sứ mệnh cao cả là phân tích chỉ ra căn nguyên văn hóa tư tưởng dẫn đến nguy cơ sinh thái, nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên" 3 [28]. Nói cách khác, sự xuất hiện của phê bình sinh thái không chỉ đem lại lợi thế cảnh tỉnh thái độ ứng xử của con người với tự nhiên mà còn mở ra cách tiếp cận mới trong nghiên cứu văn học. Khi nói về phê bình sinh thái trong văn chương, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cho rằng: "Phê bình văn học sinh thái ra đời từ gợi ý sinh thái học, khoa học nghiên cứu quan hệ tương sinh, tương tác giữa các sinh thể cùng mối quan hệ của chúng với môi trường xung quanh. Song phê bình sinh thái thịnh hành ở nhiều nước phương Tây hiện nay tập trung vào vấn đề dùng tư tưởng sinh thái để đánh giá văn học trong việc biểu hiện vấn đề sinh thái, khẳng định vai trò của tự nhiên, xét lại quan điểm con người là trung tâm thời Khai sáng." [53]. Như vậy, sứ mệnh của phê bình sinh thái là nghiên cứu tư tưởng, văn hóa, khoa học, phương thức sống và phương thức sản xuất, mô hình phát triển xã hội của con người đã ảnh hưởng như thế nào đến hiện tượng xấu đi của môi trường tự nhiên, đã dẫn đến nguy cơ sinh thái. Từ đây có thể thấy, phê bình sinh thái là một khuynh hướng mang đậm tinh thần phê phán văn hóa , nó hướng đến cải cách văn hóa tư tưởng, thúc đẩy cách mạng phương thức sống, phương thức sản xuất, mô hình phát triển, xây dựng ý thức sinh thái. Còn trong nghiên cứu văn chương , phê bin ̀ h sinh thái là hướng tiếp cận các tác phẩm văn chương bằng các tri thức liên ngành , như xã hô ̣i ho ̣c , văn hóa ho ̣c , khoa học kỹ thuật nhằm tác động đến nhận thức của con người về sự tương tác của chiń h min ̀ h và tự nhiên , đến hành vi đạo đức của con người với phần còn lại của thế giới tự nhiên. Ba lí do mang tính thực tế và phương pháp luận nói trên là cơ sở để chúng tôi nhìn lại việc thể hiện thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến - một đề tài đã được nhiều nghiên cứu trước đây bàn luận nhưng phần lớn là ở góc độ bên trong của văn chương. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Lịch sử nghiên cứu chung về thơ Nguyễn Khuyến Để khảo sát và làm rõ lịch sử nghiên cứu chung về thơ Nguyễn Khuyến, chúng tôi dựa vào những nguồn tài liệu sau: Nguyễn Khuyến - về tác gia và tác phẩm (do Vũ Thanh giới thiệu và tuyển chọn và giới thiệu, NXB Giáo dục, Hà Nội, 4 1998), những bài viết về Nguyễn Khuyến trên Tạp chí Văn học từ năm 1998 đến nay, các luận văn , luận án về Nguyễn Khuyến đươ ̣c thực hiê ̣n ta ̣i mô ̣t số cơ sở đào tạo tại Hà Nội. Có thể thấy , kể từ bài viết đầu tiên về Nguyễn Khuyến xuất hiện trên Nam phong tạp chí những năm hai mươi của thế kỉ XX cho đế n nay , lịch trình giới thiệu và nghiên cứu Nguyễn Khuyến đã có gần 100 năm, với nhiề u thành tựu. Trước hế t là vấ n đề văn bản . Sau chùm bài “Thơ cu ̣ Yên Đổ ” trên Nam Phong tạp chí , thơ văn Nguyễn Khuyế n đươ ̣c rải rác giới thiê ̣u thêm đây đó . Nhưng phải đến n ăm 1984, khi Nguyễn Khuyến tác phẩm - công trình sưu tầm, biên dịch, giới thiệu về Nguyễn Khuyến do Nguyễn Văn Huyền thực hiện - đươ ̣c xuấ t bản thì người đo ̣c mới có thể coi là được tiếp cận với một tuyển tập tác phẩm đầy đủ nhất. Từ góc độ văn học sử, người khởi phát nghiên cứu về Nguyễn Khuyến là Dương Quảng Hàm qua công trình Việt Nam văn học sử yếu (năm 1941). Ông đã xếp Nguyễn Khuyến vào khuynh hướng trào phúng. Cũng nhìn Nguyễn Khuyến từ góc độ nhà thơ trào phúng nhưng tập trung khảo sát mảng thơ Nôm của ông , năm 1957, nhà nghiên cứu Lê Trí Viễn đã dành 20 trang trong Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam. Đây là cuốn