Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Sư phạm Thi hành các hình phạt không tước tự do từ thực tiễn Quận Gò Vấp, thành phố Hồ C...

Tài liệu Thi hành các hình phạt không tước tự do từ thực tiễn Quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh

.PDF
87
152
104

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN KHẮC LAN CHI THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO TỪ THỰC TIỄN QUẬN GÒ VẤP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2018 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN KHẮC LAN CHI THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO TỪ THỰC TIỄN QUẬN GÒ VẤP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN HIỂN HÀ NỘI - 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Nguyễn Khắc Lan Chi MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1:MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO..................................................................... 6 1.1. Khái niệm và các đặc điểm thi hành các hình phạt không tước tự do ....... 6 1.2. Nội dung thi hành các hình phạt không tước tự do .................................. 12 1.3 Các nguyên tắc thi hành các hình phạt không tước tự do ......................... 26 Chương 2:THỰC TRẠNG THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DOTRÊN ĐỊA BÀN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH. .................................................................................................... 36 2.1 Khái quát thực trạng thi hành các hình phạt không tước tự do trên địa bàn quận Gò Vấp.................................................................................................... 36 2.2 Một số hạn chế, bất cập trong thực tiễn áp dụng các hình phạt không tước tự do ................................................................................................................. 47 2.3 Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập................................................. 56 Chương 3:GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, TĂNG CƯỜNG HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚCTỰ DO ................................................................................................ 64 3.1 Định hướng, quan điểm về tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động thi hành các hình phạt không tước tự do .............................................................. 64 3.2. Giải pháp .................................................................................................. 65 KẾT LUẬN .................................................................................................... 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Số liệu thống kê số bị cáo áp dụng hình phạt không tước tự do trên địa bàn quận Gò Vấp trong thời gian 06 năm (từ năm 2012 đến năm 2017).37 Bảng 2.2: Số liệu thống kê số người chấp hành hình phạt áp dụng hình phạt không tước tự do trên địa bàn quận Gò Vấp trong thời gian 06 năm (từ năm 2012 đến năm 2017). ....................................................................................... 39 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thi hành các hình phạt không tước tự do là một phần của hoạt động thi hành án hình sự ở nước ta. Đó là hệ thống các hoạt động của các cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án về các loại hình phạt nói trên theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Hình sự 1999, các hình phạt chính không tước tự do bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và trục xuất. Trong các hình phạt này, hình phạt tiền do cơ quan thi hành án dân sự thi hành theo cơ chế riêng, hình phạt trục xuất vừa được quy định là hình phạt chính, vừa được quy định là hình phạt bổ sung. Các hình phạt chính không tước tự do còn lại là cảnh cáo và cải tạo không giam giữ. Các hình phạt chính không tước tự do có vai trò quan trọng không chỉ bảo đảm nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự và cá thể hoá hình phạt mà còn thể hiện được rõ chính sách nhân đạo của luật hình sự. Việc tăng cường hiệu quả của các hình phạt không tước tự do là một trong những vấn đề