VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ NGỌC ANH
THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM MINH TUYÊN
Hà Nội, 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi Các nội
dung nghiên cứu, kết quả trong Luận văn này chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được
trích dẫn đúng theo quy định và được ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo
Tác giả luận văn
Trần Thị Ngọc Anh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................................................1
Chương 1: NHŨNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT THI HÀNH CÁC
HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO..............................................................................7
1.1. Khái niệm và đặc điểm của thi hành hình phạt không tước tự do......................7
1.2. Pháp luật về thi hành hình phạt không tước tự do...................................................18
Chương 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ
DO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG.....................................................................29
2.1. Khái quát chung về tình hình tội phạm và việc áp dụng hình phạt không tước
tự do trên địa bàn tỉnh Bắc Giang............................................................................................29
2.2. Thực trạng thi hành hình phạt không tước tự do trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang.....................................................................................................................................................39
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ BẢO
ĐẢM THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO......................51
3.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi hành hình phạt không
tước tự do............................................................................................................................................51
3.2. Các giải pháp khác.................................................................................................................61
KẾT LUẬN......................................................................................................................................66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................68
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:
BLTTHS:
Bộ luật hình sự
Bộ luật tố tụng hình sự
HĐND:
Hội đồng nhân dân
HTHP:
Hệ thống hình phạt
THAHS:
Thi hành án hình sự
UBND:
Ủy ban nhân dân
KTTD:
Không tước tự do
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong luật hình sự, hình phạt được coi là phương tiện có vai trò quan trọng
trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, nhằm bảo đảm và phát huy tính
dân chủ trong xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Với tính chất
là nguyên tắc cơ bản của luật hình sự thì nguyên tắc nhân đạo luôn được Nhà nước
ta đặc biệt quan tâm và thể hiện xuyên suốt trong các quy định của Bộ luật hình sự
(BLHS) đặc biệt được thể hiện rõ trong các quy định về hình phạt chính không tước
tự do. Việc áp dụng các hình phạt chính không tước tự do đã thể hiện rõ tinh thần
phân hóa tội phạm nhằm thực hiện nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự, đồng thời
góp phần hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả
phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội theo tinh thần Nghị
quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị.
Đối với Thi hành án hình sự (THAHS) là một trong những hoạt động quan
trọng của Nhà nước. Hoạt động THAHS được xem là khâu cuối cùng và có ý nghĩa
quan trọng đảm bảo hiệu quả thực hiện quyền tư pháp, hiện thực hóa công lý mà
Tòa án đã nhân dân Nhà nước ban hành bản án hay Quyết định; mặt khác, thi hành
án kịp thời, nghiêm chỉnh các phán quyết của Tòa án đối với các hành vi phạm tội
chính là biện pháp khôi phục lại các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tổ
chức và cá nhân bị xâm hại, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Từ trước đến nay, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật làm
cơ sở cho tổ chức và hoạt động THAHS. Tuy nhiên, hầu hết đều tập trung chủ yếu vào các
công tác thi hành hình phạt tù, tử hình mà chưa thực sự quan tâm đúng mức đến các công
tác thi hành các hình phạt không tước quyền tự do. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp
luật về thi hành hình phạt không tước quyền tự do đã được ban hành ở những thời điểm
khác nhau nên còn nhiều bất cập, nhiều nội dung chưa được quy định cụ thể, dẫn đến việc
gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành.Bên cạnh đó, qua thực tiễn thi
hành cho thấy, hệ thống các cơ quan có thẩm quyền trong thi hành án các hình phạt không
tước quyền tự do chưa được phân công, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả, phát huy đầy đủ vai
trò, trách nhiệm trong quản lý, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, nhất là vai
trò, trách nhiệm của Tòa án,
1
UBND các cấp, MTTQ và các đoàn thể; Cơ chế giám sát, chế tài cưỡng chế khi người bị
kết án không chấp hành hoặc chấp hành án không nghiêm, có vi phạm chưa được quy định
đầy đủ, kịp thời, bảo đảm tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa tội phạm...... Tất
cả những tồn tại và hạn chế kể trên đã góp phần làm giảm hiệu quả thi hành hình
phạt không tước quyền tự do trên địa bàn tỉnh Bắc Giang nói riêng và ở Việt Nam
nói chung.
Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn để từ
đó làm sáng tỏ về mặt khoa học, đưa ra phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả
thi hành hình phạt không tước quyền tự do là cần thiết. Điều đó không chỉ có ý
nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là lý do luận chứng cho sự cần
thiết để tôi lựa chọn đề tài “Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp
luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang”. Trong đề tài tôi lựa chọn chủ yếu
nghiên cứu về các hình phạt: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ trong các
hình phạt chính được quy định tại điểm a, điểm b, điểm c, Khoản 1, Điều 32 Bộ
Luật hình sự năm 2015 làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến thi hành các hình phạt không tước tự do, đã có nhiều công
trình khoa học nghiên cứu và được tiếp cận dưới các góc độ khác nhau;
Trước hết, hình phạt đã được nhiều chuyên gia ở nước ngoài nghiên cứu như:
Punishment and Responsibility, Oxford, 1968; Cragg, Wesley, The Practice of Punishment:
Towards a Theory of Restorative Justice, New York, Routledge, 1992; M. Bellmore,
H.J.Greenberg and J.J.Jarvis, Generauzed Penalty - function concepts in Mathematical
optization, Georgia Institute of Technology, Atlanta, Georgia Received June 17, 1968;
v.v… Còn ở Việt Nam, khoa học luật hình sự là một trong những ngành khoa học pháp lý
phát triển nhất so với các ngành khoa học pháp lý khác, do đó xét riêng về hình phạt, cho
thấy có nhiều công trình nghiên tiêu biểu ở các cấp độ khác nhau. Cấp độ luận văn thạc sĩ
thực hiện ở Viện Nhà nước và Pháp luật (Viện Khoa học Xã hội Việt Nam) có các đề tài
của các tác giả Nguyễn Văn Vĩnh, Hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Hà
Nội, 1996; Vũ Lai Bằng, Hình phạt tiền trong luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 1997; Đặng
Đức Thạo, Hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 2001; v.v… Ở Khoa
Luật, Đại học
2
Quốc gia Hà Nội có đề tài của Lê Khánh Hưng, Các hình phạt không tước tự do trong luật
hình sự Việt Nam, Hà Nội, 2010; Nguyễn Văn Cảnh, Hình phạt và các biện pháp tư pháp
áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 2010;
v.v... Còn ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học có các đề tài của các tác giả Nguyễn Sơn, Các
hình phạt chính trong luật hình sự Việt Nam, Viện Nhà Nước và Pháp luật, Hà Nội, 2003,
Phạm Văn Beo, Hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam, Viện Nhà nước và Pháp
luật, Hà Nội 2007; Trịnh Quốc Toản, Các hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010; v.v...
Bên cạnh đó, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình sau: GS.TSKH.
Lê Văn Cảm, Chương thứ 7 - Hình phạt và biện pháp tư pháp, trong Sách chuyên khảo sau
đại học: Những vấn đề cơ bản trong luật hình sự (phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2005; GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Hình phạt trong
luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; v.v... Ngoài ra, một số tác
giả cũng đã công bố những bài báo khoa học đề cập đến hình phạt như: GS.TSKH. Lê Văn
Cảm, Hình phạt và các biện pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, số 8/2000; Một số vấn đề cơ bản về hình phạt, Tạp chí Công an nhân dân, số
5/2001; Hình phạt và hệ thống hình phạt, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7/2007; GS. TSKH.
Lê Cảm, TS. Trịnh Tiến Việt, Thực trạng các quy định pháp luật hình sự Việt Nam về hệ
thống hình phạt và phương hướng hoàn thiện, Tạp chí Khoa học, chuyên san Luật học, số
1/2009; GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Mục đích của hình phạt, Tạp chí Luật học, số 1/1999;
PGS.TS. Trần Văn Độ, Một số vấn đề về hình phạt cải tạo không giam giữ, Tạp chí Tòa án
nhân dân, số 5/1995; PGS.TS. Nguyễn Mạnh Kháng, Hình phạt - Một số vấn đề lý luận,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10/2000; PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, Một số vấn đề về
hình phạt quản chế trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học, chuyên san Luật học,
số 1/2004; Về hình phạt cấm cư trú trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, số 6/2004 và Về hình phạt tiền trong luật hình sự một số nước trên thế giới, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, số 7/2003; TS. Phạm Văn Beo, Một số vấn đề về khái niệm hình
phạt, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 11/2005; v.v... Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát
trên đây cho thấy, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu cơ bản và trực diện về hình
phạt chính không tước tự do và hình
3
phạt bổ sung nhưng vẫn chưa thực sự được quan tâm nghiên cứu đúng mức, với tư
cách là những hình phạt chính không tước tự do quan trọng trong hệ thống hình phạt
của luật hình sự Việt Nam. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà nước ta đang
trong tiến trình hội nhập sâu rộng trên nhiều lĩnh vực trong khu vực cũng như trên
toàn thế giới. Do vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài "Thi hành các hình phạt không tước
tự do theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang " là đề tài luận văn của
mình để tiếp nối những nghiên cứu trên, nhằm làm sáng tỏ hơn cơ sở lý luận và thực
tiễn của vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật
về các hình phạt chính không tước tự do (cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam
giữ) dưới khía cạnh lập pháp hình sự và áp dụng trong thực tiễn, từ đó đề ra những
giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về hình phạt không tước tự do trong luật
hình sự Việt Nam, cũng như những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định về hình phạt này trong thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về thi hành án hình sự, các
hình phạt chính không tước tự do là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ:
Khái niệm, đặc điểm, chủ thể, nội dung.....;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thi hành các hình phạt chính không tước tự
do là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ trên cơ sở so sánh, đối chiếu với
tình hình thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Bắc Giang;
- Phân tích, làm rõ những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, khó khăn
trong các hình phạt chính không tước tự do là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không
giam giữ trên dịa bàn tỉnh Bắc Giang từ năm 2012 đến năm 2017;
4
- Trên cơ sở nghiên cứu đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện quy định
về hình phạt chính không tước tự do trong Bộ luật hình sự Việt Nam cũng như nâng
cao hiệu quả thi hành các hình phạt chính không tước tự do trong thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Thi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật Việt Nam là một vấn đề có nội
dung khái quát cao, nội dung rộng. Do đó, đối tượng nghiên cứu đối với đề tài thi hành
hình phạt không tước tự do theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang là các quy
định của pháp luật liên quan đến hoạt động thi hành hình phạt không tước tự do trong các
văn bản pháp luật Thi hành án hình sự, văn bản pháp luật Tố tụng hình sự và thực tiễn áp
dụng hình phạt không tước tự do của Tòa án hai cấp tại địa bàn tỉnh Bắc Giang. Luận văn
nghiên cứu thực tiễn áp dụng hình phạt chính không tước tự do (cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo
không giam giữ) của Tòa án nhân dân hai cấp tại địa bàn tỉnh Bắc Giang trong 5 năm
(2012 - 2017) để đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về hình
phạt này trong thực tiễn.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và
chủ nghĩa duy vật mác – xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật,
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về
chính sách hình sự, về cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại
hội Đảng khóa VII, VIII, IX, X, XI và các Nghị quyết số 08 – NQ/TW ngày
02/01/2002, Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 26/5/2005 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp
phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch;
phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, để tổng hợp các tri thức khoa học
và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Trên cơ sở tổng hợp các quan điểm khoa học về hình phạt, cũng như về các hình
phạt không tước tự do để xây dựng nên khái niệm các hình phạt chính không tước tự do
(cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ), bảo đảm tính chính xác, khoa
5
học, đồng thời chỉ ra các đặc điểm cơ bản của các hình phạt chính không tước tự do.
Bên cạnh đó việc nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về thực tiễn thi hành
các hình phạt không tước tự do trên địa bàn tỉnh Bắc Giang cũng chỉ ra các hạn chế,
tồn tại trong thi hành các hình phạt không tước tự do cũng như những nguyên nhân
của những tồn tại, hạn chế đó. Trên cơ sở này, luận văn đề xuất các phương hướng,
giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt
chính không tước tự do trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách
tư pháp hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật thi hành các hình phạt không
tước tự do.
Chương 2: Thực trạng thi hành hình phạt không tước tự do trên địa bàn tỉnh
Bắc Giang và một số tồn tại vướng mắc.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thi hành các
hình phạt không tước tự do.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT THI HÀNH CÁC HÌNH
PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO
1.1. Khái niệm và đặc điểm của thi hành hình phạt không tước tự do
1.1.1. Khái niệm thi hành hình phạt không tước tự do.
Với ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án, thi
hành án hình sự có mối quan hệ hữu cơ với các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử. Trên cả bình diện lý luận và thực tiễn đều cho thấy nếu mục đích của thi
hành án không đạt được thì toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử
trước đó cũng trở nên vô nghĩa. Khi một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực
pháp luật không được thi hành hoặc thi hành không nghiêm thì trật tự kỷ cương xã
hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước không được thực hiện, pháp luật bị buông lỏng.
Bởi vậy, việc đảm bảo việc thi hành của các bản án, quyết định của Tòa án là một
yêu cầu tất yếu khách quan.
Mặt khác, quá trình thi hành án hình sự là một hoạt động mang tính quyền
lực Nhà nước nhằm thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong
thực tiễn. Bản án, quyết định của Tòa án được thi hành là lúc công lý được thực hiện
trong cuộc sống. Thi hành án hình sự có vai trò quan trọng nhằm đảm bảo mục đích
của hình phạt là không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm giáo dục cải
tạo họ trở thành công dân có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới, đồng thời
giáo dục mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm. Bởi
vậy, để thực hiện vai trò đó và đảm bảo pháp chế của hoạt động này thì việc pháp
điển hóa toàn bộ các quy định về quá trình thi hành án hình sự là yêu cầu cấp thiết,
tránh sự tùy tiện, vi phạm pháp luật, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tổ chức,
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kết án.
Các hình phạt nói chung và các hình phạt chính không tước tự do nói riêng (cảnh
cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ) có vai trò quan trọng không chỉ bảo đảm nguyên tắc
phân hoá trách nhiệm hình sự và cá thể hoá hình phạt mà còn thể hiện được rõ nguyên tắc
nhân đạo của Luật Hình sự. Hoạt động thi hành án hình sự đối với các hình phạt không
tước tự do bên cạnh những đặc điểm chung còn những đặc
7
thù riêng biệt. Sự khác biệt này xuất phát từ đặc thù của từng loại hình phạt và mục
đích, đối tượng áp dụng. Người bị kết án không bị cách ly khỏi xã hội, họ được cải
tạo, giáo dục, thi hành án trong môi trường sống và hoạt động với các công dân bình
thường khác. Tuy nhiên, họ vẫn phải chịu sự giám sát của cơ quan, tổ chức hoặc
chính quyền địa phương nơi họ làm việc hoặc sinh sống. Môi trường không giam
giữ sẽ có những đặc thù riêng và mỗi hình phạt không tước tự do lại có thêm những
đặc thù riêng. Hiện nay còn có nhiều quan điểm khác nhau về bản chất của thi hành
án hình sự, cũng như bản chất của thi hành các hình phạt không tước tự do. Có quan
điểm cho rằng thi hành án là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử [ 8,tr.8]. Có
quan điểm cho rằng, thi hành các hình phạt không tước tự do là một giai đoạn của
quá trình tố tụng và do vậy được điều chỉnh bằng các quy phạm của luật tố tụng
hình sự. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, thi hành các hình phạt không tước tự do là
một hoạt động hành chính – tư pháp hình sự, có những nét đặc thù riêng khác với
hoạt động tố tụng hình sự. Một số khác thì coi thi hành các hình phạt không tước tự
do như là luật hình sự kéo dài. Việc xác định thi hành các hình phạt không tước tự
do là một giai đoạn tố tụng, luật hình sự kéo dài hay là hoạt động hành chính - tư
pháp có ý nghĩa quan trọng để làm sáng tỏ bản chất thi hành án hình sự, nói chung
và thi hành các hình phạt không tước tự do nói riêng, mà xác định bản chất của thi
hành các hình phạt không tước tự do là một trong những vấn đề quan trọng của thi
hành các hình phạt không tước tự do. Bởi lẽ, xác định đúng bản chất thi hành các
hình phạt không tước tự do có ý nghĩa quan trọng trên nhiều phương diện, đặc biệt
là tạo ra cơ chế quản lý, mô hình tổ chức và hoạt động phù hợp nhằm bảo đảm thi
hành các hình phạt không tước tự do.
Như vậy, có thể nêu một cách khái quát định nghĩa về khái niệm thi hành các
hình phạt không tước tự do như sau: Thi hành hình phạt không tước tự do là hoạt
động của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật buộc
người chấp hành các hình phạt không tước tự do phải tuân thủ, chấp hành các hình
phạt mà Tòa án đã tuyên án đối với họ tại phiên tòa, phù hợp với tính chất, mức độ
nguy hiểm của tội phạm do họ gây ra nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, tổ chức
và công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và ngăn ngừa họ phạm tội mới,
cũng như phòng ngừa tội phạm chung cho toàn xã hội.
8
1.1.2. Đặc điểm của thi hành hình phạt không tước tự do.
Xét về bản chất, tố tụng là việc giải quyết các tranh chấp thông qua thủ tục
xét xử của Tòa án. Điều đó có nghĩa là khi Tòa án đã đưa ra phán quyết về chân lý
của sự việc, về việc phạm tội hay không phạm tội và về hình phạt áp dụng đối với
trường hợp này hay trường hợp khác thì quá trình tố tụng cũng kết thúc. Nói cách
khác là tố tụng hình sự xác định có hay không có quan hệ pháp luật hình sự trong
trường hợp này. Nếu có quan hệ đó thì quá trình tiếp theo là thực hiện nội dung của
pháp luật hình sự: hình phạt hoặc biện pháp tư pháp hình sự. Thực hiện nội dung
này không thể tuân theo trình tự, thủ tục tố tụng, vì không có tranh chấp cần xét xử.
Ở đây, thực chất là hoạt động quản lý hành chính - tư pháp hình sự. Bởi lẽ pháp luật
thi hành án hình sự có đối tượng điều chỉnh là “lĩnh vực các quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình thi hành tất cả các loại án hình sự, trong quá trình giáo dục và
cải tạo người bị trách nhiệm hình sự hoặc bị án” [62,tr.143]. Điều này được thể hiện
ở những điểm sau:
Một là, thi hành các hình phạt không tước tự do thực chất là hoạt động mang
tính điều hành và chấp hành. Điều hành và chấp hành là đặc trưng của quản lý hành
chính. Tuy nhiên, đây là hoạt động điều hành và chấp hành để thực hiện bản án,
quyết định của Tòa án, tức là một nội dung có tính chất tư pháp;
Hai là, với tính chất là một hoạt động chấp hành, cho dù căn cứ để thi hành
các hình phạt không tước tự do là các bản án và quyết định của Tòa án, nhưng quá
trình thi hành các hình phạt không tước tự do được thực hiện với những hoạt động,
biện pháp, cách thức không mang tính tố tụng, nghĩa là không thuần túy là luật hình
thức, mà ở đây, có thể thấy sự kết hợp giữa luật nội dung với luật hình thức;
Ba là, trong quá trình thi hành, các cơ quan thi hành các hình phạt không
tước tự do tác động trực tiếp tới đối tượng phải thi hành các bản án không tước tự do
để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã
được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án; giáo dục họ ý thức tôn trọng
pháp luật, tôn trọng lợi ích của cá nhân, của Nhà nước và xã hội, giáo dục họ trở
thành người công dân có ích với xã hội. Có thể nói đây là phương pháp thuyết phục
giáo dục và mệnh lệnh hành chính;
9
Bốn là, việc thi hành các hình phạt không tước tự do, như cải tạo không giam giữ,
phạt tiền, cảnh cáo, được giao cho cơ quan thi hành án dân sự hay cơ quan, tổ chức, chính
quyền địa phương thực hiện theo thủ tục quản lý hành chính. Như vậy, có thể nói trong quá
trình thi hành án hình sự, pháp luật được áp dụng chủ yếu không phải là pháp luật tố tụng,
mà là các quy định pháp luật về hành chính – tư pháp;
Năm là, thi hành các hình phạt không tước tự do trước hết là hoạt động của
cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, quá trình xã hội hóa
hoạt động thi hành các hình phạt không tước tự do cũng đang được tiến hành với
nhiều triển vọng khả quan. Đây là điểm khác biệt so với hoạt động tố tụng, hoàn
toàn mang tính quyền lực tư pháp chặt chẽ.
Tóm lại, thi hành các hình phạt không tước tự do tuy có quan hệ chặt chẽ với
các giai đoạn tố tụng trước đó nhưng vẫn là một hoạt động có tính đặc thù, và có
mục đích trực tiếp riêng biệt. Mọi hoạt động tố tụng hình sự đều dừng lại ở việc
phán quyết của Tòa án, còn thi hành án lại được triển khai bắt đầu từ một phán
quyết của Tòa án có hiệu lực thi hành nhằm thực hiện các nội dung trong phán quyết
của Tòa án. Hơn nữa, các mối quan hệ phát sinh trong quá trình thi hành các hình
phạt không tước tự do tuân theo các nguyên tắc mang đậm tính hành chính hơn là
tính tố tụng. Nhưng mặt khác, không thể không thấy mối quan hệ biện chứng giữa
quá trình tố tụng hình sự và thi hành các hình phạt không tước tự do: tố tụng là tiền
đề, khởi đầu của thi hành các hình phạt không tước tự do; ngược lại, thi hành các
hình phạt không tước tự do là thực hiện kết quả tố tụng trong thực tế. Không có tố
tụng thì không có thi hành các hình phạt không tước tự do, nhưng không có thi hành
án thì tố tụng trở nên vô nghĩa. Từ những phân tích trên, có thể thấy: thi hành các
hình phạt không tước tự do là hoạt động có tính hành chính – tư pháp.
1.1.3. Các nguyên tắc của thi hành hình phạt không tước tự do
Nguyên tắc được hiểu là tư tưởng, quan điểm cơ bản, đóng vai trò chỉ đạo các
hành động cụ thể. Nguyên tắc thường được thể hiện dưới hình thức các luận điểm,
các nguyên lý có tính chất xuất phát điểm, định hướng và nhất thiết phải được tôn
trọng, quán triệt trong một loạt việc làm. Nguyên tắc vừa mang tính khách quan lại
vừa mang tính chủ quan. Nguyên tắc, trước hết là sự phản ánh khách quan, phản ánh
thực tế vận động và tồn tại của xã hội, phản ánh bản chất của chế độ, của cơ sở kinh
10
tế-xã hội, của trình độ, điều kiện phát triển lịch sử của đất nước, của xã hội. Đồng
thời nguyên tắc cũng mang đậm dấu ấn chủ quan, vì thực tế khách quan phản ánh
qua nhận thức của con người mà được nâng lên thành quan điểm, thông qua khả
năng, trình độ, nhận thức nhu cầu khách quan của đời sống xã hội. Vì vậy, khi nói
đến nguyên tắc thì vừa phải nói đến cái phổ biến, vừa phải nói đến đặc thù của sự ra
đời, hình thành ở một thời đại hay một chế độ xã hội khác nhau.
Nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức và hoạt động thi hành án hình phạt không tước tự
do chính là những tư tưởng, quan điểm, nguyên lý có tính chỉ đạo cho việc tổ chức và hoạt
động thi hành án hình sự trong khi thực hiện các bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật đối với các hình phạt không tước tự do trên thực tế; giáo dục, cải tạo
người bị kết án, phòng ngừa để họ không phạm tội mới, tạo điều kiện để họ tái hòa nhập
cộng đồng và giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Do đó hệ thống các nguyên tắc tổ chức và hoạt động thi hành án hình phạt không tước tự
do ở Việt Nam hiện nay vừa phải thể hiện bản chất của hoạt động thi hành hình phạt không
tước tự do ở nước ta, vừa phải tính đến hướng phát triển xã hội ta trong những năm tới dưới
tác động của cải cách tư pháp và cải cách hành chính, vừa phải phản ánh tính đặc thù của
thi hành hình phạt không tước tự do trong những điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội ở giai
đoạn hiện nay.
Tại Điều 4 Luật thi hành án hình sự đã quy định tám nguyên tắc cơ bản là tư
tưởng chỉ đạo, thể hiện xuyên suốt trong các quy định về pháp luật thi hành án hình
phạt không tước tự do cũng như trong hoạt động thi hành án hình phạt không tước
tự do, bao gồm:
1) Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân: Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản đối với tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước ta hiện nay, nguyên tắc này cũng được ghi nhận tại
Điều 8 Hiến pháp năm 2013. Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân là yêu cầu hàng đầu trong tổ chức và
hoạt động thi hành án. Trong việc thi hành các hình phạt không tước tự do, nội dung chủ
yếu của nguyên tắc đó là việc thi hành các hình phạt này hợp pháp theo đúng quy định của
pháp luật. Các cơ quan thi hành các hình phạt không tước tự do, cá nhân có thẩm quyền
trong thi hành các hình phạt không tước tự do có
11
trách nhiệm tuân thủ theo đúng Hiến pháp, pháp luật nhằm đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị kết án. Để đảm bảo nguyên tắc tuân thủ Hiến pháp, pháp
luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
trong hoạt động thi hành các hình phạt không tước tự do cần có các điều kiện sau:
- Trong quan hệ tổ chức và hoạt động thi hành các hình phạt không tước tự do
thì pháp luật thi hành án hình sự luôn phải giữ vị trí thượng tôn. Toàn bộ quá trình
thi hành các hình phạt không tước tự do, từ khâu tổ chức đến việc triển khai công
tác thi hành án thì đều phải được đặt trong những khuôn khổ pháp lý chặt chẽ. Các
văn bản pháp luật phải là cơ sở cho việc trật tự hóa và bảo đảm ổn định các quan hệ
tổ chức và hoạt động thi hành các hình phạt không tước tự do, là cơ sở của việc xây
dựng và giải quyết các mối quan hệ nảy sinh giữa các chủ thể tham gia các quan hệ
thi hành án, là cơ sở đảm bảo mục đích và hiệu quả của hoạt động thi hành các hình
phạt không tước tự do.
- Hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động thi hành các
hình phạt không tước tự do phải tương đối đầy đủ và phù hợp. Các văn bản quy
phạm pháp luật phải được xây dựng trên cơ sở nhận thức đúng đắn các quy luật
khách quan của sự phát triển xã hội, thể hiện đầy đủ các đặc thù riêng biệt của các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thi hành án, bảo đảm lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của cộng động cũng như của từng tổ chức, cá nhân có liên
quan, đủ khả năng điều chỉnh có hiệu quả tổ chức và hoạt động thi hành các hình
phạt không tước tự do.
- Pháp luật về thi hành các hình phạt không tước tự do phải được tuân thủ,
chấp hành nghiêm chỉnh, nhất quán. Yêu cầu đó, trước hết, phải được quán triệt
trong toàn bộ công tác tổ chức và trong hoạt động tác nghiệp của các cơ quan, nhân
viên thi hành án. Các cơ quan thi hành án có trách nhiệm tổ chức thi hành nghiêm
chỉnh các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, loại bỏ sự tùy tiện,
vô tổ chức, thiếu kỷ luật trong lĩnh vực thi hành án và phải xử lý nghiêm minh mọi
biểu hiện vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thi hành án, bao gồm những vi phạm
pháp luật từ phía những người có nghĩa vụ chấp hành án và những người có trách
nhiệm tổ chức việc thi hành án [67, tr. 50-51].
12
- Mọi hoạt động trong lĩnh vực thi hành án hình sự nói chung và trong hoạt
động thi hành các hình phạt không tước tự do nói riêng đều phảo bảo đảm lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Mọi hành vi xâm
phạm bất hợp pháp đến các quyền và lợi ích này đều là trái pháp luật và phải được
xử lý nghiêm minh.
Từ những phân tích trên có thể thấy nguyên tắc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật,
bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hiện
đang đặt ra những yêu cầu cụ thể đối với công tác xây dựng, hoàn thiện và thực thi
pháp luật thi hành hình phạt không tước tự do ở nước ta hiện nay. Cần sớm hoàn
thiện các văn bản quy phạm pháp luật để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc xác
lập và nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành hình phạt không tước tự do. Ngoài ra,
cũng cần tổ chức hệ thống các cơ quan tư pháp hoạt động theo cơ chế kết hợp
nguyên tắc tập trung thống nhất và phát huy vai trò tích cực, chủ động của chính
quyền địa phương và của ủy ban Mặt trận và các đoàn thể nhân dân địa phương.
2) Bản án, quyết định có hiệu lực thi hành phải được cơ quan, tổ chức, cá
nhân tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh: Nhiệm vụ trọng tâm của thi hành án
hình sự nói chung và thi hành các hình phạt không tước tự do nói riêng là bảo đảm
thi hành đúng đắn bản án, quyết định có hiệu lực. Nhiệm vụ này gắn liền với mục
tiêu lớn nhất của tố tụng hình sự là làm sáng tỏ sự thật vụ án, xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật. Việc thi hành đúng đắn bản án, quyết định có hiệu lực là
cơ sở để thực hiện các nhiệm vụ khác của thi hành các hình phạt không tước tự do:
giáo dục, răn đe người bị kết án và giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật, ý thức tham
gia phòng, chống tội phạm của mọi công dân. Như vậy thi hành đúng đắn bản án,
quyết định có hiệu lực là yêu cầu khách quan.
Để bản án, quyết định có hiệu lực được thi hành đúng đắn đòi hỏi các cơ quan,
tổ chức, cá nhân phải tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định đó.
Theo tinh thần của nguyên tắc này, mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong
việc thi hành bản án, quyết định có hiệu lực cần phải xác định rõ nhiệm vụ của mình
trong việc thi hành, chấp hành bản án, quyết định đồng thời hoàn thành tốt nhiệm vụ
đó. Chỉ khi tất cả các chủ thể có liên quan trong thi hành bản án, quyết định có hiệu
13
lực thực hiện theo đúng tinh thần đó thì những bản án, quyết định này mới có thể
được thực thi đúng đắn trong thực tiễn.
3) Bảo đảm nhân đạo xã hội chủ nghĩa; tôn trọng nhân phẩm, quyền, lợi ích hợp
pháp của người chấp hành án: Trong pháp luật thi hành các hình phạt không tước tự do,
nguyên tắc nhân đạo thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội cũng như truyền thống nhân
đạo của dân tộc Việt Nam và được cụ thể hóa tại Điều 20 Hiến pháp năm 2013. Ngoài ra
nguyên tắc nhân đạo còn được ghi nhận tại Điều 5 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền:
“Không ai có thể bị tra tấn hoặc bị trừng phạt đối xử vô nhân đạo, tàn bạo” [11,Tr.64].
Nội dung cơ bản của nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật thi hành các hình phạt không
tước quyền tự do là nhằm mục đích không gây nên những đau đớn về thể xác hay sỉ nhục
nhân cách họ mà nhằm mục đích thực thi công lý, đảm bảo sự công bằng, giáo dục người
phạm tội ý thức được việc thi hành pháp luật…Do vậy, nguyên tắc nhân đạo đòi hỏi hoạt
động thi hành hình phạt không tước tự do phải tôn trọng nhân phẩm và danh dự của cá
nhân người chấp hành án nhưng vẫn phải bảo đảm việc thực thi pháp luật có hiệu quả, hài
hòa các lợi ích khác nhau.
Nguyên tắc nhân đạo trong tổ chức và hoạt động thi hành các hình phạt không tước
tự do không đồng nghĩa với việc nương nhẹ, bỏ qua một cách vô căn cứ đối với người
không chấp hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Việc quán
triệt nguyên tắc nhân đạo không được làm mất tính nghiêm minh của pháp luật cũng như
không được phép vi phạm các nguyên tắc khác về tổ chức và hoạt động thi hành các hình
phạt không tước tự do. Do vậy, nguyên tắc nhân đạo luôn được thể hiện trong toàn bộ các
quy định về điều kiện, thủ tục thi hành án, các quy định về quyền, nghĩa vụ của người bị
kết án với các hình phạt không tước tự do với tư tưởng xuyên suốt là tôn trọng quyền lợi,
giá trị, phẩm giá của người chấp hành án.
4) Kết hợp trừng trị và giáo dục cải tạo trong việc thi hành án; áp dụng biện pháp
giáo dục cải tạo phải trên cơ sở tính chất và mức độ phạm tội, độ tuổi, giới tính, trình độ
vă hóa và các đặc điểm nhân thân khác của người chấp hàn h án: Để đạt được mục đích
của hình phạt là không chỉ nhằm trừng trị mà còn giáo dục cải tạo người phạm tội, nguyên
tắc kết hợp giáo dục, cải tạo với cưỡng chế được thể hiện trong các quy định của pháp luật
thi hành các hình phạt không tước tự do cũng như trong thực tiễn thi hành các hình phạt
này. Như vậy cần phải quy định và áp dụng các
14
biện pháp, hình thức giáo dục, cải tạo thích hợp. Điều quan trọng là giúp cho người
bị kết án nhận thức được hành vi sai trái của mình, thấy được hậu quả mà họ đã gây
ra cho xã hội, gia đình và bản thân, từ đó có suy nghĩ, hành động đúng về sau.
Đối với các hình phạt không tước tự do, sự tự nguyện thi hành án là một trong
những yếu tố quan trọng tạo điều kiện cho hoạt động thi hành án được diễn ra thuận
lợi, có hiệu quả, tránh được những chi phí không cần thiết. Do vậy, các quy định
khuyến khích trong pháp luật thi hành án là cần thiết để người có nghĩa vụ thi hành
án tự nguyện thực hiện những nghĩa vụ mà bản án, quyết định của Tòa án yêu cầu
và tạo ra thủ tục cần thiết để họ thực hiện sự tự nguyện đó. Việc áp dụng các biện
pháp cưỡng chế chỉ khi người có nghĩa vụ thi hành án không tự nguyện và việc áp
dụng biện pháp cưỡng chế là thực sự cần thiết để hoạt động thi hành án đạt được
mục đích đề ra với tính chất là biện pháp cuối cùng để bảo đảm hiệu lực, tính
nghiêm minh của pháp luật và của bản án được tuyên nhân danh nhà nước. Việc vận
dụng nguyên tắc kết hợp giáo dục,cải tạo với cưỡng chế trong tổ chức và thi hành
các hình phạt không tước tự do đòi hỏi phải tìm ra sự kết hợp đúng đắn. Mối quan
hệ này cần phải được xây dựng trên cơ sở nhận thức về mức độ, liều lượng khác
nhau của sự kết hợp các biện pháp giáo dục, cải tạo, thuyết phục và các biện pháp
cưỡng chế đối với việc thi hành từng loại án khác nhau cũng như đối với từng
trường hợp người bị kết án khác nhau. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, tinh thần
của nguyên tắc trên đòi hỏi phảo bảo đảm việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế ở
mức độ và liều lượng tối thiểu còn các biện pháp giáo dục, cải tạo, thuyết phục được
áp dụng đến mức độ và liều lượng tối đa.
5) Thi hành án đối với người chưa thành niên chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ
họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành người có ích cho xã hội:
Người chưa thành niên là đối tượng luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của Nhà
nước và xã hội trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói chung, trong lĩnh vực thi hành án
hình sự nói riêng. Nguyên tắc này đòi hỏi các biện pháp và chế độ áp dụng đối với
người chấp hành án là người chưa thành niên cần phải chủ yếu mang tính giao dục ,
tác động đến người chấp hành án nhằm giáo dục, giúp họ sửa chữa được sai lầm,
trang bị cho họ những kiến thức, thói quen và kỹ năng sống cần thiết. Những biện
15
pháp và chế độ này không được mang tính hà khắc, trả thù, xúc phạm nhân phẩm,
danh dự người chấp hành án.
6) Khuyến khích người chấp hành án ăn năn hối cải, tích cực học tập, lao động cải
tạo, tự nguyện bồi thường thiệt hại: Mục tiêu của thi hành án hình sự nói chung và thi hành
hình phạt không tước tự do nói riêng là trả lại cho xã hội trạng thái an toàn, ổn định bằng
cách giáo dục, cải tạo người đã bị kết án trở thành người có ích cho xã hội, khắc phục hậu
quả mà tội phạm đã gây ra, ngăn ngừa tội phạm mới. Mục tiêu này chỉ có thể thực hiện
được khi tất cả các chủ thể có liên quan trong tổ chức thi hành án hình sự thực sự nỗ lực.
Ngoài ra không thể thiếu sự nỗ lực của bản thân người chấp hành án. Vì vậy, Nhà nước cần
phải có chính sách khuyến khích người chấp hành án ăn năn hối cải, tích cực học tập, lao
động cải tạo, tự nguyện bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả đối với hành vi phạm tội đã
gây ra. Nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở việc quy định của luật cũng như trong thực
tiễn thi hành các hình phạt không tước tự do cần ghi nhận và có những biện pháp động
viên, khích lệ phù hợp trên cơ sở mức độ ăn năn hối cải, tích cực học tập, lao động cải tạo,
tự nguyện bồi thường thiệt hại của người chấp hành án. Những hình thức động viên, khen
thưởng phù hợp và kịp thời là sự thể hiện tập trung nhất của sự khuyến khích này.
7) Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi, quyết định trái pháp luật
trong hoạt động thi hành hình phạt không tước tự do: Để bảo đảm pháp chế cũng
như quyền, lợi ích của mọi cá nhân, tổ chức, mọi hành vi vi phạm pháp luật trong
hoạt động thi hành hình phạt không tước tự do cần bị xử lý nghiêm minh. Nội dung
cơ bản của nguyên tắc này là quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi, quyết định trái
pháp luật trong hoạt động thi hành hình phạt không tước tự do phải được ghi nhận
trong luật vào bảo đảm trong thực tiễn. Thể hiện tinh thần nguyên tắc này, Luật thi
hành án hình sự đã quy định rõ nhiều nội dung liên quan đến quyền khiếu nại, tố cáo
trong thi hành án hình sự. Cùng với những quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu
nại đó, Luật thi hành án hình sự cũng có những quy định khá cụ thể, rõ ràng về tố
cáo và giải quyết tố cáo trong thi hành án hình sự như quy định quyền tố cáo trong
thi hành án hình sự là quyền của con người chấp hành án và mọi công dân; quyền và
nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo….
16
- Xem thêm -