sách văn học sử đầu tiên của chế độ mới đánh dấu sự trưởng thành của ngành nghiên cứu văn học . Đến năm 1959 xuất hiện chuyên khảo về Nguyễn Khuyến - Nguyễn Khuyến, nhà thơ Việt Nam kiệt xuất của Văn Tân với những nhâ ̣n diê ̣n, phân tích, và khái quát tư tưởng, bút pháp, gương mặt của nhà thơ kiệt xuất này . Năm 1960, xuất hiện công trình nghiên cứu của Lam Giang - Vũ Kỷ tìm hiểu xu hướng thiên về thiên nhiên trong thơ của Nguyễn Khuyến. Đặc biệt năm 1971, Xuân Diệu cho ra đời cuốn Thơ văn Nguyễn Khuyến với những cảm bình đô ̣c đáo, khi đinh ̣ danh cho Nguyễn Khuyến là nhà thơ của quê hương và dân tình Việt Nam. Sau đó 7 năm, nhà nghiên cứu Phạm Văn Diêu viết cuốn Việt Nam văn học giảng bình cũng tìm hiểu Nguyễn Khuyến với tư cách là nhà thơ của quê hương và dân tình Việt Nam nhưng chủ yếu khai thác ở sắc thái trầm lặng, tiêu điều. Không dừng lại ở đó, năm 1981, 1982, Xuân Diệu cho ra đời liên tiếp 2 tập Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, trong đó có đánh giá của ông về nhà thơ Nguyễn Khuyến: "...sở 5 trường nhất là những nhuần nhị của nét cảnh nông thôn" [16,42]. Ông nâng Nguyễn Khuyến lên thành "nhà thơ của làng mạc và dân quê" [16,43], nhà thơ "bay bướm và lãng mạn", "nhà thơ cổ điển duy nhất của mùa thu Việt Nam" [16,45]. Đến năm 1992, Vũ Tiến Quỳnh đã tuyển chọn và cho ra đời cuốn Phê bình, bình luận văn học Nguyễn Khuyến tổng hợp những bài phê bình, bình luận xuất sắc về thơ ca của Nguyễn Khuyến. Viê ̣c nghiên cứu thơ văn Nguyễn Khuyến đã đa ̣t đươ ̣c mô ̣t thành tựu mới với công trình Thi hào Nguyễn Khuyến đời và thơ (năm 1994). Đây là chuyên khảo quy mô, thể hiện được tư tưởng đổi mới về cách nhìn của tâ ̣p thể các nhà nghiên cứu xung quanh tác phẩ m và tư tưởng Nguyễn Khuyế n . Toàn bộ những thành tựu tìm tòi của giới nghiên cứu trong quãng thời gian nói trên đã đươ ̣c trưng cấ t trong Nguyễn Khuyến, về tác gia và tác phẩm [58]. Đây chính là dữ liệu nghiên cứu có ý nghĩa để năm 2008 Biện Minh Điền thực hiện luận án tiến sĩ với đề tài: Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến (Sự hình thành và những đặc trưng). Tóm lại, qua các công trình nghiên cứu từ trước đến nay , các nhà nghiên cứu đều nhất trí ở nhiều điểm khi đánh giá về cuộc đời , sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Khuyến: Đó là một tác giả mang ý nghiã dấu nối thơ ca trung đa ̣i với hiện đại . Với Nguyễn Khuyến, thơ Nôm nói riêng đã đa ̣t đế n giá tri ̣cổ điể n , và thơ ca nói chung đã mang màu sắc dân tộc đô ̣c đáo . 2.2. Lịch sử nghiên cứu thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến Thiên nhiên chiếm một vị trí khá lớn trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Khuyến. Do vậy, đây là đề tài quen thuộc nhưng không nhàm chán để các nhà nghiên cứu tìm hiểu, khai thác. Dưới đây xin được giới thiệu một vài bài viết tiêu biểu có nghiên cứu về thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến. Đầu tiên phải kể đến nhận xét của công trình của Lam Giang - Vũ Kỷ (1960), Giảng luận về Nguyễn Khuyến (NXB Tân Việt, Sài Gòn): "...thơ Nguyễn Khuyến mang bốn đặc tính giản dị, dễ hiểu, có tính dân tộc thuần túy, hướng về thiên nhiên...". Kế đó, nhà nghiên cứu Phạm Văn Diêu trong cuốn Việt Nam văn học 6 giảng bình (1978) đã tái hiện khung cảnh trầm lặng tiêu điều dưới ngòi bút của một nhà nho. Đặc biệt, Xuân Diệu (1998) với bài viết đặc sắc "Đọc thơ Nguyễn Khuyến" trong cuốn Các nhà thơ cổ điển Việt Nam - Tập 1 đã nghiên cứu một cách tinh tế về thơ Nguyễn Khuyến. Ông nhận định: "Nguyễn Khuyến là nhà thơ của dân tình làng cảnh Việt Nam". Gần với kiến giải trên, trong Thơ văn Nguyễn Khuyến Trần Tế Xương, nhà nghiên cứu Lê Trí Viễn viết: "Gắn bó tha thiết với ngôi nhà tranh, với mảnh vườn con đó là tấm lòng của Nguyễn Khuyến gần với nông dân không phải bằng lí luận mà bằng tình cảm, bằng máu thịt của mình ...". Qua những nghiên cứu công phu đó , các tác giả đã khai thác khá kĩ càng về đề tài thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến. Tuy nhiên họ mới tiếp cận thiên nhiên trong thơ ông như một đề tài , một chủ đề chứ chưa tiếp cận nó như một môi sinh với những vấn đề liên quan. 3. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi vấn đề: Với lí do chọn đề tài như đã xác định ở trên, luận văn sẽ không đi sâu nghiên cứu toàn bộ những vấn đề xung quanh thơ mang chủ đề thiên nhiên của Nguyễn Khuyến mà tìm hiểu từ góc nhìn phê bình sinh thái , tức là sự thể hiện thiên nhiên qua ngòi bút của Nguyễn Khuyến như một môi trường sống của tác giả trong thời kì giao thời. Trong quá trình khảo sát, để làm rõ thêm các luận điểm , hoă ̣c tăng thêm tin ́ h thuyế t phu ̣c khi nhâ ̣n đinh ̣ , luận văn sẽ so sánh với mảng sáng tác tương tự của các tác giả trước và sau ông như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Tế Xương, Tản Đà. Phạm vi tư liệu: Như đã trình bày , năm 1984, Nguyễn Văn Huyền thực hiện công trình sưu tầm, biên dịch mang tên Nguyễn Khuyến tác phẩm (NXB Khoa học xã hội , Hà Nội ). Đây là công trình đầ y đủ nhấ t về tác phẩ m của Nguyễn Khuyến cho đế n nay , vì vậy luận văn sẽ sử dụng cuốn sách này làm nguồ n dẫn chin ́ h trong suố t quá triǹ h triể n khai các vấ n đề . 4. Mục đích nghiên cứu 7 Khảo sát vấn đề thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến , luâ ̣n văn sẽ làm rõ : 1) Thiên nhiên, với Nguyễn Khuyế n , có ý nghĩa ra sao và liên quan thế nào v ới hành xử xã hội-đạo đức-thẩ m mỹ của nhà thơ; 2) Mố i quan hê ̣ đó chiụ quy định như thế nào từ thế giới quan và nhân sinh quan của tác giả. Tấ t cả những ý tưởng trên sẽ đươ ̣c đă ̣t trong khuôn khổ thời đại mà Nguyễn Khuyến sống và hành đạo . Từ những gơ ̣i ý của phê bin ̀ h sinh thái , luâ ̣n văn sẽ tim ̀ hiể u thiên nhiên như mô ̣t môi sinh tự nhiên bên ngoài con người và như mô ̣t phần của môi sinh xã hô ̣i qua tâm thế của tác giả . 5. Phƣơng pháp nghiên cứu: Thực hiê ̣n đề tài , chúng tôi sử dụng hai cách tiếp cận chính là: Phương pháp nghiên cứu văn học sử Đây là một đề tài văn học sử nên viê ̣c phân tić h từng đơn vi ̣tác phẩ m hoă ̣c đánh giá chúng sẽ đươ ̣c đă ̣t trong hoàn cảnh xuấ t hiê ̣n của chúng. Phương pháp nghiên cứu phê bình sinh thái Phương pháp nghiên cứu này là mô ̣t tham chiế u mới , cho phép luâ ̣n văn mở rô ̣ng thêm góc quan sát thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyế n . Cả hai phương pháp trên sẽ được cụ t hể hóa qua các thao tác : khảo sát, phân tích, thống kê , miêu tả , so sánh đối chiếu giúp cho luâ ̣n văn có đươ ̣c kế t luâ ̣n sau cùng một cách thuyết phục. 6. Đóng góp của đề tài Về khoa học Trên phương diện lí thuyết, kết quả của luận văn góp phần kiểm định hướng tiếp cận Phê bình sinh thái trong văn học. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần tìm kiếm một diễn giải mới về thơ thiên nhiên của Nguyễn Khuyến. Về thực tiễn Do tính cấp thiết và giá trị nhân văn sâu rộng, vấn đề môi sinh đã được đưa vào các giờ "Giáo dục công dân" hoặc các giờ học lồng ghép ở nhà trường phổ thông. 8 Với tư cách là nhà thơ trung đại Việt Nam nổi tiếng giai đoạn cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, thơ Nguyễn Khuyến đã được giảng dạy thường xuyên trong chương trình văn học của nhà trường từ phổ thông đến đại học. Đề tài vì vậy còn mang một ý nghĩa thiết thực đối với việc giáo dục môi trường sinh thái ở bậc học phổ thông qua văn học. 7. Cấu trúc của luâ ̣n văn Ngoài phần MỞ ĐẦU , KẾT LUẬN , và TÀI LIỆU THAM KHẢO , luâ ̣n văn sẽ gồ m 3 chương như sau: Chƣơng 1. Mô ̣t số vấn đề văn ho ̣c sƣ̉ và phƣơng pháp tiế p câ ̣n cơ bản liên quan đến đề tài Chƣơng 2: Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến – “chốn cũ lui về” Chƣơng 3: "Phên dậu Hạ Di" giữa "hội Thăng Bình" 9 NỘI DUNG Chƣơng 1 Một số vấn đề văn học sử và phƣơng pháp tiếp cận cơ bản liên quan đến đề tài 1.1. Những vấn đề cơ bản của phê bình sinh thái và khả năng của nó trong nghiên cứu văn chương Trước tình trạng môi trường toàn cầu đang ngày một xấu đi, giữa thập niên 70 của thế kỉ XX, phê bình sinh thái đã ra đời ở Mỹ với sứ mệnh cao cả là phân tích chỉ ra căn nguyên văn hóa, tư tưởng dẫn đến nguy cơ đó. Như vậy, ban đầu phê bình sinh thái vốn là vấn đề chính trị, xã hội. Năm 1985, Hội ngôn ngữ học hiện đại cho xuất bản cuốn sách do Frederick O. Waage chủ biên mang tên Dạy văn học môi trường: tài liệu, phương pháp và Tiềm năng phát triển (Teaching Environmental Literature: Materials, methods, resources). Cuốn sách này phát huy tác dụng lớn trong việc kích thích giảng dạy các môn học liên quan đến sinh thái và tiến hành nghiên cứu lĩnh vực này , mà văn chương là một trong những môn học , chuyên ngành được coi là đặc biệt quan trọng. Trong bài dịch của Hải Ngọc "Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học", nhà nghiên cứu Karen Thornber cho rằng: "Phê bình sinh thái thường được định nghĩa khá rộng" [64, 3]. Quả đúng như vậy, có rất nhiều nhà nghiên cứu đã tìm đến Phê bình sinh thái và họ đã cố gắng định nghĩa về nó. Scott Slovic xem đó là khuynh hướng phê bình "khảo sát cặn kẽ những ngụ ý về môi trường sinh thái và quan hệ giữa con người - tự nhiên trong bất kỳ văn bản văn chương nào, kể cả những văn bản (thoạt nhìn) dường như không để ý gì đến thế giới con người [64, 3]. Trong lời mở đầu cuốn sách Viết về môi trường: phê bình sinh thái và văn học, R. Kerridge viết: Phê bình sinh thái là "một môn phê bình văn hóa của chủ nghĩa môi trường mới trong văn học " [4, 6]. Dẫn nhâ ̣p quan niê ̣m phê bình này vào Viê ̣t Nam , Trần Đình Sử khẳ ng đinh: ̣ "Phê bình sinh thái ra đời từ gợi ý của sinh thái học, khoa 10 nghiên cứu mối quan hệ tương sinh, tương tác giữa các sinh thể cùng mối quan hệ của chúng với môi trường vật chất xung quanh." [52, 1]. Trong số rất nhiều giới định về thuật ngữ Phê bình sinh thái, định nghĩa được nhiều người tiếp nhận là định nghĩa của một trong những người chủ chốt trong việc khởi xướng và phát triển Phê bình sinh thái Mỹ - Cheryll Glotfelty. Năm 1996, bà đã viết trong cuốn sách Văn bản Phê bình sinh thái: "Phê bình sinh thái nghiên cứu mối quan hệ con người và môi trường vật chất xung quanh. Cũng giống như phê bình nữ quyền từ góc độ giới tính mà phê bình ngôn ngữ và văn học. Phê bình mác xít đem phương thức sản xuất và tự giác giai cấp làm nguyên tắc đọc hiểu văn bản, thì phê bình sinh thái lấy tư tưởng quả đất làm trung tâm để phê bình văn học." [52, 7] Như vậy, phê bình văn học sinh thái là mô ̣t kiể u nghiên cứu liên ngành , kết hợp giữa Sinh thái học với Văn học nghệ thuật, giống như Phê bình Văn hóa học hay Phê bình Phân tâm học. Nhưng "Phê bình sinh thái không phải đem phương pháp nghiên cứu sinh thái học, sinh vật hóa học, toán học hoặc phương pháp nghiên cứu của bât kì khoa học tự nhiên nào khác vào phân tích văn học, "nó chỉ dẫn nhập quan niệm cơ bản nhất của triết học sinh thái vào phê bình văn học mà thôi" [52]. Mô ̣t điể m nữa cũng cầ n chú ý ở đây là phê bình sinh thái xác định có hai loại chính là: Phê bình sinh thái tự nhiên và phê bình sinh thái tinh thần. Nếu phê bình sinh thái tự nhiên nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và tự nhiên thì phê bình sinh thái tinh thần đặt ở một bình diện khác: nghiên cứu mối quan hệ giữa môi trường tinh thần xã hội đối với đời sống tinh thần, với sáng tác văn học, tác động của văn học đối với môi trường tinh thần của con người. Ở phương Tây nói đến phê bình văn học sinh thái trước hết là nói đến phê bình văn học sinh thái tự nhiên. Tuy nhiên, xu thế hiện nay, theo nhà triết học người Pháp Pierre Teilhar de Chardin yêu cầu phải dành cho hiện tượng tinh thần một vị trí xứng đáng trong quá trình tiến hóa của nhân loại, chứ không phải chỉ môi trường tự nhiên, sự lựa chọn tự nhiên. Phê bình sinh thái tinh thần là kiểu phê bình lấy tư tưởng sinh thái làm trung tâm, qua đó giải quyết các vấn đề sinh thái xã hội, xác lập lí tưởng sống cao đẹp, khắc phục các ô nhiễm tinh thần, làm cho tinh thần trong sạch, cân bằng, góp phần làm ổn định xã 11 hội. Ở đây, văn nghệ được xem như một sinh thể, các yếu tố của môi trường văn hóa tinh thần có tác dụng nuôi dưỡng, tác động đến văn nghệ gọi là môi trường sinh thái văn nghệ. Con người là động vật văn hóa, vì có sự tương tác của ba cơ chế thích nghi sinh thái học: cơ chế động lực tự duy trì sinh tồn của bản thân con người; con người đòi hỏi một xã hội có giá trị sinh tồn cho nó; con người thúc đẩy sự nhận thức các hiện tượng có quy luật của thế giới. Ba cơ chế này có giá trị phổ quát giải thích sự ra đời của văn hóa, và đó cũng là mấu chốt của tính phổ biến của văn hóa và văn học nghệ thuật nói chung. Có thể thấy, so với các khuynh hướng nghiên cứu văn học khác thì phê bình văn học sinh thái vẫn là một khuynh hướng nghiên cứu mới, có sự phát triển rất đa dạng trong các lĩnh vực và đặc biệt không bị gò bó, khuôn phép trong bất kì một phương pháp đơn lẻ nào. Học giả Timothy Clark đã nhận định: "Phê bình sinh thái tạo ra một khu vực hoạt động rất năng động, chưa đánh giá hết được, nơi các vấn đề, các chuyên ngành học thuật chính trị giao cắt nhau. Sức mạnh tiềm tàng của nó không phải chỉ như một nhánh phê bình văn học khác, được đặt bên trong những biên giới thiết chế đã có sẵn mà ở chỗ nó là một cách tiếp cận mang tính khiêu khích cả trong việc phân tích văn học lẫn những vấn đề vừa động hiện, vừa che khuất lẫn nhau của khoa học, đạo đức, chính trị và thẩm mĩ" [53]. Cũng diễn đạt tinh thần này nhưng bằng một ngôn ngữ khác, nhà nghiên cứu Đỗ Văn Hiểu cho rằng: "Hệ sinh thái bị tàn phá là một hiện tượng toàn cầu nên cách ứng xử của văn chương đối với tình trạng bị hủy hoại của môi trường thường vượt qua những nền văn hóa sản xuất và có thể đem những cách ứng xử này cùng hình thành nên các mạng lưới chủ đề và khái niệm liên văn hóa. Xem xét những mạng lưới này sẽ là một phần thực hành Phê bình sinh thái, nếu không muốn nói đó là tương lai của văn học" [28, 63]. 1.2. Thiên nhiên trong quan niệm của con người Việt Nam thời trung đại 1.2.1. Quan hệ con người và tự nhiên – thế giới bên ngoài theo quan điểm Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo 12 Ba hệ tư tưởng Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo đều thống nhất với nhau ở quan điểm coi trọng thiên nhiên, đề cao xu hướng hòa vào thiên nhiên. Bên cạnh đó, mỗi hệ tư tưởng trên lại có điểm nhấn riêng thể hiện sự khác biệt. Quan hệ con người và tự nhiên – thế giới bên ngoài theo quan điểm Nho giáo là thiên nhân tương dữ, giao hòa; theo quan điểm của Phật giáo là thiên nhiên và con người bình đẳng, Phật giáo rất coi trọng đức hiếu sinh; còn quan điểm của Đạo giáo có nét độc đáo là coi trọng tự nhiên, lấy tự nhiên làm khuôn mẫu, thậm chí coi thiên nhiên như là tiêu chuẩn cao nhất để con người hướng đến và khuyến khích con người hưởng thụ thế giới tự nhiên. Trong thế giới rộng lớn bên ngoài con người - vũ trụ, thực thể khách quan có hàm chứa một thực thể là thiên nhiên. Như vậy, quan niệm về mối quan hệ con người - thiên nhiên (hay vũ trụ - giới tự nhiên) thực chất là chịu sự quy ước của thế giới quan. Như đã nói ở trên, khi bàn về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên - thế giới bên ngoài nói chung, thiên nhiên nói riêng, theo quan niệm của Nho giáo là: Thiên nhiên tương dữ, giao hòa. Suốt trong lịch sử phát triển của mình, kinh điển Nho gia luôn khẳng định điều này. Và "kênh" phát lộ cái nhìn này ở những khía cạnh đa dạng nhất chính là văn chương: "Nếu như trong cuộc sống của các nhà Nho luôn tự buộc mình không ngừng phải vươn lên, vượt qua sự chi phối của hoàn cảnh để tu luyện nhân cách bản thân, thì thiên nhiên của họ cũng là một thiên nhiên luôn phải khắc phục, chống đỡ khó khăn do môi trường xung quanh đem lại để vươn lên. Từ quan điểm trên của Nho gia, dễ hiểu vì sao trong thơ họ hình tượng tùng, cúc, trúc, mai lại xuất hiện nhiều đến vậy" [48, 11]. Giống như Nho giáo , Đạo giáo cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng "Thiên nhân hợp nhất" của Kinh Dịch, nhưng Đạo giáo đặt thiên nhiên, vũ trụ cao hơn thế giới nhân sinh. Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên - thế giới bên ngoài, theo quan niệm của Nho giáo là: Thiên nhiên tương dữ, giao hòa và là trạng thái hợp nhất giữa con người và phẩm chất đạo đức con người. Còn mối quan hệ giữa con người và tự nhiên - thế giới bên ngoài, theo quan niệm của Đạo giáo là: Coi trọng thiên nhiên, 13 lấy thiên nhiên làm khuôn mẫu cho con người "Nhân pháp Đia,̣ Điạ pháp Thiên , Thiên pháp Đạo, Đạo pháp Tự nhiên" (Người bắ t chước /theo Đất, Đất bắt chước/theo Trời, Trời bắ t chước /theo Đạo, Đạo bắ t chước/theo Tự nhiên. Lão Tử Đạo đức kinh). "Đạo pháp tự nhiên" không chỉ chủ trương xuất thế, bất tranh, tri túc, không bộc lộ sắc sảo mà còn yêu cầu con người phải coi trọng tự nhiên, lấy tự nhiên làm khuôn mẫu. Trong Nam hoa kinh, Trang Tử có nhiều thiên thể hiện sự yêu thích của con người do cảnh tượng thiên nhiên mang la ̣i : "Sơn lâm dư? Cao nhưỡng dư? Sử ngã hân hân nhiên nhi thủy dư? " (Núi rừng ư? Gò đất cao bên sông ư? Tất cả đều làm ta vui vẻ, vậy vui vẻ ở đâu? (Bắc chí du). Cả Lão Tử và Trang Tử cho rằng: con người chỉ hòa vào thiên nhiên mới tìm thấy lạc thú. Con người hợp nhất với thiên nhiên, lấy vẻ đẹp thiên nhiên làm chủ, mặc sức tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên. Tư tưởng Lão – Trang, chủ trương quay về với tự nhiên nhằm đạt tới sự “tiêu dao phóng nhiệm”. Nó chủ trương một cuộc sống không bị câu thúc bởi thế tục, không vương vấn chuyện đời, cổ súy cho lối sống thuận theo tự nhiên, quên thân mình, không ưu hoạn (Trang Tử - Nam hoa kinh). Trong quan niệm của Đạo giáo, cái đẹp mang bản sắc tự nhiên, siêu việt, công lợi, vô vi tự mỹ. Theo đó, cái đẹp của nhân cách chủ thể sáng tạo được giải phóng. Đó là cái đẹp tinh thần nằm ngoài mọi ràng buộc. Đạo giáo mở đường cho con người thâm nhập vào bề sâu cốt lõi của sự sống, hướng con người trở về với bản tính nguyên sơ của mình [67, 57]. Khác với Nho giáo và Đạo giáo, khi bàn về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, quan điểm của Phật giáo là thiên nhiên và con người bình đẳng. Thậm chí, trong con người có thiên nhiên và ngược lại. Ví dụ: Cái đẹp trong quan niệm của Phật giáo là sự