Luận văn
Thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ
lực của Việt Nam: thực trạng và giải phá
1
LỜI NÓI ĐẦU
Phương hướng phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam thời kỳ
2000-2020 là tiếp tục mở rộng hoạt động ngoại thương theo hướng đa
dạng hoá, đa phương hoá, tích cực hội nhập vào kinh tế khu vực và thế
giới. Tuy nhiên khi chấp nhận hoà nhập vào kinh tế khu vực và kinh tế thế
giới là chấp nhận xu hướng hợp tác trong cạnh tranh gay gắt. Đây là thời
cơ vừa là thách thức, đòi hỏi cơ quan quản lý cũng như doanh nghiệp phải
có các định hướng phát triển thị trường xuất nhập khẩu và các biện pháp
phù hợp trong hoàn thiện chính sách ngoại thương, nhằm đẩy mạnh xuất
nhập khẩu theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước.
Trong quá trình công nghiệp hoá, sự chuyển dịch cơ cấu xuất nhập
khẩu không chỉ phản ánh sự tiến hoá của các hình thái nhu cầu phục vụ
sản xuất và tiêu dùng trong phạm vi từng quốc gia mà còn phản ánh sự
phân bố lại năng lực sanr xuất trên phạm vi toàn cầu. Chính vì vậy, công
nghiệp hoá hướng xuất khẩu là một định hướng vô cùng quan trọng đưa
nền kinh tế đất nước đêns thành công.
Xuất khẩu thể hiện nhu cầu về hàng nội của các quốc gia khác nhau
đối với quốc gia chủ thể và nhập khẩu thể hiện nhu cầu về hàng ngoại của
quốc gia chủ thể. Xuất khẩu còn có thể chỉ ra được những lĩnh vực có thể
chuyên môn hoá, những công nghệ và tư liệu sản xuất trong nước còn
thiếu để sản xuất ra sản phẩm xuất khẩu đạt được chất lượng quóc tế. Sự
chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu còn giữ vai trò quyết định làm chuyển dịch
cơ cấu kinh tế chung cả nước do hai chức năng cơ bản của nó là: làm
chuyển dịch cơ cấu đầu tư và nâng cao hiệu quả kinh tế.
Để đạt được mục tiêu tăng giá trị xuất khẩu tuyệt đối hơn 2 tỷ
USD/năm đòi hỏi nhiều biện pháp. Nhưng trong đó vấn đề vấn đề tìm
kiến thị trường xuất khẩu của Việt Nam có một vị trí đặc biệt quan trọng
quyết định đến sự thành công của kế hoạch.
2
Trên cơ sở đánh giá tầm quan trọng của xuất khẩu và thị trường xuất
khẩu em chọn đề tài “Thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của
Việt Nam: thực trạng và giải pháp”.
Nội dung của đề tài gồm ba phần:
. Những lý luận cơ bản về thị trường xuất khẩu nói chung và thị
trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực nói riêng.
. Thực trạng của thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam
. Các giải pháp phát triễn thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực
của Việt Nam.
3
CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU
NÓI CHUNG VÀ THI TRƯỜNG XUẤT KHẨU CÁC
MẶT HÀNG CHỦ LỰC NÓI RIÊNG
I.
BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG VÀ THỊ TRƯỜNG
XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC
1.
Bản chất của thị trường và thị trường xuất khẩu câc mặt hàng
chủ lực
Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền với sản xuất và lưu
thông hàng hoá, ở đâu có sản xuất và lưu thông thì ở đó có thị trường.
Ta có thể hiểu thị trường theo hai giác độ: thị trường là tổng thể các
quan hệ lưu thông hàng hoá-tiền tệ. Theo cách khác thì, thị trường là tổng
khối lượng cầu có khả năng thanh toán và cũng có khả năng đáp ứng.
Theo quan điểm của người bán, thị trường là những khách hàng có
tiềm năng tiêu thụ, có nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ trong một thời gian
nhất định và chưa được thoả mản chứ không thể quan niệm thị trường đơn
giản là khu vực hay một phạm vi địa lý nào.
Thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam là một
thương nhân nước ngoài có tiềm năng tiệu thụ, có nhu cầu các mặt hàng
chủ lực của Việt Nam trong một thời gian nhất định và chưa được thoả
mản.
Một khi trên thị trường có nhiều người mua, nhiều người bán và
nhiều hàng hoá tương tự về chất lượng giá cả tất yếu nảy sinh cạnh tranh
trên thị trường-cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, về phương thức giao
dịch mua bán, giữa những người mua với nhau. Cạnh tranh là bộ máy
điều chỉnh trật tự thị trường, là yếu tố quan trọng khích thích tích cực tính
4
đa dạng và nâng cao chất lượng sản phẩm cho phù hợp với yêu cầu của
người tiêu dùng, là yếu tố phát triễn thị trường.
Phát triễn thị trường là mục tiêu, phương thức quan trọng để tồn tại
và chiến thắng trong cạnh tranh. Có mở rộng và phát triễn thị trường thì
mới tăng nhanh doanh số bán, mới duy trì mối quan hệ thường xuyên gắn
bó với khách hàng. Đồng thời cũng cố uy tín của doanh nghiệp, không
ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Để nắm vững được các yếu tố của thị trường, hiểu biết về quy luật
vận động của chúng nhằm ứng xử kịp thời, mỗi nhà kinh doanh nhất thiết
phải tiến hành các hoạt động về nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc phát triễn và nâng cao hiệu quả kinh tế, đặc biệt là trong công
tác xuất khẩu hàng hoá của quốc gia, mỗi doanh nghiệp nghiên cứu và
nắm vững biến động của tình hình thị trường và giá cả hàng hoá trên thế
giới là những tiền đề quan trọng đảm bảo cho các tổ chức xuất khẩu hoạt
động trên thị trường thế giới có hiệu quả cao nhất.
Đối với các tổ chức xuất khẩu, nghiên cứu thị trường hàng hoá trên
thế giới phải trả lời được các câu hỏi: xuất khẩu cái gì, dung lượng của thị
trường hàng hoá đó ra sao, sự biến động của giá cả hàng hoá đó như thế
nào, thương nhân trong giao dịch là ai, với phương thức giao dịch nào và
cuối cùng là chiến thuật kinh doanh của từng giai đoạn để đạt được mục
tiêu đề ra.
2.
Vai trò của xuất khẩu hàng hoá nói chung và các mặt hàng chủ
lực nói riêng.
Đối với những nước đang phát triễn như nước ta, sự phát triễn của
xuất khẩu nói chung và xuất khẩu các mặt hàng chủ lực nói riêng sẽ có
một ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triễn của đất nước. Đặc biệt là
trong quá trình khu vực hoá, toàn cầu hoá như hiện nay xuất khẩu càng
đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập nền kinh tế nước ta
với nền kinh tế thế giới.
5
Trước hết xuất khẩu sẽ mang lại một nguồn thu ngoại tệ cho đất nước
góp phần quan trọng vào việc cải thiệt cán cân thương mại và cán cân
thanh toán, đây là nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước, tăng khả năng dự
trữ ngoại tệ, tăng khả năng nhập máy móc thiết bị và nhiên liệu cho việc
phát triễn công nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nhỏ
là phổ biến, khu vực nông nghiệp chiếm đại bộ phận dân cư nhưng khả
năng tích luỹ kém, khả năng tích luỹ của công nghiệp cũng thấp thì xuất
khẩu có vai trò ngày càng to lớn, đủ trở thành nguồn thu nhập chủ yếu của
nền kinh tế quốc dân.
Người ta nhận thấy, thu nhập nhờ hoạt động xuất khẩu đã vượt tất cả
các nguồn thu nhập khác tại các nước đang phát triễn ở châu Á. Điều đó
chứng tỏ rằng trong quan hệ kinh tế giữa các nước, kể cả các nước có
trình độ phát triễn, chênh lệch nhau rất nhiều, thì hoạt động ngoại thương
đóng vai trò chủ yếu, chứ không phải do các điều kiện viện trợ ưu đãi
khác quyết định.
Ngoài việc tạo ra nguồn tích luỹ chủ yếu cho nền kinh tế, xuất khẩu
còn góp phần quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề sau:
Nhờ xuất khẩu tăng, khả năng nhập khẩu cũng tăng, tạo ra điều kiện
tăng cường đưa ra các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vfa nguyên vật liệu
phục vụ cho sản xuát góp phần quan trọng vào sự đổi mới nền kinh tế.
Sự phát triễn của các ngành sản xuất hàng xuất khẩu mở ra khả năng
mới, thu hút lực lượng lao động ngày càng nhiều, góp phần giải quyết vấn
đề việc làm. Vấn đề việc làm vừa mang tính chất kinh tế, vừa mang tính
chất xã hội. Đây là hướng giải quyết tình trạng thất nghiệp, đưa một bộ
phận lao động chưa có việc làm tham gia vào sự phân công lao động quốc
tế dưới dạng “xuất khẩu lao động tại chổ”.
Một khía cạnh hết sức có ý nghĩa là thông qua phát triễn kinh doanh
xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu khách hàng về sản xuất ra sản phẩm có trình
độ kỹ thuật, tiêu chuẩn quốc tế, mà đào tạo rèn luyện về trình độ kỹ thuật
và chuyên môn hoá lành nghề cho một bộ phận lao động. Đây là cơ sở để
mở ra một xu hướng mới, làm tăng cường xuất khẩu và xuất khẩu các mặt
6
hàng có hàm lượng ky thuật cao. Đó cũng là một tiền đề, nền kinh tế có
một bước chuyển về chất từ nông nghiệp sang công nghiệp.
Xuất khẩu còn góp phần quan trọng vào việc giải quyết vấn đề sử
dụng có hiệu quả cao hơn các nguônf tài nguyên thiên nhiên. Việc đưa
các nguồn tài nguyên này tham gia vào sự phân công lao động quốc tế,
thông qua việc phát triễn các ngành chế biến xuất khẩu, góp phần nâng
cao giá trị của hàng hoá.
Như vậy xuất khẩu không chỉ đóng vai trò “chất xúc tác” hỗ trợ sự
phát triễn, mà đã trở thành một nhân tố rất quan trọng trong dự phát triễn
của nền kinh tế quốc dân.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA XUẤT KHẨU HÀNG HÓA NÓI CHUNG
VÀ XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC NOÍ RIÊNG
1.
Nhận biết về mặt hàng xuất khẩu
Việc nhận biết mặt hàng xuất khẩu nói chung và xuất khẩu các mặt
hàng chủ lực nói riêng trước tiên phải dựa vào nhu cầu của sản xuất và
tiêu dùng về quy cách và chủng loại, giá cả, thời vụ và các thị hiếu cũng
như tập quán của từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất. Từ đó, sẽ tiến hành
xem xét các khía cạnh của hàng hoá trên thế giới. Về khía cạnh thương
phẩm, phải hiểu giá trị, công dụng, các đặc tính của nó, quy cách phẩm
chất, mẩu mã. Nắm bắt được đầy đủ về giá cả hàng hoá, khả năng sản
xuất và nguồn cung cấp chủ yếu của các công ty cạnh tranh, các hoạt động
dịch vụ phục vụ cho hàng hoá như bảo hành, cung cấp phụ tùng, hướng
dẫn sử dụng...
Việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu không những chỉ dựa vào các tính
toán hay ước tính, những biểu hiện cụ thể của hàng hoá, mà còn phải dựa
vào những kinh nghiệm của người nghiên cứu thị trường để dự đoán được
các su hướng biến động của giá cả thị trường trong nước cũng như nước
ngoài, khả năng thương lượng để đạt được điều kiện mua bán ưu thế hơn.
7
2.
Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên
một phạm vi thị trường nhất định trong một thời kỳ nhất định. Nghiên cứu
về dung lượng thị trường cần xác định được nhu cầu thật của khách hàng,
kể cả lượng dự trữ, xu hướng biến đổi của nhu cầu trong từng thời điểm,
các vùng, các khu vực có nhu cầu lớn và đặc điểm của nhu cầu cho từng
khu vực,từng lĩnh vực sản xuất, tiêu dùng. Cùng với việc xác định nắm
bắt nhu cầu là việc nắm bắt khả năng cung cấp của thị trường bao gồm
việc xem xét các dặc điểm, tính chất, khả năng của sản xuất hàng thay
thế, khả năng lựa chọn mua bán. Một vấn đề cũng cần được quan tâm nắm
bắt trong khâu này đó là tính chất thời vụ của sản xuất(cung) và tiêu
dùng(cầu) hàng hóa đó trên thị trường thế giới để có các biện pháp thích
hợp trong từng giai đoạn để đảm bảo cho việc xuất khẩu có hiệu quả.
Dung lượng thị trường xuất khẩu hàng hoá nói chung và hàng hoá
chủ lực nói riêng là không ổn định, nó thay đổi tuỳ theo diễn biến của tình
hình, do tác động tổng hợp của nhiều nhân tố trong những giai đoạn nhất
định. Các nhân tố làm cho dung lượng thi trường thay đổi có thể chia làm
ba loại căn cứ vào thời gian ảnh hưởng của chúng đối với thị trường:
Loại thứ nhất là các nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến
động có tính chất chu kỳ. Đó là sự vận động của tình hình kinh tế tư bản
chủ nghĩa và tính chất thời vụ của sản xuất, lưu thông và phân phối hàng
hóa.
Sự vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa là nhân tố quan
trọng ảnh hưởng đến tất cả các thị trường hàng hoá thế giới. Sự ảnh
hưởng này có thể trên phạm vi thế giới, khu vực, phải lưu ý phân tích sự
biến động trong các nước giữ vai trò chủ yếu trên thị trường. Khi nền kinh
tế tư bản rơi vào khủng hoảng tiêu điều thì dung lượng thị trường bị co
hẹp và ngược lại thì được mơ rộng.
Nhân tố thời vụ ảnh hưởng tới thị trường hàng hoá trong khâu sản
xuất, lưu thông các laọi hàng hoá khác nên sự tác động của các nhân tố
này rất đa dạng với các mức độ khác nhau.
8
Loại thứ hai là các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến động của
thị trường bao gồm tiến bộ khoa học kỹ thuật, các biến pháp chính sách
của nhà nước và các tập đoàn tư bản lũng đoạn, thị hiếu, tập quan người
tiêu thụ, ảnh hưởng của khả năng sản xuất hàng thay thế.
Loại thứ ba là các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đối với dung lượng
của thị trường nói chung và đối với thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ
lực nói riêng là như hiện tượng đầu cơ gây ra những đột biến về cung cầu,
các yếu tố tự nhiên như thiên tai, bảo lụt, động đất... các yếu tố về chính
trĩĩa hội như đình công...
Khi nghiên cứu sự ảnh hưởng của các nhân tố phải thấy được nhóm
các nhân tố tác động chủ yếu trong từng thời kỳ kể cả trước kia, hiện nay
và xu hướng tiếp theo.
Nắm được dung lượng thị trường của các nhân tố ảnh hưởng đến nó
trong từng thời kỳ có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh
xuất khẩu hàng hoá nói chung và các mặt hàng chủ lực nói riêng giúp cho
các nhà xuất khẩu cân nhức để đề ra quyết định kịp thời, chính xác, nhanh
chóng chớp thời cơ giao dịch nhằm đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất.
Cùng với việc nghiên cứu dung lượng thị trường, người kinh doanh phải
nắm bắt được tình hình kinh doanh mặt hàng đó trên thị trường, các đối
thủ cạnh tranh của mình và đặc biệt là các điều kiện chính trị, thương mại,
luật pháp, tập quán buôn bán quốc tế từng khu vực để có thể hoà nhập với
thị trường nhanh chóng có hiệu quả, tránh được những sơ suất giao dịch
buôn bán.
3.
Lựa chọn đối tượng buôn bán
Trong thương mại quóc tế, bạn hàng, khách hàng là những người
hoặc những tổ chức có quan hệ giao dịch với ta nhằm thực hiện các hoạt
động hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật liên quan đến việc cung cấp hàng
hoá.
Xét về tính chất các mục đích hoạt động, khách hàng trong thương
mại quốc tế có thể chia làm ba loại:
9
. Các hãng hay các công ty
. Các liên đoàn kinh doanh
. Các cơ quan nhà nước
Phần lớn các nghiệp vụ mua bán trong kinh doanh thương mại quốc
tế do các hãng hay các công ty thực hiện.
Việc lựa chọn các đối tượng giao dịch có căn cứ khoa học là điều
kiện quan trọng để thực hiện thắng lợi các hoạt động mua bán trong
thương mại quốc tế. Song viẹc lựa chọn các đối tượng giao dịch cũng tuỳ
thuộc vào kinh nghiệm của người nghiên cứu và truyền thống trong mua
bán của mình.
Thị trường hàng hoá thế giới trong thương mại quốc tế nói chung và
xuất khẩu các mặt hàng chủ lực nói riêng là hết sức cần thiết và quan
trọng. Đây là môi trường để xuất khẩu hàng hoá nói chung và các mặt
hàng chủ lực nói riêng được thực hiện và thực hiện có hiệu quả.
III. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ NÓI
CHUNG VÀ XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC NÓI
RIÊNG
1.
Các thuế quan và hạn ngạch(tariffs and quotas)
Thuế quan có thể gây ảnh hưởng rất lớn đến sức cạnh tranh của sản
phẩm xuất khẩu nói chung và các mặt hàng chủ lực của ta đối với sản
phẩm của bản xứ. Hiện nay xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực của ta vào
một số thị trường phải chịu thuế suất rất cao như dệt may, da dày, hải
sản... làm giản khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị
trường thế giới.
Thuế quan còn ảnh hưởng tới sức cạnh tranh đối với các sản phẩm
đến từ nước thứ ba, các sản phẩm này đôi khi phải chịu tỷ lệ thuế quan
khác nhau. Ví dụ như cùng một mặt hàng, cùng tính năng, cùng chất
lượng như nhau nhưng hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ
phải chịu một tỷ lệ thuế suất rất cao so với các nước khác xuất khẩu sang
Mỹ do các nước này được hưởng quy chế tối huệ quốc của Mỹ.
10
Phần lớn các nước đều sử dụng loại hạn ngạch nhập cảng dưới hình
thức này hay hình thức khác. Các loại hạn ngạch thường được ưa chuộng
hơn là thuế quan và nói chung nó là đối tượng điều chỉnh thông dụng hơn.
Bất cứ lúc nào hạn ngạch đều có thể hạn chế một cách hữu hiệu thị phần
có thể tiếp cận được đối với nhà cung cấp nước ngoài hay đối với các nhà
xuất khẩu của một số nước. Trong nhiều trường hợp, chính các hạn ngạch
nhập khẩu của nước nhập khẩu có thể đóng kín cữa thị trường hoàn toàn
cho các nhà cung cấp nước ngoài.
2.
Các quy định liên quan đến sức khoẻ và an toàn
Trong nhiều nước, việc nhập cảng hay bán hàng hoá đều tuỳ thuộc
vào các quy định nghiêm khắc về vệ sinh và an toàn, nhất là nếu liên hệ
đến thực phẩm hay các loại hàng hoá có thể tiếp xúc được với miệng lưỡi.
Vả lại, các quy định dựa trên các nhận xét về môi sinh càng ngày càng có
tầm quan trọng. Các quy định này có thể liên hệ đến nguyên liệu đã được
sử dụng, cách thức chế biến hay còn gồm cả bao bì và nhãn hiệu. Nhiều
nước chẵng hạn quy định việc sử dụng các tác nhân đối với việc chế biến
thực phẩm và đối với thành phần chất hoá học của các chất màu dùng làm
trang trí chén bát và đồ chơi.
Nếu không biết hoặc thiếu thông tin về vấn đề này, nhà xuất khẩu có
thể bị loại khỏi thị trường. Do vậy, nhà xuất khẩu phải thu thập thông tin
đầy đủ trước khi gia nhập thị trường
3.
Các yếu tố kinh tế
Khả năng mua hàng của người dân, dĩ nhiên ảnh hưởng đến số lượng
mà họ có thể mua và ảnh hưởng đến loại sản phẩm mà họ chọn để mua.
Nếu có một tỷ lệ lớn dân số quá nghèo, thị trường tiềm năng của nhiều
loại sản phẩm có lẻ sẽ bị hạn chế, hơn là nếu phần lớn các người tiêu thụ
lại sống trong tình trạng giàu có, sung túc.
Nếu một nước đang ở tình trạng có tốc độ gia tăng kinh tế nhanh và
nếu các khu vực dân số có lẽ sắp thụ hưởng mức gia tăng lợi tức quốc gia,
11
các triễn vọng bán nhiều sản phẩm, dĩ nhiên sẽ có nhiều hứa hẹn hơn là
nền kinh tế của một nước có thể phải trãi qua một thời kỹ trì trệ.
Vì thế, các nhà xuất khẩu phải thiết lập một dự phòng mức cầu của
sản phẩm trong một nước nhất định bằng cách xem xét các yếu tố, như
viễm tượng tổng quan của nền kinh tế, tình hình dân dụng, mức lợi tức và
phân phối lợi tức.
Tuy nhiên các nhà xuất khẩu phải cẩn thận khi thiết lập các mối
tương quan giữa các yếu tố trên và mức cầu sản phẩm của mình. Khi lợi
tức của họ giảm, người tiêu thụ có khuynh hướng giảm mua các mặt hàng
xa xỉ, trước khi từ chối mua các sản phẩm tối thiểu cần thiết. Mặt khác,
đối với nhiều sản phẩm, các nước nghèo đôi khi lại có nhiều thị trường
đầy hứa hẹn hơn là những nước giàu.
4.
Các yếu tố về văn hoá và xã hội
Chúng ta đã thấy các sự khác biệt về lợi tức, trình độ học vấn của dân
chúng đều có thể ảnh hưởng đến việc mua loại sản phẩm nào. Nhiều yếu
tố xã hội và văn hoá khác cũng có thể làm biến đổi các triễn vọng bán một
sản phẩm và cách thức để thương mại nó như: động thái, niềm tin tôn
giáo, phong tục tập quán. Tóm lại là phong cách sống của dân cư.
Thỉnh thoảng, những người tiêu thụ có những thái độ tiêu cực đối với
một nước hay đối với các sản phẩm của nước đó. Theo thói quen mua
hàng của họ, sở thích của họ. Họ có thể có khuynh hướng ưu chuộng hay
từ chối đối với một số màu sắc. Khi thì họ bị cuốn hút bởi các sản phẩm
có bề ngoài “lạ mắt”, khi thì họ quay lưng lại với nó.
Vì vậy các nhà xuất khẩu trướnc khi xuất khẩu cần nghiên cứu kỹ các
yếu tố ảnh hưởng của thị trường xuất khẩu.
12
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CÁC
MẶT HÀNG CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM
I.
ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG
CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM
1.
Về cơ hội
Thành quả 15 năm đổi mới nền kinh tế đã đưa “thế” và “lực” của
nước ta lên một tầm cao mới. Trong xu thế toàn cầu hoá khu vực hoá
thành một xu hướng tất yếu thúc đẩy hầu hết các quốc gia mở rộng thị
trường bằng cách giảm bớt, thậm chí xoá bỏ hàng rào thuế quan và phi
thuế quan; chuyển dịch một cách thông thoáng hàng hoá, vốn đầu tư, tiền
tệ, dịch vụ, lao động giữa các quốc gia với quy mô ngày càng lớn; hình
thành vô số tổ chức kinh tế, tài chính mang tính toàn cầu và khu vực; ký
kết hàng vạn hiệp định song phương đa phương, hàng trăm công ước kinh
tế quốc tế, phát triển nhiều tập đoàn xuyên quốc gia...Khu vực hoá tập
hợp những quốc gia trong từng khu vực với những mục đích đa dạng,
hình thức phong phú. Khu vực hoá góp phần thúc đẩy tự do hoá thương
mại, đầu tư, dịch vụ trong phạm vi khu vực cũng như giữa các khu vực,
tao lập những khu vực rộng lớn với một chính sách tài chính tiền tệ, công
nghệ, thị trường thống nhất, giúp cho các quốc gia thành viên tiết kiệm
chi phí, tạo mối trường kinh doanh có hiệu quả, tạo lợi thế trong hợp tác
cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Việt Nam cũng không nằm trong xu
thế đó, ta đã có quan hệ kinh tế với hơn 130 nước trên thế giới và nhiều tổ
chức kinh tế, tài chính quốc tế. Hàng hoá Việt Nam đã có mặt tại tất cả
các nước lớn như: Mỹ, EU, Nhật Bản và các trung tâm kinh tế lớn. Một số
ngành sản xuất phát triễn với tốc độ cao, tạo được khối lượng lớn về sản
13
phẩm hàng hoá chất lượng cao, ổn định, giá thành hạ, có sức cạnh tranh
trên thị trường quốc tế. Cơ chế chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu ngày
càng được thông thoáng, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các doanh
nghiệp hoạt động.
Thành tựu to lớn về đối ngoại của nước ta và những diễn biến trên thị
trường thế giới đã đặt nước ta nhiều thuận lợi mới để mở rộng hơn nữa
kinh tế đối ngoại làm cho nền kinh tế đối ngoại trở thành đòn bẩy quan
trọng góp phần thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế.
Thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam như: dầu
thô, hàng dệt may, thuỷ sản, gạo, cà phê, hàng da, than đá, cao su, điện tửtin học-viễn thông chủ yếu tập trung ở các thị trường như khu vực Châu
Á-Thái Bình Dương chiếm 57,4%, khu vực Âu-Mỹ chiếm 37%, khu vực
Châu Phi chiếm khoảng 4,6%.
Nhìn vào cơ chế xuất khẩu hàng chủ lực của Việt Nam thì thấy khu
vực Châu Á-Thái Bình Dương chiếm ưu thế 37,4%. Trong những thập kỹ
tới khu vực này vẫn tiếp tục phát triễn năng động và đạt tốc độ tăng
trưởng cao hơn các khu vực khác. Nổi bật nhất là Trung Quốc, Hàn Quốc,
Đài Loan, Malayxia, Thái Lan, Xingapo, Ấn Độ. Trong khu vực, xu
hướng tự do hoá thương mại và đầu tư càng phát triễn mạnh mẽ, tiếp tục
diễn ra sự liên kết nhiều nấc: đại khu vực, khu vực, tiểu khu vực, tứ gíac,
tám giác. Về tình hình chính trị thì khu vực Châu Á-Thái Bình Dương là
đối tượng ổn định so với các khu vực khác. Các trung tâm kinh tế thế giới,
các nước lớn đều hướng trọng tâm hoạt động kinh tế, chính trị và Châu ÁThái Bình Dương, xem đây là chứa đựng nhiều yếu tố quyết định sự phát
triễn của mình. Nhiều dự báo cho rằng, trong thế kỷ 21 trung tâm thương
mại thế giới sẽ chyển sang Châu Á-Thái Bình Dương.
Một sự kiện rất quan trọng đối với thị trường xuất khẩu của chúng ta
là hiệp định thương mại Việt-Mỹ đã được ký kết và hạ nghị viện và
thượng nghị viện Mỹ vừa thông qua mở ra một cơ hội to lớn vèe giao lưu
buôn bán thương mại giữa hai nước. Thị trường Mỹ là một thị trường lớn
được đánh giá là thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới. Các nhóm hàng mà
14
Việt Nam có thể xuất khẩu sang Mỹ đó là: cà phê, chè, gia vị, hải sản chế
biến, nhất là tôm đông lạnh và hàng dệt may mặc. Ngoài những mặt hàng
trên, Việt Nam có những thế mạnh như: cao su, dàu thô, dầu thực vật, hoa
quả nhiệt đới, các loại đậu, hàng thủ công mỹ nghệ, đồ chới trẻ em.. dều
có thể xuất khẩu sang Mỹ.. Những thành quả to lớn về đối nội, đối ngoại
của nước ta và những diễn biến trên thị trường đã đặt nước ta nhiều thuận
lợi mới để mỏ rộng kinh tế đối ngoại, làm cho kinh tế đối ngoại nói chung
và xuất khẩu nói riêng trỏ thành đòn bẩy để thúc đẩy nhanh sự tăng
trưởng kinh tế. Về tình hình chính trị – xã hội của nước ta ổn định, sự cải
tiến liên tục tình hình kinh tế, pháp luật, chính sách thông thoáng đó là
những nhân tố tạo niềm tin và hấp dẫn với các đối tác nước ngoài.
2.
Về khó khăn và thách thức
Mặc dù thành quả của 15 năm đổi mới đã làm cho bộ mặt kinh tế
nước tá khác xa hơn trước. Nhưng chúng ta cũng phải thừa nhận một thực
tế rằng nước ta là một nước kém phát triễn. Thách thức gay gắt nhất là
nguy cơ tụt hậu về kinh tế ngày càng xa so với các nước trong khu vực và
trên thế giới do phát triễn của nước tá quá thấp, lại phải đối phó cạnh
trnah gay gắt trên thị trường quốc tế. Không hội nhập thị trường được;
nhưng hội nhập với nền kinh tế thế giới, nền kinh tế của nước ta lại không
tránh khỏi phải chịu ảnh hưởng của xu thế “tự do hoá thương mại”, của
biến động giá cả quốc tế và lãi suất ngân hàng, của tình hình cung cầu và
vốn đầu tư, của nhu cầu đa dạng của thị trường nước ngoài trong khi bố
trí cơ cấu kinh tế...
Về hàng xuất khẩu caủa Việt Nam nói chung và cũng như hàng xuất
khẩu chủ lực của nước ta đang đứng trước một sự cạnh tranh gay gắt với
các khu vực như: Thái Lan, Indonesia, Philíppin, Malaysia...Đặc biệt là
Trung Quốc vừu trở thành viên chính thức của tổ chức Thương mại thế
giới WTO đủ tạo ra một lợi thế rất lớn cho hàng Trung Quốc cạnh tranh
chiếm thị phần các thị trường trên thế giới. Việc Trung Quốc gia nhập
WTO là một cản trở rất lớn cho hàng hoá Việt Nam thâm nhập thị trường
thế giới. Bởi vì những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như:
15
may mặc, da dày, hàng nông sản, thủ công mỹ nghệ... cũng là thế mạnh
của Trung Quốc.
Mỹ và phương tây tiếp tục thực hiện mưu toán “diễn biến hoà bình” ở
Việt Nam, gây áp lực với ta về vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, đa
nguyên đa đảng. Chính sách hai mặt của Trung Quốc đối với Việt Nam
chưa hề thay đổi; hành động lấn chiếm lãnh thổ của ta, đặc biệt là trên
biển, đặt ta trong tình trạng luôn luôn phải cảnh giác. Đối phó với sức uy
hiếp ngày càng tăng, cuộc chạy đua trong khu vực Châu Á-Thái Bình
Dương diễn ra hết sức phức tạp, đe doạ an ninh chủ quyền lãnh thổ nước
ta buộc chúng ta phải hết sức coi trọng việc cũng cố và taưng cường khả
năng quốc phòng.
Bên cạnh đó nền kinh tế của chúng ta còn nhiều yếu kém: đội ngủ
cán bộ làm công tác đối ngoại vừa thiếu lại vừa yếu; tổ chức bộ máy kinh
tế kém hiệu quả đã tác động không thuận đến sự phát triễn kinh tế đối
ngoại.
Những tình hình trên đã đặt nước ta nững khó khắn trong hoạch định
chiến lược cũng như trong điều hành quản lý, đòi hỏi nước ta phải phát
triễn vượt bậc, mau chống trưởng thành để đủ sức chống đỡ các ảnh
hưởng nói trên
3.
Cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu chủ lực sang các thị trường
3.1. Nhóm hàng nguyên vật liệu
Nhóm hàng này với hai mặt hàng chính là dầu thô và than đá chiếm
trên 20% kim nghạch xuất khẩu của nước ta. Đối với mặt hàng dầu thô,
thị trường xuất nhập khẩu gồm: Ôxtraylia, Singapore, Nhật Bản và Trung
Quốc, mặt hàng xuất khẩu chủ lực này trong tương lai sẽ giảm dần sau khi
nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động. Dự kiến đến năm 2005
lượng dầu thô xuất khẩu vchỉ còn là 12 triệu tấn so với hiện nay là 16
triêụ tấn. Và đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu dầu thô sẽ giảm đáng kể.
Về than đá, thị trường xuất khẩu chủ yếu là Nhật Bản, Trung Quốc,
Tây Âu... Dự kiến nhu cầu nội địa sẽ tăng đáng kể do xây các nhà máy
16
nhiệt điện mới nên dù sản lượng có thể lên tới 15 triệu tấn/năm(hiện nay
là 10-12 triệu tấn/năm) xuất khẩu cũng chỉ dao động ở mức 4 triệu tấn(5
trong 10 năm tới, mang lại kim ngạch khoảng 120-150 triệu USD). Nhìn
chung giá xuất khẩu than khó có khả năng tăng đột biến do nguồn cung
ứng trên thị trường thế giới tương đối dồi dào, vả lại vì lý do môi trường
nên cầu có xu hướng giảm.
Khả năng tăng xuất khẩu các loại khoáng sản khác để bù vào thiếu
hụt của dầu thô và than đá là rất hạn chế. Như vậy, tới năm 2005, nhóm
nguyên liệu có khả năng chỉ còn đóng góp 9% kim ngạch xuất khẩu(2,5 tỷ
USD) so với trên 20% hiện nay; đến năm 2010 tỷ trọng của nhóm này sẽ
giảm xuống còn chưa đầy 1%(dưới 500 triệu USD) hoặc 3.5%(khoảng
1,75 tỷ USD), tuỳ theo phương án khai thác dầu thô. Vì vậy, việc tìm ra
các mặt hàng mới để thay thế là một thách thức lớn đối với việc gia tăng
xuất khẩu.
3.2. Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản
Hiện nay nhóm hàng này chiếm gần 25% kim ngạch xuất khẩu với
những mặt hàng chủ yếu là gạo, cà phê, cao su, rau quả, thuỷ sản, hạt tiêu,
và nhân điều, tất cả đều đạt kim ngạch trên 100 triệu USD/năm. Nhóm
hàng này có xu hướng tăng kim ngạch tuyệt đối nhưng tỷ trọng tuyệt đối
của nhóm sẽ giảm xuống còn 22%(tương đương 5,85 tỷ USD) vào năm
2005 và 17,2%(tương đương 8-8.6 tỷ USD) vào năm 2010. Nguyên nhân
là do xuất khẩu nông nghiệp phải chịu những hạn chế mang tính cơ
cấu(như diện tích có hạn, khả năng khai thác và đánh bắt có hạn). Bên
cạnh đó nhu cầu của thế giới cũng có hạn, giá cả lại không ổn định.
Theo Bộ Thương Mại hạt nhân tăng trưởng của nhóm sẽ là mặt hàng
thuỷ sản bởi tiềm năng khai thác và nuôi trồng còn nhiều, nhu cầu thế giới
lại tăng khá ổn định, bình quân tăng mỗi năm trên 13%. Thị trường xuất
khẩu chính của mặt hàng này là Nhật Bản, Hoa Kỳ, Trung Quốc...
Đối với mặt hàng gạo, do nhu cầu thế giới tương đối ổn định, khoảng
20 triệu tấn/ năm, nhiều nước nhập khẩu chú trọng vào an ninh lương
thực, thâm canh tăng năng suất cây trồng, gia tăng bảo hộ, giảm nhập
17
khẩu. Trong hoàn cảnh đó, dự kiến suốt thời kỳ 2001-2010 nhiều lắm ta
cũng có thể xuất khẩu được khoange 4-4,5 triệu tấn/năm, thu về mỗi năm
khoảng 1 tỷ USD. Để nâng cao kim ngạch, cần đầu tư cải tiến cơ cấu và
chất lượng gạo xuất khẩu; khai thác các thị trường mới như: Trung Đông,
Châu Phi, Nam Mỹ, ổn định và duy trì thị trường truyền thống như
Indonesia, Philippin.. thông qua các hợp đồng G-to-G, nghiên cứu khả
năng phối hợp với Thái Lan để điều tiết nguồn cung, ổn định giá cả thị
trường tăng hiệu quả xuất khẩu gạo.
Đối với hàng cà phê, thị trường xuất khẩu chính vẫn là EU, Hoa Kỳ,
Singapore và Nhật Bản. Nói chung, xuất khẩu cà phê sẽ không gặp khó
khăn lớn về thị trường nhưng giá cả khó ổn định.
Nhìn chung, để nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản đạt được giá trị kim
ngạch xuất khẩu trong tương lai thì cần chú trọng khâu chế biến, bảo
quản, vệ sinh thực phẩm, chuyên chở, đóng gói, phân phối để có thể thẳng
tới khâu tiêu dùng, từ đó nâng cao giá trị gia tăng.
3.3. Sản phẩm chế biến và chế tạo
Hiện nay kim ngạch của nhóm này đã đạt trên 4 tỷ USD, tức là 30%
kim ngạch xuất khẩu. Hạt nhân của nhóm này là dệt may và dày dép. Hiệp
định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ đã được ký kết và thông qua, đây là
một cơ hội rất to lớn để dệt may và dày dép phát triễn, dự báo tới năm
2010 kim ngạch của mỗi mặt hàng đạt khoảng 7-7,5 tỷ USD. Thị trường
xuất khẩu chính của hai mặt hàng này là EU, Nhật Bản, đặc biệt là thị
trường Nhật Bản, đây là thị trường phi quota. Và trong những năm tới
phải gia tăng nổ lực thâm nhập vào các thị trường Mỹ, Trung Đông và
châu đại dương. Do mực tiêu kim ngạch của toàn nhóm chế biến, chế tạo
là trên 20 tỷ USD nên ngoài dệt may và dày dép cần tiếp cận thị trường
quốc tế, dự báo nhu cầu của người tiêu dùng, từ đó không những đáp ứng
mà cố gắng tạo ra những ngành hàng mới. Trước mắt, chủ yéu dựa vào cơ
cấu đầu tư và thực tiến sản xuất trong những năm qua cũng như thị trường
quốc tế, chúng ta cần chú trọng vào những mặt hàng như thủ công mỹ
18
nghệ, thực phẩm chế biến, sản phẩm gỗ, hoá phẩm tiêu dùng, sản phẩm
cơ khí, điện, sản phẩm nhựa.
Mặt hàg thủ công mỹ nghệ hiện nay đạt xấp xĩ 200 triệu USD. Đây là
ngành nhiều tiềm năng, dung lượng thị trường thế giới còn lớn. Nếu có
chính sách đúng đắn để khởi động tiềm năng thì có thể đạt kim ngạch.
II. THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CÁC NMẶT
HÀNG CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM
1.
Các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam
1.1. Thị trường Châu Á- Thái Bình Dương
Thị trường Châu Á - Thái Bình Dương là một thị trường xuất khẩu
trọng điểm của Việt Nam. Với kim ngạch 9,7 tỷ USD chiếm tỷ trong gần
60% trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Với những thuận lợi như
dung lượng thị trường lớn, vị trí địa lý gần gủi, là một khu vực phát triễn
năng động. Tại khu vực này, cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ năm 1998
gần như đã kết thúc với sự phục hồi kinh tế ở các nước Malaysia,
Singapore, Hàn Quốc, Thái Lan... Trong số các nước bị ảnh hưởng
nghiêm trong nhất của cuộc khủng hoảng, Hàn Quốc đã dẫn đầu qua tình
trạng phục hồi với mức tăng GDP 9%(1999) so với 6%(1998), Singapore
có mức tăng 5%(1999) so với mức âm 0,2%(1998), Hồng Kông tăng
0,7%(1999) so với âm 4,7%(1998), Indonesia tăng 2%(1999) so với mức
âm 7,5%(1998), Thái Lan tăng 4%(1999) so với mức âm 8%(1998),
Malaysia tăng 3%(1999) so với mức âm(1998), Philippin tăng
2,9%(1999) so với mức âm 0,2%(1998). Các nước Nam Á như ấn Độ,
Trung Quốc vẫn tiếp tục tăng trưởng ổn định. Đây là điều kiện rất thuận
lợi để giao lưu hàng hoá của Việt Nam vào khu vực Châu Á- Thái Bình
Dương tăng rất nhanh. Dự kiến đến năm 2005 xuất khẩu của Việt Nam
vào khu vực Châu Á-Thái Bình Dương tiếp tục tăng 10-12%/năm, nhưng
từ năm 2006-2010 sẽ còn 8%/năm. Với tốc độ tăng trưởng như dự báo thì
đầu năm 2003 khu vực này chiếm khoảng 60% thị trường xuất khẩu của
cả nước và đến năm 2010 thì còn khoảng 30%.
19
Hàng hoá xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang khu vực này vẫn là
những mặt hàng truyền thống như: dầu thô, gạo, hạt điều, cà phê, cao su,
hải sản, rau quả tươi... Đặc biệt là các sản phẩm gia súc, gia cầm, hoa quả
nhiệt đới, rau củ, dầu thô, khi đốt, điện năng có khả năng tăng mạnh trong
thời gian tới.
Sản lượng một số mặt hàng chủ yếu của Việt Nam có thể xuất khẩu
vào các nước Châu Á-Thái Bìn Dương là:
Dầu thô
10 triệu tấn/năm
Than đá
4 triệu tấn/năm
Gạo
1,5 triệu tấn/năm
Cao su
200.000 tấn/năm
Cà phê
100.000tấn/năm
Chè
50.000 tấn/năm
Hạt tiêu
50.000 tấn/năm
Hạt điều
20.000 tấn/năm
Thuỷ sản
1.000.000 tấn/năm
Dày dép
200 triệu USD
Những mặt hàng này chủ yếu xuất khẩu vào các thị trường trọng
điẻm như: Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc(cả Hồng Kông)
và các nước ASEAN.
1.1.1. ASEAN
ASEAN là một thị trường khá lớn với khoảng 500 triệu dân, ở sat
Việt Nam, tuy trước mắt gặp khó khăn tạm thời song tiềm năng phát triễn
còn lớn.
Việt Nam gia nhập ASEAN là một cái mốc quan trọng đánh dấu sự
chuyển hoá mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước thành viên khác
mang đậm tính chất hợp tác. Nền kinh tế Việt Nam và nền kinh tế các
nước thành viên có thể bổ sung cho nhau đem lại sự phồn vinh cho mỗi
20
- Xem thêm -