đang được đặt ra trong quá trình sửa đổi Bộ luật Hình sự nhằm tiếp tục tăng cường chính sách nhân đạo, tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Bộ luật Hình sự năm 2015 tiếp tục thể chế hóa chủ trương hạn chế áp dụng hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt không tước tự do đối với người phạm tội. Cụ thể: áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính không chỉ đối với tội ít nghiêm trọng như trước đây, mà còn được áp dụng ngay cả đối với tội nghiêm trọng, thậm chí là với một số tội rất nghiêm trọng; sửa đổi hình phạt cải tạo không giam giữ theo hướng tăng cường tính cưỡng chế, nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục của loại hình phạt này; khẳng định nguyên tắc không áp dụng hình phạt tù đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý. Để đảm bảo hiệu quả của các hình phạt chính không tước tự do trong pháp luật hình sự Việt Nam cần đưa ra các yêu cầu, các tiêu chuẩn cụ 1 thể trong quá trình lập pháp, quá trình quyết định hình phạt và quá trình chấp hành hình phạt.Tuy nhiên, hệ thống các văn bản quy định về hình phạt không tước tự do trong Luật hình sự Việt Nam còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập; nội dung chưa được quy định cụ thể; các điều kiện áp dụng hình phạt còn quy định chung chung; ranh giới giữa các hình phạt không tước tự do còn khó xác định; thực tiễn áp dụng và thi hành nảy sinh nhiều vấn đề cần giải quyết... Việc tăng cường áp dụng các hình phạt không tước tự do thể hiện rõ nét nhất chính sách phân hóa trách nhiệm hình sự và nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự, tạo điều kiện cho người phạm tội có cơ hội hoàn lương mà không phải cách ly khỏi xã hội; đồng thời còn giúp giảm bớt chi phí của Nhà nước trong việc giam giữ người phạm tội, tăng cường tính răn đe, giáo dục trong cộng đồng, góp phần hiệu quả vào công cuộc phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác.... Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa các quy định của pháp luật về thi hành các hình phạt không tước tự do, đồng thời đánh giá việc thi hành các hình phạt không tước tự do trong thực tiễn để đưa ra các giải pháp hoàn thiện về mặt luật pháp, nâng cao hiệu quả áp dụng các hình phạt không tước tự do không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây cũng là lý do luận chứng cho việc tôi quyết định chọn đề tài “Thi hành các hình phạt không tước tự do từ thực tiễn Quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thi hành án hình sự nói chung, trong đó có thi hành các hình phạt không tước tự do đã được nhiều nhà khoa học, học giả quan tâm nghiên cứu, được để cập trong nhiều bài viết, nghiên cứuvà được thể hiện trên các báo trung ương và địa phương chuyên ngành pháp luật như: Sách “Pháp luật thi hành 2 án Việt Nam Những vấn đề lý luận và thực tiễn” Nxb Tư pháp 2006, PGS.TS. Võ Khánh Vinh và PGS.TS. Nguyễn Mạnh Kháng; Giáo trình “Luật thi hành án hình sự” Nxb Khoa học xã hội 2013, của GS.TS. Võ Khánh Vinh và TS. Cao Thị Oanh; Luận văn Thạc sĩ Luật học“Thi hành các hình phạt không tước tự do trên địa bàn tỉnh Hà Giang” củaHoàng Việt Trung; Luận văn Thạc sĩ Luật “Các hình phạt không tước tự do trong Luật Việt Nam” của Lê Khánh Hưng, Luận văn Thạc sĩ Luật học“Thi hành các hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo từ thực tiễn tỉnh Cà Mau”của Nguyễn Thị Hiền… Các công trình nghiên cứu trên là những tài liệu rất bổ ích và giá trị được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kết quả của các công trình nghiên cứu, các bài viết, đồng thời bằng kinh nghiệm thực tiễn và vốn hiểu biết của mình, tác giả trình bày trong luận văn cơ sở lý luận và quy định của pháp luật về thi hành các hình phạt không tước tự do từ thực tiễn quận Gò Vấp, đưa ra một số đề xuất về giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi hành các hình phạt không tước tự dotại địa phương. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn thi hành các hình phạt không tước tự do là cảnh cáo, phạt tiền và cải tạo không giam giữ, đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi hành các hình phạt không tước tự do từ thực tiễn. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ một số nội dung chung về thi hành các hình phạt không tước tự do. - Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật về thi hành các hình phạt không tước tự do và thực tiễn áp dụng các quy định đó. 3 - Đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện, hiệu quả thi hành các hình phạt không tước tự do. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn lấy các quan điểm khoa học pháp lý hình sự, các quy định của pháp luật về thi hành các hình phạt chính không tước tự do, thực tiễn thi hành các hình phạt không tước tự do trên địa bàn quận Gò Vấp. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Lý luận chung về thi hành các hình phạt không tước tự do; - Nghiên cứu về các hình phạt không tước tự do trên các phương diện lập pháp và thực tiễn áp dụng để từ đó chỉ ra những bất cập, hạn chế, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trên thực tiễn tại Quận Gò Vấp. - Do nội dung đề tài rất rộng và phạm vi nghiên cứu còn hạn chế nên luận văn chỉ nghiên cứu các hình phạt không tước tự do là hình phạt chính; không nghiên cứu các hình phạt không tước quyền tự do là hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp; những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong Luận văn là phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp luật học so sánh, phương pháp thống kê… 4 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Hệ thống, phân tích những vấn đề quan điểm, lý luận về thi hành các hình phạt không tước tự do; đánh giá công tác thi hành các hình phạt không tước tự do trong thực tiễn. Trình bày thực trạng áp dụng và thi hành các hình phạt không tước tự do trên địa bàn quận Gò Vấp từ năm 2012 đến năm 2017; kết quả đạt được, hạn chế và các nguyên nhân. Từ đó, đưa ra một số đề xuất, những giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và thi hành án hình sự của Việt Nam, nâng cao hiệu quả công tác thi hành các hình phạt không tước tự do tại địa phương. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương với cơ cấu như sau: Chương 1: Một số vấn đề chung về thi hành các hình phạt không tước tự do. Chương 2: Thực trạng thi hành các hình phạt không tước tự do trên địa bàn Quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật, tăng cường hiệu lực, hiệu quả thi hành các hình phạt không tước tự do. 5 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO 1.1. Khái niệm và các đặc điểm thi hành các hình phạt không tước tự do 1.1.1. Khái niệm thi hành các hình phạt không tước tự do Điều 106 Hiến pháp 2013 nước ta khẳng định: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơquan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”[22]. Yêu cầu mang tính nguyên tắc hiến định này đã khẳng định hiệu lực thi hành của các phán quyết của Toà án khi có hiệu lực pháp luật, đồng thời khẳng định ý nghĩa quan trọng của công tác thi hành án nói chung và thi hành án hình sự nói riêng. Thi hành án hình sự là một dạng hoạt động của Nhà nước, nhằm thực hiện quyền lực Nhà nước, do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện đưa các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án ra thi hành trên thực tế. Đảm bảo thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước, thể hiện sự tôn trọng của xã hội và công dân đối với phán quyết của cơ quan nhân danh Nhà nước là Tòa án, và là biện pháp hữu hiệu để khôi phục các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân bị xâm hại. Bên cạnh đó, thi hành án hình sự còn nhằm cải tạo, giáo dục người bị kết án để họ không phạm tội mới và trở thành người có ích cho xã hội, nhằm mục đích phòng ngừa riêng; giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật, thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm nói chung, động viên, khuyến khích sự tham gia của xã hội và công dân vào cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Thi hành án hình sự được tiến hành theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Toàn bộ quá trình thi hành các bản án, quyết định và 6 các quan hệ liên quan đến việc thi hành được quy định cụ thể, rõ ràng. Đây là giai đoạn cuối cùng trong các hoạt động tố tụng của các