hòa tan giữa con người với thiên nhiên, không còn ranh giới giữa "ta" và "vật", giữa "nội tâm" và "ngoại cảnh"; con người tồn tại trong trạng thái như nhiên "đối cảnh vô tâm". Dáng vẻ, vầ n xoay của thiên nhiên: mây, gió, núi, trăng, hoa... được miêu tả không để hiểu vấn đề "thời tiết" của tự nhiên mà như chính con đường sinh - tử, sắc - không, hữu - vô... Theo Trần Văn Cường, Phật giáo quan niệm: Con người là một phần của thiên nhiên, con người sinh ra từ chính các yếu tố 14 của thiên nhiên: "Con người là hợp thể của Lục giới (Lục đại). Lục giới (sad dhatvah) là sáu yếu tố hình thành con người gồm: đất, nước, gió, lửa, không, thức [13, 37]. Cùng chung quan niệm con người và thiên nhiên có mối liên hệ chặt chẽ như trên nhưng xuất phát từ ý thức về môi sinh hiện đại, một số nhà Phật học quốc tế gần đây đã chủ trương: Thiên nhiên là một phần cuộc sống của con người, nhân loại lệ thuộc vào môi trường sinh thái. Các thái độ, hành vi được ươm mầm nội tại trong mỗi con người. Vấn đề cơ bản được quan tâm ngày nay về đạo đức chính là mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Cùng với đà phát triển, con người vẫn đang cố gắng kiểm soát và làm chủ thiên nhiên, qua đó tận dụng thiên nhiên vì mục đích hưởng thụ. Hành xử này dẫn đến sự hủy hoại môi trường. Theo các nhà Phật học hiê ̣n đa ̣i, thiên nhiên có thể sử dụng cho sự hưởng thụ về mặt tinh thần. Tuy nhiên, lời dạy của Phật là hãy để thiên nhiên như nó vốn hiện hữu, và chỉ nên thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên với một thái độ không ham muốn. Hay nói khác đi thiên nhiên cần được đối xử bình đẳng như con người [13, 75]. Như vậy, theo Phật giáo, mặc dù con người sử dụng các yếu tố tự nhiên như một công cụ để sinh tồn, nhưng môi trường sẽ là điểm kết thúc duy trì sự cân bằng của tất cả mọi sinh vật. Con người cần phải thực hiện nghĩa vụ đối với sinh vật xung quanh. 1.2.2. Thiên nhiên trong sáng tác văn học trung đại Việt Nam Do ảnh hưởng bởi ba hệ tư tưởng như đã nói ở trên, nghệ thuật cổ trung đại phương Đông rất coi trọng đề tài thiên nhiên, đúng như Hồ Chí Minh đã có lần nhận xét khi đọc Thiên gia thi: "Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ". Bốn mùa thiên nhiên chuyển vận đều gây cho con người cảm xúc khác nhau. Nhà nghiên cứu Lưu Cương Kỷ trong cuốn Chu Dịch và mỹ học viết: “Còn như ngọn gió cánh chim mùa xuân, vầng trăng tiếng ve mùa thu, tầng mây trận mưa rào mùa hạ, ánh trăng, cái lạnh mùa đông, đó là cái cảm thụ bốn mùa thể hiện trong thơ. Cuộc vui thì gửi thơ để bày tỏ tình thân thiết, xa cách thì mượn thơ để ngụ tình ai oán” [40, 37]. 15 Con người là một bộ phận của giới tự nhiên. Quan điểm này đã từng xuất hiện trong văn học dân gian. Ca dao xưa có câu: “Đi đâu mà chẳng biết ta/ Ta con ông Sấm cháu bà Thiên Lôi/ Khi xưa ta ở trên trời/ Đứt dây rơi xuống làm người trần gian”. Truyền thuyết Thánh Gióng cũng nói, người anh hùng làng Gióng là sản phẩm của con người và trời đất (bà mẹ giẫm phải vết chân lạ rồi có thai)… Người Việt thời trung đại cũng xem mình là một bộ phận của giới tự nhiên. Chịu ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài của tư tưởng Nho - Đạo - Phật, họ xây dựng lối sống hòa hợp với tự nhiên theo nguyên lý “Vạn vật nhất thể”. Khi sáng tác, họ tuân thủ quan niệm "Thi dĩ ngôn chí, văn dĩ tải đạo" và qua bút pháp "tả cảnh ngụ tình", "tức cảnh sinh tình". Chịu ảnh hưởng của cả ba hệ tư tưởng nhưng ở mỗi giai đoạn sự ảnh hưởng đó lại có sắc thái khác nhau. Thơ ca thời Lý - Trần vẫn chịu sự ảnh hưởng của tam giáo nhưng tư tưởng chủ yếu là Phật giáo Thiền tông. Qua khảo sát, chúng tôi thấy: dù là những vần thơ mang tính triết học cao hay những bài thơ giản dị, thơ thời Lý - Trần đều đề cập đến thiên nhiên, đề cập đến mối quan hệ giữa thiên nhiên với con người, coi trọng thiên nhiên. Tư tưởng chủ đạo chi phối là Phật giáo nên phần lớn các sáng tác của các Thiền sư đều tập trung thể hiện mối quan hệ bình đẳng giữa con người và thiên nhiên. Ở đây, con người đối xử với thiên nhiên không phải với tư cách của kẻ chinh phục, kẻ sở hữu, khách thể bên ngoài mà coi nó như một người đồ ng đẳng để cảm nhận, sẻ chia, thậm chí dùng nó để phát biểu các triết lí Thiền. Ví dụ: Trong bài Thị đệ tử (Bảo các đồ đệ) dưới đây của nhà sư Vạn Hạnh viết ngày 15 tháng 5 năm 1088, sư gọi tăng chúng đến đọc bài kệ: Thân như điện ảnh, hữu toàn vô, Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô Nhậm vận thịnh suy vô bố úy, Thịnh suy như lộ thảo đầu phô. (Người đời như bóng chớp, có rồi lại không, Như cây cối mùa xuân tốt tươi, mùa thu khô héo. 16 Mặc cho vận đời thịnh hay suy, đừng sợ hãi. Vì sự thịnh suy (cũng mong manh) như giọt sương đầu ngọn cỏ). Bài thơ chỉ có một chữ "thân" trực chỉ con người, những hình ảnh còn lại là thuộc về thế giới tự nhiên. Và theo đó, nhà thơ muốn gửi gắm một thông điệp: con người chỉ là một phần nhỏ bé của vũ trụ và nếu con người quên được "thân" (tức "ngã") thì sẽ hòa được vào thế giới tuần hoàn đó, và đạt đến sự an nhiên, tự tại. Cũng ảnh hưởng bởi tư tưởng Phật giáo, những sáng tác của Tuệ Trung Thượng sĩ khi nhắc đến thiên nhiên đều thể hiện triết lí Thiền: Sinh tử do lai bãi vấn trình, Nhân duyên thời tiết tự nhiên thành. Sơn vân dã hữu xuất sơn thế, Giản thủy chung vô đầu giản thanh. Tuế tuế hoa tùy tam nguyệt tiếu, Triêu triêu kê hướng ngũ canh minh. A thùy hôi đắc nương sinh diện, Thủy tín nhân thiên tống giả danh. (Thôi đừng hỏi lai lịch về con đường sống chết làm gì, Thời tiết của nhân duyên cứ tự nó hình thành. Mây núi đã có cái thế bay ra khỏi núi, Nước suối không tiếng nào không phải là tiếng nước gieo vào lòng suối. Hàng năm, hoa vẫn nở vào tháng ba, Sáng sớm gà vẫn gáy vào canh năm. Ai là người hiểu được mặt người mẹ, Mới tin rằng người và trời đều giả danh.) (An định thời tiết - Thời tiết an định) 17 Bài thơ mượn một loạt hình ảnh chuyển vận của thiên nhiên để bàn không phải chỉ về vấn đề "thời tiết" của tự nhiên mà chính là để khẳng định đó là quy luật sống của cả vũ trụ nhân sinh. Trong một bài thơ khác của Thượng sĩ, ông cũng dùng thiên nhiên để lí giải những vấn đề liên quan đến con người: Hưu tầm Thiếu Thất dữ Tào Khê, Thể tính minh minh vị hữu mê. Cổ nguyệt chiếu phi quan viễn cận, Thiên phong xuy bất giản cao đê. Thu quang hắc bạch tùy duyên sắc, Liên nhị hồng hương bất trước nê. Diệu khúc bản lai tu cử xướng, Mạc tầm Nam Bắc dữ Đông Tây. (Đừng có tìm Thiếu Thất với Tào Khê, Thể tính vằng vặc chưa có mê lầm. Mặt trăng xưa soi kể gì xa hay gần, Gió trời thổi nào chọn nơi cao hay thấp. Ánh sáng mùa thu lúc đen lúc trắng tùy theo duyên sắc, Nhị sen đỏ thơm chẳng nhuốm bùn. Khúc kì diệu của bản lai nên cất giọng hát, Chẳng phải tìm ở Nam, Bắc với Đông, Tây.) (Thị chúng - Bảo mọi người) Bài thơ là một lời "gợi bảo mọi người" về vấn đề tự tính bản thể con người. Thượng sĩ khuyên mọi người nên đi tìm tự tính, chân như ở ngoài tâm. Bởi vì thể tính là trong sáng vằng vặc và mỗi người đều có nó như là mặt trăng soi thì đâu phải phân biệt xa, gần, gió thổi, đâu phân biệt nơi cao thấp. Tùy vào duyên mà mỗi người chứng ngộ theo một cách khác nhau. Đây chính là một tư tưởng rất cơ bản của Thiền tông được tác giả truyền tải qua các hình ảnh thiên nhiên. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan