Thiền định
www.vienchieuonline
.org
www.vienchieu.org
Thiền
định
Có một câu đố khá quen thuộc
như sau: “Đố ai biết con vật gì lúc mới
sinh ra nó là con sên. Sau đó nó hóa ra
thành con bướm. Từ con bướm lại hóa
ra con công. Con công ấy lại biến thành
con lừa. Rồi con lừa lại biến thành con
cáo. Và cuối cùng con cáo lại trở thành
con khỉ?”
Trong quyển Kinh Thi của Việt
Nam, cụ Như Ý đã giải câu đố trên
bằng những câu thơ lục bát thế này:
6 Hạnh Huệ
Câu này muốn nói người ta
Mới sinh thì yếu như là con sên
Vài năm bú mớm lớn lên
Tập bò, tập đứng, tập ghìm, tập đi
Vững chân lại tiếp tới kỳ
Tung tăng đây đó khác gì bướm bay
Lớn lên lại thích mê say
Phô trương cái đẹp, cái hay với người
Chỉ ưa chuộng điệu bộ ngồi
Thế là lại biến ra đời con công
Cốt sao chiếm được bạn lòng
Vì ta có đẹp mới hòng người yêu
Gia đình khi đã thuận chiều
Bây giờ lại tính mọi điều lo toan
Chỉ e lâm cảnh cơ hàn
Lấy chi ăn mặc cho đàn con thơ
Nai lưng đi sớm về trưa
Thế là hóa kiếp con lừa đúng không?
Cuộc đời lăn lộn tới cùng
Làm nhiều vẫn chẳng có đồng nào dư
Mưu sâu tranh cạnh lọc lừa
Trăm khôn nghìn khéo bây giờ mọc ra
Thế là hóa kiếp cáo già
Mưu toan phấn đấu cho nhà ấm no
Thiền định 7
Gia đình ngày một thêm to
Thì đường mưu sống còn lo hơn nhiều
Lo nhiều trán sớm nhăn nheo
Cái già đến sớm, cái nghèo chưa qua
Mặt trông như con khỉ già
Tôi xin giảng vậy biết là đúng không?”
Những câu thơ trên nghe qua thì
thấy vui vui, nhưng nếu ngẫm nghĩ kỹ
thì càng thấm thía nỗi đau của một
kiếp người. Một kiếp người mà sao chỉ
toàn hình ảnh của “thú vật” không?
Từ lúc làm sên yếu ớt, con bướm hồn
nhiên đến con công phô diễn vẻ đẹp
của mình, cốt kiếm thêm một người
bạn để cùng nhau khổ. Sống thì phải
có sự liên kết với mọi người xung
quanh. Chúng ta lại phải bon chen
đủ mọi thứ trên đời, làm mệt mỏi
thân và tâm mình, phải “lao tâm khổ
tứ” làm lừa, làm cáo rồi làm khỉ. Hiện
nay, các nước càng văn minh hiện đại
bao nhiêu thì lại càng có nhiều người
bị stress, bị tâm thần chừng đó. Cuộc
sống làm chúng ta bị hao tán tinh thần
8 Hạnh Huệ
và sức lực rất nhiều, nhưng cuối cùng
rồi chúng ta được gì, còn lại gì? Một
chiếc áo quan! Sự thật như vậy đó!
Cho nên tìm cách thư giãn thân tâm
là điều cần thiết. Thiền định là một
pháp môn đáp ứng được điều này,
giúp chúng ta điều thân và quan trọng
nhất là điều tâm.
Thiền định theo tiếng Phạn là
Dhyāna hay Jhāna theo tiếng Pali.
Thiền định có nghĩa là tĩnh lự (suy tư
trong tĩnh lặng). Người ta thường chia
thiền định ra làm hai phần:
Phần 1: Điều thân
Phần 2: Điều tâm – cột tâm lại một
chỗ và xem xét, quán sát một đề mục
nào đó.
Trong các tư thế của thân, ngồi là
cách vững vàng, yên ổn nhất để chúng
ta có đủ thì giờ lo cho tâm, đó là tọa
thiền. Hai cách ngồi thiền phổ biến là
kiết già hay bán già. Tuy nhiên, chúng
ta có thể ngồi ghế hoặc cho hai chân
Thiền định 9
ra sau như kiểu Nhật Bản… đều được
miễn là lưng thẳng, đầu thẳng, cần
tránh quá ưỡn vì như thế sẽ bị tức ngực,
còn nếu khom thì sẽ dễ bị hôn trầm.
Cách ngồi hay nhất vẫn là lối kiết già vì
ngồi như thế máu huyết lưu thông tốt
và ngồi được lâu. Khi đã ổn định tư thế
ngồi thì chúng ta bắt đầu hít vào thở ra
thật dài vài hơi rồi bắt đầu Phần hai.
Điều tâm
Tâm của chúng ta là “Tâm viên ý
mã”, nghĩa là tâm ý của mình như khỉ
vượn, như ngựa, nó chuyền bắt, chạy
nhảy khắp mọi nơi dường như tự do tự
tại. Thân có thể ngồi đây mà tâm đi khắp
thế gian, thiên đường, địa ngục cũng tới
được. Nhưng nếu thử muốn dừng tư
tưởng lại, chúng ta sẽ rất ngạc nhiên khi
thấy dường như bất khả. Và khi quan sát
nó, ta lại càng ngạc nhiên hơn khi mình
muốn nghĩ một điều mà tâm ý mình lại
lan man theo chuyện khác. Và tu thiền
tức là quý vị bắt đầu ý thức được tư tưởng
của mình, cái thường được gọi là ta.
10 Hạnh Huệ
Bắt đầu ngồi thiền, chúng ta phải
buông hết mọi sự rắc rối trong cuộc
sống hằng ngày, từ việc quá khứ, hiện
tại đến vị lai. Cách thức giúp chúng ta
tập trung tư tưởng lại là phải có những
đề mục cố định nào đó để chúng ta chỉ
xoay quanh và bám vào cái đề mục đó.
Theo các kinh thuộc A-hàm như quyển
Thanh Tịnh Đạo có đề cập đến 40 đề
mục để thiền định.
1. Mười đề mục dùng vật để niệm
tâm tức, là dùng vật để cột tâm, gồm:
đất, nước, lửa, không khí, màu xanh,
đỏ, vàng, trắng, ánh sáng và không
gian. Chẳng hạn như một người dùng
đề mục về đất thì người ta nặn một
miếng đất to cỡ một hai tấc, làm cho
nó láng lẩy, rồi để trước mặt mà niệm
“đất, đất, đất…”. Hoặc người dùng đề
mục về nước thì có thể để trước mặt
một ly nước đầy, trong trẻo, rồi niệm
“nước, nước, nước…”… Niệm như vậy
cốt là “Chế tâm nhất xứ vô sự bất biện”,
nghĩa là cột tâm lại một chỗ thì không
có việc gì không xong.
Thiền định 11
2. Mười đề mục dùng để niệm về
tử thi. Lối quán về tử thi này là dùng
để trị những bệnh đa dục. Hành giả
đến nghĩa địa để quán sát một tử thi
sau khi chết thì nó sình lên, rồi rã ra
chảy nước, sau đó thì bị chim cắn xé
ra từng đoạn, bị chuột khoét từng lỗ,
bị văng ra từng mảnh, bị cắt đứt, đẫm
đầy máu me, bị dòi đục, rồi cuối cùng
chỉ còn lại bộ xương. Khi để tâm vào
mười hình ảnh trên thì sự nhờm gớm
sẽ tăng lên và chúng ta sẽ bớt được cái
tâm ái dục đối với người khác.
3. Mười đề mục dùng để suy niệm.
Các đề mục này trong kinh A-hàm nói
nhiều nhất. Phật dạy các tỳ kheo nên
đi tới những chỗ vắng vẻ chánh thân,
chánh ý tức là ngồi cho ngay ngắn và
cột tâm lại một chỗ đừng có niệm khác.
Rồi từ đó nghĩ về Phật, pháp, tăng, thí,
giới, thiên, Niết-bàn, về chết, thân và
sổ tức.
4. Quán tứ vô lượng tâm: từ, bi,
hỷ, xả sẽ làm tăng trưởng công đức,
12 Hạnh Huệ
tâm trở nên rộng lớn, đầy tình thương,
khoan dung.
5. Đề mục về tri giác, tức là tưởng
về sự ghê tởm vật thực. Quán tưởng đề
mục này là để đối trị với sự tham ăn,
tham uống. Bao nhiêu món ngon, vật
lạ sau khi qua khỏi miệng của mình thì
đều trở thành bất tịnh. Quán như vậy
để chúng ta đừng quá quan trọng phải
tìm kiếm những món ăn ngon ngọt, mà
chỉ cần ăn thế nào cho vừa đủ để sống,
chứ không phải sống để mà ăn.
6. Đề mục về phân biện, tức là
phân tích yếu tố vật chất. Muôn vật
đối tượng của sáu căn như cây cỏ, bông
hoa, người… đều do tứ đại hợp thành.
Khi phân tích những yếu tố này, chúng
ta sẽ thấy mọi vật đều không thật.
Nếu chúng ta dùng sáu đề mục
trên để mà niệm tâm thì chúng ta sẽ
đạt được từ Sơ thiền cho đến Tứ thiền.
Từ Tứ thiền này nếu chúng ta
muốn đi lên nữa thì có bốn đề tài về
Vô sắc thiền là: không vô biên xứ, thức
Thiền định 13
vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi
phi tưởng xứ. Tất cả được gọi chung là
tứ thiền bát định. Và sau khi đạt đến
mức “phi tưởng phi phi tưởng xứ”
(dường như có niệm tư tưởng, dường
như không) thì phải thêm một bước
nữa là “diệt tận định”, tức là cần phải
bỏ hết cảm thọ và tư tưởng thì mới có
thể chứng Niết-bàn được.
Thiền Đại thừa có bảy đề mục,
theo “Thiền Đạo Tu Tập” của Trương
Trừng Cơ:
1. Sổ tức quán: Đếm hơi thở.
2. Chuyên tâm vào một điểm: Tập
trung vào một điểm trong thân hoặc
ngoài thân. Ở ngoài thân, chọn một vật
nào đó như xanh, vàng, đỏ, trắng hoặc
đất, nước, gió, lửa… Ở trong thân, chú
tâm vào một điểm ở giữa chân mày thì
có thể mở được con mắt huệ thứ ba.
Hoặc có thể chú tâm vào chóp mũi,
rốn, trái tim…
3. Quán tưởng: Có thể quán tưởng
về tượng Phật (niệm A-di-đà) hoặc theo
Mật tông thì quán tưởng mạn-trà-la.
14 Hạnh Huệ
4. Tụng chú: Niệm một thần chú
như: “On”, “Om Mani Padme Hum”,
“Án tô rô tô rô”… cũng giúp an trú tâm
lại một chỗ.
5. Vận động: Theo dõi những cử chỉ
để không bị tán tâm, giống như những
người tập Thái cực quyền, các động tác
đưa ra đều rất chậm, càng chậm chừng
nào càng chính xác chừng ấy và phải
tập trung hết tâm ý của mình vào từng
động tác ấy.
6. Chuyên tâm vào thiện ý: Quán tứ
vô lượng tâm.
7. Đồng nhất tâm tính: Không có
đối tượng nào hết chỉ nhìn vào tâm
mình. Và việc nhìn vào tâm này cũng
có hai yếu tố:
Thứ nhất: Nhìn vào tâm vọng
tưởng tức là những tâm chạy lăng xăng.
Thứ hai: Nếu chúng ta biết rằng
tất cả chúng sanh đều có Phật tánh
(là bản tâm không có tham, sân, si lúc
nào cũng thanh tịnh, rỗng rang, không
Thiền định 15
dính mắc…) và lúc nào cũng nhớ đến
tâm này.
Hành trình tu thiền còn được phác
họa thành mười bức tranh Chăn trâu.
“Trâu” ở đây chính là tâm của chúng ta.
Tuy nhiên, bộ tranh Chăn trâu này cũng
có một bộ của Đại thừa và một bộ của
Thiền tông. Trong bộ tranh Đại thừa thì
từ một con trâu đen chúng ta chăn từ
từ cho đến lúc nó trắng ngần, kết thúc
bằng một vòng tròn. Còn trong “Thập
mục ngưu đồ” của Thiền tông, hành
trình tìm trâu có mười bước:
1. Tìm trâu: Mỗi người chúng ta
đều có một tâm nhưng lại không biết.
Khi được những bậc thiện tri thức nhắc
nhở là chúng ta có một “con trâu” –
một Phật tánh mà lâu nay chúng ta bỏ
quên, không để ý gì đến nó, thì chúng
ta mới đi tìm.
2. Thấy dấu: Để tìm được “con
trâu” này thì chúng ta phải luôn chú
tâm quan sát xem những tâm nào
duyên theo cảnh vốn là những tâm hư
16 Hạnh Huệ
vọng để bỏ ra ngoài. Có như vậy chúng
ta mới lần ra được dấu vết.
3. Thấy trâu: Sau khi lần được dấu
vết thì “con trâu” mới dần lộ ra.
4. Được trâu: Khi thấy được “trâu”
rồi thì chúng ta mới bắt nó lại. Nhưng
lúc đầu, “con trâu” của mình còn rất
hung hăng, mình dẫn đi một đường
nhưng nó cứ xông đi ngõ khác. Do vậy
mà cần phải điều phục.
5. Chăn trâu: Chúng ta phải
dùng dây để xỏ mũi dắt trâu đi, thậm
chí dùng roi đánh… để trị sự ngang
chướng của nó. Vì tâm chúng ta tuy
xưa nay vốn không một vật (bản lai vô
nhất vật) nhưng cứ đụng đâu dính đó.
Cho nên mỗi lần bám vào là mỗi lần
chúng ta lại phải giật “lỗ mũi” cho nó
quay lại. Khó khăn là như vậy! Chỉ khi
nào tâm đã quen quay lại, không theo
cảnh. Lúc ấy, không cần phải chăn nữa,
mình đâu nó sẽ theo đó.
6. Cưỡi trâu về nhà: Lúc này thì đã
yên ổn hoàn toàn, có thể nằm trên lưng
Thiền định 17
trâu mà thổi sáo.
7. Quên trâu còn người: Đến đây
thì những vọng tưởng đã hết, nhưng trí
canh chừng còn.
8. Người, trâu đều quên: Vọng tưởng
đã dứt sạch, trí canh chừng cũng bỏ.
9. Trở về nguồn cội: Lúc bấy giờ
đứng trước cảnh, tâm mình sẽ không
khởi bất cứ niệm nào nữa và như vậy,
mình sẽ thấy vạn vật với mình không
còn tách biệt nữa. Không có năng với
sở. Không có người đứng coi và vật bị
coi nữa.
10. Thõng tay vào chợ: Tâm mình đã
thuần thục, đã hoàn toàn thánh thiện,
hồn nhiên không dính mắc thì mình
lại sống với đời bằng một cái nhìn mới,
làm đẹp cuộc đời hơn bằng cách tự lợi
và lợi tha.
Trên đây, chúng ta vừa tìm hiểu
sơ qua những lối thiền từ xưa đến nay.
Còn bây giờ, có ba cách hành thiền
chúng ta có thể áp dụng được dễ dàng
trong cuộc sống hằng ngày:
18 Hạnh Huệ
1. Thân hành niệm: Thân ở đâu thì
tâm ở đó, chú tâm hoàn toàn vào những
hoạt động của thân không duyên theo
cảnh khác. Thời đức Phật có ông Bàla-môn tên là Badhya. Trong một lần
đi buôn, ông bị đắm tàu và may mắn
bám vào được một miếng ván. Khi lên
được đến bờ thì ông không còn mảnh
vải che thân. Ông bèn lấy vỏ cây che
thân mình lại, rồi đi khất thực để sống
qua ngày. Tuy nhiên, dân chúng thấy
Badhya như thế, họ cho ông là A-lahán và đua nhau đem quần áo, vật thực
đến cúng dường. Ông này thấy vậy
rất khoái chí, vì không phải làm gì cả
mà vẫn có đầy đủ thức ăn, nước uống,
quần áo, cho nên ngày nào ông cũng đi
khất thực. Lúc đó, có một vị Trời, đệ tử
của Phật và cũng là bạn của ông trong
kiếp trước, thấy vậy sợ ông bị đọa lạc,
đến gặp ông và bảo: “Ông không phải
là một vị A-la-hán mà tại sao lại nhận
mình là A-la-hán, nhận đồ cúng dường
như vậy rất là tội lỗi”. Ông hỏi: “Như
Thiền định 19
vậy cách nào để có thể làm được một
vị A-la-hán?”. Người bạn đề nghị ông
đến gặp Phật – người đã chứng được
quả A-la-hán. Ông liền đến thành Xávệ, gặp lúc đức Phật đang đi khất thực.
Ông bèn xin đức Phật chỉ dạy nhưng
đức Phật bảo rằng đây không phải
thời. Nhưng ông năn nỉ quá, đức Phật
bèn quán sát căn cơ thấy rằng ông sắp
chết, nên đức Phật dạy: “Này Badhya,
phương pháp để trở thành A-la-hán
cũng không có gì nhiều. Khi nào thấy
chỉ là cái thấy, khi nào nghe chỉ là cái
nghe, khi nào ngửi chỉ là cái ngửi, khi
nào nếm chỉ là cái nếm, khi nào xúc
chạm chỉ là cái xúc chạm và khi nào suy
nghĩ chỉ là cái suy nghĩ. Tức là chánh
niệm trong ngũ uẩn, chứ không có gì
khác”. Ông nghe xong, bèn ngồi xuống
một gốc cây suy tư rồi chứng quả A-lahán, dứt sạch mười kiết sử. Sau đó, ông
đứng lên đi được vài bước thì bị một
con bò xông tới húc chết. Khi đức Phật
trên đường đi khất thực trở về, thấy ông
- Xem thêm -