cơ quan thực thi pháp luật và cũng là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án, trong đó buộc người bị xử phạt phải chấp hành hình phạt mà Toà án đã quyết định. Bản án, quyết định của Toà án có được thi hành nghiêm chỉnh hay không là tuỳ thuộc chủ yếu vào giai đoạn này. Nếu mục đích của thi hành án không đạt được thì toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trước đó cũng trở nên vô nghĩa. Hoạt động tố tụng trên chỉ có ý nghĩa trên thực tế khi các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành một cách nghiêm túc, kịp thời và có hiệu quả. Một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật không được thi hành hoặc thi hành không nghiêm thì trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước bị xem thường. Tuy có quan hệ chặt chẽ với các giai đoạn tố tụng trước đó nhưng thi hành án hình sự vẫn là một hoạt động có tính đặc thù và có mục đích trực tiếp riêng biệt. Nếu tất cả các hoạt động tố tụng dừng lại ở việc phán quyết của Tòa án, thì thi hành án lại được triển khai bắt đầu từ khi phán quyết có hiệu lực thi hành và nhằm thực hiện các nội dung trong phán quyết đó. Nhiệm vụ của giai đoạn này là không chỉ trừng trị người có tội mà còn giáo dục, cải tạo họ trở thành công dân có ích cho xã hội. Ngoài ra cũng nhằm tới mục đích giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm. Thi hành án hình sự là giai đoạn thể hiện rõ nét chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Căn cứ và nội dung của thi hành án chính là các nội dung cụ thể trong các phán quyết đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Đây là điểm thể hiện rõ nhất tính tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước của thi hành án [12,tr. 13]. Nội dung thi hành án hình sự rất rộng, bao gồm chế độ, thủ tục, tổ chức thi hành án, áp dụng các biện pháp hành chính, giáo dục, y tế, văn hóa – xã hội và thực hiện chế độ chính sách đối với người bị kết án. Các quan hệ 7 xã hội cụ thể phát sinh trong quá trình thi hành và chấp hành hình phạt như việc đưa bản án ra thi hành, chỉ định cơ quan tổ chức thi hành, tổ chức lực lượng, cơ sở vật chất đảm bảo cho việc thi hành án, quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án, quy định về quyền và nghĩa vụ của người chấp hành án, nghĩa vụ của các cơ quan khác… Thi hành án hình sự còn là hoạt động mang tính điều hành và chấp hành để thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án, mang tính bắt buộc chấp hành đối với tất cả các chủ thể có trách nhiệm liên quan đến việc thi hành án. Các cơ quan, tổ chức, công dân trong phạm vi trách nhiệm của mình có nghĩa vụ chấp hành và phối hợp thực hiện để thi hành án đạt hiệu quả. Tính chấp hành trong thi hành án phản ánh một thực tế nó không phải là hoạt động tố tụng thuần túy. Trong quá trình thi hành, các cơ quan thi hành án tác động trực tiếp tới đối tượng phải thi hành án để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm do họ gây ra nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa và ngăn ngừa họ phạm tội mới. Thi hành các hình phạt không tước tự do: Từ định nghĩa khoa học về hình phạt trong luật hình sự có thể nói: Hình phạt không tước tự do là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất về hình sự của Nhà nước do Toà án quyết định trong bản án có hiệu lực pháp luật đối với người phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội mà không buộc họ phải cách ly ra khỏi môi trường xã hội bình thường. Các dấu hiệu cơ bản của hình phạt không tước tự do - Người bị kết án không bị cách ly khỏi môi trường sống bình thường. - Tính chất cưỡng chế của hình phạt không tước tự do thấp hơn hình phạt tù. 8 - Việc thi hành các hình phạt không tước tự do được thực hiện bởi nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau. - Điều kiện áp dụng và các hậu quả pháp lý phát sinh từ các hình phạt không tước tự do được quy định khá chặt chẽ. - Việc thi hành các hình phạt không tước tự do phát huy cao độ vai trò của cộng đồng trong việc giáo dục, cải tạo người phạm tội.[14] Các hình phạt nói chung và các hình phạt chính không tước tự do nói riêng có vai trò quan trọng không chỉ bảo đảm nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự và cá thể hoá hình phạt mà còn thể hiện được rõ chính sách nhân đạo của Luật Hình sự. Khi áp dụng hình phạt không tước tự do đối với người phạm tội sẽ hạn chế được những tác động tiêu cực của hình phạt lên người phạm tội cũng như gia đình của người phạm tội, tạo điều kiện người phạm tội được tái hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong hình phạt. Hoạt động thi hành án hình sự đối với các hình phạt không tước tự do bên cạnh những đặc điểm chung còn có những đặc thù riêng biệt. Sự khác biệt này xuất phát từ đặc thù của từng loại hình phạt và mục đích, đối tượng áp dụng. Người bị kết án không bị cách ly khỏi xã hội, họ được cải tạo, giáo dục, hoạt động như các công dân bình thường khác. Tuy nhiên, họ vẫn phải chịu sự giám sát của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương nơi họ làm việc hoặc sinh sống. Hiện nay còn có các quan điểm khác nhau về bản chất của thi hành án hình sự nói chung, thi hành các hình phạt không tước tự do nói riêng. Có quan điểm cho rằng thi hành án là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử [5]. Có người cho rằng, thi hành các hình phạt không tước tự do là một giai đoạn của quá trình tố tụng và do vậy, được điều chỉnh bằng các quy phạm của luật tố tụng hình sự. Song cũng có ý kiến cho rằng, thi hành các hình phạt không tước tự do là một hoạt động hành chính - tư pháp hình sự, có những nét đặc 9 thù riêng khác với hoạt động tố tụng hình sự. Một số khác thì coi thi hành các hình phạt không tước tự do như là luật hình sự kéo dài. Việc xác định thi hành các hình phạt không tước tự do là một giai đoạn tố tụng, luật hình sự kéo dài hay là hoạt động hành chính - tư pháp có ý nghĩa quan trọng để làm sáng tỏ bản chất thi hành án hình sự nói chung và thi hành các hình phạt không tước tự do nói riêng. Xác định đúng bản chất thi hành các hình phạt không tước tự do có ý nghĩa quan trọng trên nhiều phương diện, đặc biệt là tạo ra cơ chế quản lý, mô hình tổ chức và hoạt động phù hợp nhằm bảo đảm thi hành các hình phạt không tước tự do đạt hiệu quả cao. Như vậy, có thể nêu một cách khái quát định nghĩa về khái niệm thi hành các hình phạt không tước tự do như sau: Thi hành các hình phạt không tước tự do là hoạt động của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật buộc người chấp hành các hình phạt không tước tự do phải tuân thủ, chấp hành các hình phạt mà Tòa án đã tuyên án đối với họ tại phiên tòa, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm do họ gây ra nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và ngăn ngừa họ phạm tội mới, cũng như phòng ngừa tội phạm chung cho toàn xã hội. 1.1.2. Đặc điểm thi hành các hình phạt không tước tự do. Theo quy định tại khoản 1 Điều 32 Bộ luật hình sự 2015, các hình phạt chính không tước tự do bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và trục xuất. Hình phạt tiền do cơ quan thi hành án dân sự thi hành theo cơ chế riêng. Việc thi hành án phạt chính không tước tự do còn có những đặc trưng riêng biệt như sau: - Người bị kết án này không bị cách li khỏi xã hội. Họ được cải tạo, giáo dục tại môi trường sống bình thường với cộng đồng. Đây là đặc điểm quan 10 trọng để phân biệt hình phạt chính không tước tự do và hình phạt chính tước tự do. Một số người bị kết án sau khi chấp hành án xong gặp khó khăn trong việc tái hòa nhập cộng đồng dẫn đến tình trạng quay trở lại con đường tái phạm, tái phạm nguy hiểm…Nên đối với một số tội phạm mà mức độ và hành vi nguy hiểm là ít nghiêm trọng, phạm tội lần đầu, trong quá trình điều tra, xét xử đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối lỗi thì không cần thiết phải áp dụng các hình phạt tước tự do, thay vào đó có thể áp dụng các hình phạt chính không tước quyền tự do mà vẫn đạt được mục đích của hình phạt. - Với những mức độ nghiêm khắc khác nhau của từng loại hình phạt không tước tự do, người phạm tội không bị tước quyền tự do được sống, lao động, học tập, làm việc trong môi trường lành mạnh là cơ quan, tổ chức và địa phương mà trước khi phạm tội người đó vẫn sống và công tác. Tuy nhiên, chính đặc trưng này cũng cho thấy để việc thi hành án phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đạt được hiệu quả thì đòi hỏi quy định về nội dung từng hình phạt và biện pháp này cũng như cơ chế thi hành chúng phải phù hợp với mục tiêu đặt ra, tránh mang tính hình thức. - Nếu việc thi hành hình phạt chính tước tự do được giao cho một cơ quan chuyên trách thực hiện thì việc thi hành hình phạt chính không tước tự do được giao cho nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau nơi người bị kết án cư trú, làm việc kết hợp với gia đình tham gia vào việc cải tạo, giáo dục người phạm tội như: chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc, cơ quan thi hành án dân sự… Ngoài các nét đặc trưng chung nêu trên, việc thi hành từng hình phạt khác nhau cũng có những nét đặc trưng xuất phát từ bản chất nội dung của từng hình phạt đó. Tóm lại, thi hành các hình phạt không tước tự do tuy có quan hệ chặt chẽ với các giai đoạn tố tụng trước đó nhưng vẫn là một hoạt động có tính đặc 11 thù, và có mục đích riêng biệt nên Tòa án phải xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội… trước khi ra quyết định hình phạt. Đối với các hình phạt không tước tự do thì các quyền và lợi ích của người phạm tội ít bị xâm hại hơn so với các hình phạt tước tự do. Với những hình phạt này, Nhà nước đã thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo trong việc xử lý tội phạm, bảo đảm vấn đề tái hòa nhập cộng đồng, tác động tích cực đến nhận thức của người phạm tội, giúp họ nhận ra được lỗi lầm của mình để tích cực cải tạo, phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội. 1.2. Nội dung thi hành các hình phạt không tước tự do 1.2.1. Thi hành hình phạt cảnh cáo Cảnh cáo là sự khiển trách công khai của Nhà nước do Toà án tuyên án đối với người bị kết án. Cảnh cáo là loại hình phạt nhẹ nhất trong các hình phạt chính, không có khả năng đưa lại những hạn chế pháp lý liên quan trực tiếp đến các quyền và lợi ích thiết thân về thể chất và tài sản… của người bị kết án. Tuy vậy, với tư cách là khiển trách công khai của Nhà nước đối với người phạm tội, cảnh cáo gây ra cho họ những tổn hại nhất định về mặt tinh thần. Người bị hình phạt cảnh cáo đã phải chịu sự lên án của Nhà nước về hành vi phạm tội của mình. Người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt [21] là hai điều kiện cần và đủ để Tòa án áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với người phạm tội. Ngoài hai điều kiện trên, luật không quy định thêm điều kiện nào khác nhưng khi áp dụng hình phạt cảnh cáo với người phạm tội, Toà án phải cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội, hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự trước khi tuyên án. Các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. 12 Hình phạt cảnh cáo được thi hành ngay tại phiên tòa do Tòa án tuyên. Trong thời hạn 07 ngày, kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, Toà án đã xét xử sơ thẩm phải gửi bản án cho người bị phạt cảnh cáo, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu, Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội nơi người bị phạt cảnh cáo cư trú hoặc làm việc, Sở Tư pháp nơi Tòa án đã xét xử sơ thẩm có trụ sở. Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu có trách nhiệm theo dõi, thống kê, báo cáo theo quy định. (Điều 71 Luật thi hành án hình sự năm 2010) [25] Mặc dù hình phạt cảnh cáo là một hình phạt chính nhưng nó vẫn thể hiện tính nhân đạo cao vì cảnh cáo là một hình phạt không tước tự do, song khái niệm "hình phạt cảnh cáo" cũng chưa được Bộ luật hình sự làm rõ. Điều 34 Bộ luật hình sự năm 2015 chỉ nêu ra những điều kiện để người phạm tội được áp dụng hình phạt cảnh cáo, đó là: “Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt”[21]. Trong thực tiễn khi áp dụng hình phạt, các cơ quan và người áp dụng pháp luật vẫn còn khó khăn trong việc xác định chính xác các khái niệm "hình phạt cảnh cáo", "miễn trách nhiệm hình sự", "miễn hình phạt", "miễn chấp hành hình phạt"; v.v... Thi hành hình phạt cảnh cáo cần sự tham gia rộng rãi của quần chúng nhân dân, của các cơ quan, tổ chức và nhất là gia đình người được áp dụng hình phạt cảnh cáo để giám sát, giáo dục họ. Việc vận dụng đúng đắn sức mạnh tổng hợp của chính quyền địa phương, tổ chức, quần chúng, gia đình nhằm xóa bỏ những điều kiện, khả năng tiếp tục tái vi phạm pháp luật hoặc phạm tội, làm cho người phạm tội chủ động tích cực cải tạo trở thành người lao động lương thiện và có ích cho xã hội. Trong nội dung cải tạo, giáo dục và giám sát người phạm tội, cơ quan, tổ chức,gia đình cần phải có những biện 13 pháp tích cực tác động làm cho người phạm tội thấy được hành vi phạm tội của mình trước đó, hậu quả tác hại mà mình đã gây ra cho gia đình và cho xã hội, thấy được chính sách khoan hồng, độ lượng của Đảng và Nhà nước, sự quan tâm của gia đình, cơ quan tổ chức đối với họ, để họ ý thức được trách nhiệm của mình, quên đi quá khứ sai lầm, phấn đấu lao động và làm việc để trở thành người có ích cho gia đình và cho xã hội. Do đặc thù của hình phạt cảnh cáo là biện pháp công khai lên án của Nhà nước đối với người phạm tội nên cơ chế thi hành án phạt này không giống với cơ chế thi hành các án phạt khác. Nếu như việc thi hành tất cả các bản án hình sự khác đều chỉ được thực hiện sau khi bản án có hiệu lực pháp luật theo những thủ tục riêng thì án phạt cảnh cáo lại được thi hành ngay tại phiên tòa do Tòa án tuyên. Ngay sau khi tòa tuyên án công khai cũng có nghĩa là họ đã chấp hành xong hình phạt cảnh cáo, hay nói cách khác là hình phạt cảnh cáo không có tổ chức thi hành.Do đó, các tổ chức xã hội, đơn vị công tác nơi người đó làm việc, hay Ủy ban nhân dân xã, phường nơi người đó sinh sống khó có thể nắm được tình trạng của người bị kết án và dẫn đến hệ quả là không thể theo dõi, giúp đỡ, cải tạo người bị kết án trở thành công dân có ích cho xã hội. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung quy định mới (Điều 364) về thi hành hình phạt cảnh cáo được thi hành ngay tại phiên tòa, mặc dù sau đó bản án, quyết định vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị [19]. Người bị phạt cảnh cáo sau một năm, nếu không phạm tội mới thì đương nhiên được xóa án tích theo quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 71 Bộ luật hình sự 2015. 1.2.2. Thi hành hình phạt tiền Phạt tiền là hình phạt tước đi những quyền lợi vật chất của người bị kết án một khoản tiền nhất định để bổ sung công quỹ Nhà nước, tác động lên tình trạng tài sản của họ và qua đó tác động đến ý thức của người phạm tội, hạn 14 chế các điều kiện về tài sản mà người phạm tội có thể sử dụng điều kiện đó để tiếp tục phạm tội. Tại khoản 1, Điều 30 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định “Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính và một số tội phạmkhác do Bộ luật này quy định.” [20] Cũng Tại khoản 1, 4 Điều 35 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định sửa đổi, bổ sung “Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với các trường hợp sau đây: Người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định; Người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do Bộ luật này quy định”,“Hình phạt tiền đối với pháp nhân thương mại phạm tội được quy định tại Điều 77 của Bộ luật này”[21] mở rộng thêm các trường hợp áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính. Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động của giá cả (khoản 3, Điều 35 Bộ luật hình sự năm 2015) để có thể đưa ra một mức tiền phạt hợp lí vừa có tính răn đe, thức tỉnh người phạm tội, vừa có thể đảm bảo cho hình phạt có tính khả thi. Luật thi hành án hình sự năm 2010 không có một quy định cụ thể nào về việc thi hành hình phạt tiền nhưng tại một số quy định khác như: Điều 267 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ghi nhận: “quyết định đưa bản án phạt tiền hoặc tịch thu tài sản ra thi hành phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, chấp hành viên, người bị kết án và chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người bị kết án cư trú”. Theo quy định tại khoản 5 Điều 257 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Cơ quan thi hành án dân sự thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản và quyết định dân sự trong vụ án hình sự. Chính quyền xã, 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng