Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Theo dõi chấp hành pháp luật từ thực tiễn huyện quế sơn, tỉnh quảng nam...

Tài liệu Theo dõi chấp hành pháp luật từ thực tiễn huyện quế sơn, tỉnh quảng nam

.PDF
87
16
129

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN CÔNG HÙNG THEO DÕI CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN CÔNG HÙNG THEO DÕI CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM Chuyên ngành Mã số : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính : 8.38.01.02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. ĐỊNH NGỌC VƯỢNG HÀ NỘI, năm 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính về “Theo dõi chấp hành pháp luật từ thực tiễn huyện Quế Sơn, Tỉnh Quảng Nam” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả luận văn Nguyễn Công Hùng DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Viết tắt Viết đầy đủ HĐND Hội đồng nhân dân TD THPL Theo dõi thi hành pháp luật THPL Thi hành pháp luật UBND Ủy ban nhân dân UBTVQH Ủy ban Thường vụ Quốc hội VBQPPL Văn bản quy phạm pháp luật MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................... Error! Bookmark not defined. CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ THEO DÕI CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT ... 7 1.1. Nhận thức chung về theo dõi chấp hành pháp luật ................................... 7 1.2. Nội dung và hoạt động theo dõi chấp hành pháp luật ............................. 22 1.3. Các yếu tố tác động đến theo dõi chấp hành pháp luật ........................... 33 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THEO DÕI CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT Ở HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM ........................................... 40 2.1. Khái quát tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam ảnh hưởng đến theo dõi chấp hành pháp luật ............. 40 2.2. Hoạt động theo dõi chấp hành pháp luật ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam ............................................................................................................. 41 2.3. Nhận xét về theo dõi tình hình chấp hành pháp luật ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam ........................................................................................... 58 CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG THEO DÕI CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM ........................ 63 3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả hoạt động theo dõi chấp hành pháp luật từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam ....................................... 63 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động theo dõi chấp hành pháp luật từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam .................................................. 65 KẾT LUẬN ................................................................................................. 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chấp hành pháp luật, thi hành pháp luật là những hình thức quan trọng của thực hiện pháp luật. Hai nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đó là Xây dựng và tổ chức chấp hành pháp luật, đóng vai trò then chốt trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong bối cảnh Đảng và Nhà nước ta đang tập trung chỉ đạo tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thực thi pháp luật tạo sự liên thông giữa công tác xây dựng pháp luật và công tác tổ chức thi hành pháp luật, chấp hành pháp luật thì vai trò của công tác theo dõi chấp hành pháp luật càng trở nên quan trọng. Đây là một nhiệm vụ mới, có tính phức tạp, phạm vi rộng có liên quan đến tổ chức và hoạt động của tất cả các cơ quan, tổ chức từ trung ương đến địa phương. Vì vậy, để công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật được triển khai có hiệu quả, việc nghiên cứu, hoàn thiện thể chế về theo dõi thi hành pháp luật vẫn là yêu cầu cấp thiết. Ngày 05/3/2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 32/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 59/2012/NĐ-CP nhằm góp phần nâng cao hơn nữa nhận thức về tầm quan trọng của công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong việc quản lý Nhà nước và xã hội; khẳng định vị trí, vai trò của công tác này trong hoạt động của bộ máy Nhà nước ở cả trung ương và địa phương; từng bước củng cố, kiện toàn các cơ quan, tổ chức thực hiện nhiệm vụ theo dõi tình hình thi hành pháp luật; đảm bảo công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật là là một kênh thông tin nhạy bén trong việc đánh giá, phản biện đối với các chính sách. 3 Về tổ chức thực hiện theo dõi thi hành pháp luật, việc triển khai các hoạt động theo dõi thi hành pháp luật (đặc biệt là hoạt động kiểm tra tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng 1 tâm, liên ngành, kiểm tra công tác quản lý nhà nước về theo dõi thi hành pháp luật) ở nhiều bộ, ngành và địa phương vẫn còn mang tính hình thức, chưa thực sự phát huy vai trò, hiệu quả của công cụ kiểm soát quyền lực nhà nước; việc kiểm tra, xử lý kết quả theo dõi thi hành pháp luật đối với các vụ việc đột xuất hoặc theo chuyên đề chưa thực hiện đƣợc nhiều và chưa có hiệu ứng xã hội lan tỏa, việc phản ứng chính sách thông qua theo dõi tình hình thi hành pháp luật vẫn còn chậm, thụ động, đặc biệt việc xử lý các kiến nghị của Bộ Tư pháp tại báo cáo theo dõi tình hình thi hành pháp luật hằng năm vẫn chưa được các Bộ, ngành quan tâm xử lý triệt để; việc huy động sự tham gia của nhân dân, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội trong công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật chưa thực sự sâu rộng, chưa phát huy được đầy đủ sự tham gia và phản biện từ chính cộng đồng xã hội trong quá trình tổ chức thi hành pháp luật; theo dõi tình hình thi hành pháp luật chưa trở thành một kênh thông tin nhạy bén trong việc đánh giá, phản biện đối với các chính sách. Chính vì vậy, Đề tài "Theo dõi chấp hành pháp luật từ thự tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam" là Đề tài có tính cấp thiết. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài "Quản lý Nhà nước (QLNN) về công tác thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo (KNTC) ở Việt Nam hiện nay" do TS. Nguyễn Tuấn Khanh, Phó Viện trƣởng làm chủ nhiệm. Các tác giả tham gia nghiên cứu Đề tài đã đề ra mục tiêu mục tiêu của đề tài là nghiên cứu, hoàn thiện cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng và đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả QLNN về công tác thanh tra, giải quyết KN,TC trong bối cảnh thực hiện Chiến lược Phát triển ngành Thanh tra đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Đề tài cũng chỉ rõ được những ƣu điểm và kết quả đạt được, những hạn chế bất cập, nguyên nhân, vướng mắc nảy sinh trong thực tiễn QLNN về công tác thanh tra, giải quyết KN,TC cần tháo gỡ trong giai 4 đoạn 2011-2017. Các tác giả 2 cũng đề cập hoạt động theo dõi thi hành pháp luật của các cơ quan thanh tra. Bài viết của TS Nguyễn Tuấn Khanh "Một số vấn đề đặt ra đối với công tác theo dõi thi hành pháp luật từ thực tiễn ngành thanh tra" (http://truongcanbothanhtra.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc/nghien-cuu-traodoi/1964- mot-so-van-de-dat-ra-doi-voi-cong-tac-theo-doi-thi-hanh-phap- luat-tu-thuc-tiennganh-thanh-tra.html). Tac giả cho rằng cần có nhâṇ thưc thống nhất về nôị dung , mục đích, ý nghĩa của hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật . Măc ̣ dù công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật đã đươc ̣ thưc ̣ hiêṇ khá lâu . Tuy nhiên, hiêṇ chưa có sư giải thích thống nhất về nôị dung của hoaṭ động này nhằm bảo đảm không bi ̣trùng lăp ̣ vớ i các hoaṭ đôṇ g khác như hoaṭ đôṇ g thanh tra , kiểm tra, giám sát. Nên chăng, khi sửa đổi số Nghị định số 59/2012/NĐ-CP, cần có quy phaṃ giải thích rõ nội hàm hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật. "Để tăng cường QLNN về công tác thanh tra, giải quyết KN,TC đòi hỏi phải thực hiện rất nhiều biện pháp. Trong đó, quan trọng nhất là các giải pháp về nhận thức và hoàn thiện cơ sở pháp lý của lĩnh vực công tác này. Bên cạnh đó, các cơ quan QLNN và đặc biệt là các cơ quan thanh tra Nhà nước phải tiến hành các giải pháp nhằm thực hiện tốt chức năng QLNN của mình trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành. “Bàn về khái niệm thi hành pháp luật” của TS. Nguyễn Thị Hồi năm 2009 [39]đã tiếp cận THPL dưới bốn hình thức thực hiện pháp luật: Tuân theo pháp luật, THPL, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Và, việc phân chia các hình thức thực hiện pháp luật chỉ có tính chất tương đối, chủ yếu có ý nghĩa về mặt lý luận, trong thực tế các thuật ngữ tuân theo, thi hành, sử dụng và áp dụng pháp luật nhiều khi được dùng đồng nghĩa với nhau. “Mối quan hệ giữa xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật: Ý nghĩa thực tiễn” của Vũ Viết Thiệu năm 2007 [85]; “Thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước: Khái niệm, hiệu quả và sự tác động (ảnh hưởng) của hiệu quả tới xã hội” của 3 PGS. TS. Nguyễn Văn Động năm 2010 [31], theo các tác giả: Thực hiện pháp luật - xét 5 trong quy trình “quản lý nhà nước bằng pháp luật”, là sự tiếp nối xây dựng pháp luật, gồm toàn bộ các hoạt động nhằm đưa các quy phạm pháp luật vào đời sống nhà nước, xã hội và sinh hoạt của công dân và cần phải đánh giá, xác định được hiệu quả THPL trong đời sống xã hội, nhất là làm rõ sự tác động, ảnh hưởng của hiệu quả THPL của cơ quan nhà nước đối với xã hội. Các kết quả nghiên cứu này gởi mở cho đề tài luận án một số cơ sở lý luận để hệ thống, làm rõ cơ sở lý luận về TDTHPL và vận dụng một số nội dung đối với việc hoàn thiện điều chỉnh pháp luật về TDTHPL ở Việt Nam hiện nay. -Thi hành pháp luật tiếp cận ở phương diện quản lý Nhà nước Ở phương diện nghiên cứu này, các công trình nghiên cứu tập trung làm rõ và bàn sâu về trách nhiệm của Nhà nước và cơ chế đảm bảo THPL trong thực tế. Điều này dễ nhận thấy trong hầu hết trong các công trình nghiên cứu sau: Các cuốn sách: Thông tin khoa học pháp lý chuyên đề: “Chính quyền địa phương với việc bảo đảm thi hành hiến pháp và pháp luật” năm 2002 [89], “Thực trạng và nhu cầu phát triển, hoàn thiện các thiết chế lập pháp, thi hành pháp luật, điều ước quốc tế, giải quyết tranh chấp và bổ trợ tư pháp” năm 2003 [90] của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp. Trong 02 cuốn sách, các tác giả đã làm rõ những hạn chế, bất cập của bộ máy THPL ở trung ương, ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan đảm bảo THPL và xác định vai trò của chính quyền địa phương trong việc bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật là trực tiếp, cụ thể, thường xuyên và toàn diện nhất. Nghiên cứu này đã đặt ra một số gợi mở cho việc TDTHPL hiện nay như: Theo dõi cần tập trung vào các vấn đề: đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước; Năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức trong các thiết chế THPL; Ý thức pháp luật của Nhân dân… theo nguyên tắc:Việc gì, ở cấp nào có điều kiện và khả năng thực hiện 4 tốt nhất thì phân giao đầy đủ thẩm quyền (nhiệm vụ, quyền hạn) và đảm bảo những điều kiện cần thiết cho cấp đó giải quyết. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về theo dõi chấp hành pháp luật, tổng hợp và đánh giá thực tiễn theo dõi chấp hành pháp luật từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Trên cơ sở lý thuyết về theo dõi chấp hành pháp luật đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả theo dõi chấp hành pháp luật ở huyện Quế Sơn.. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận về theo dõi chấp hành pháp luật như khái niệm, nội dung, vai trò của các cơ quan của huyện Quế Sơn trong việc thực hiện theo dõi chấp hành pháp luật; những mặt đƣợc và chưa được trong công tác này. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu Những vấn đề lý luận, thực tiễn theo dõi chấp hành pháp luật; quy định của Hiến pháp và pháp luật về theo dõi chấp hành pháp luật; thực tiến công tác theo dõi chấp hành pháp luật tại huyện Quế Sơn. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Địa bàn huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam; Từ năm 2016, khi Chính phủ ban hành Nghị định 59/2012/NĐ-CP về theo dõi tình hình thi hành pháp luật cho đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận 5 Luận văn được thực hiện trên phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lenin, quan điểm của Đảng ta về pháp luật và thi hành pháp luật. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp được vận dụng để nghiên cứu Đề tài luận văn là: Phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê và luật học so sánh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn đối với các cơ quan nhà nước tại huyện Quế Sơn trong việc thực hiện nhiệm vụ theo dõi chấp hành pháp luật trên địa bàn huyện. 7. Kết cấu luận văn Kết cấu luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về theo dõi chấp hành pháp luật Chương 2: Thực trạng theo dõi chấp hành pháp luật ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động theo dõi chấp hành pháp luật ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam 6 CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN VỀ THEO DÕI CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT 1.1. Nhận thức chung về theo dõi chấp hành pháp luật 1.1.1. Quan niệm về chấp hành pháp luật Trước hết cần phải khẳng định rằng, chấp hành pháp luật và thi hành pháp luật là các hình thức thực hiện pháp luật. Chấp hành pháp luật là nhận lấy trách nhiệm để thực hành những điều mà pháp luật quy định. Chấp hành pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể thực hiện nghĩa vụ do pháp luật quy định cho mình bằng hành động tích cực. Ví dụ: Pháp luật quy định công dân nam từ 18 tuổi đến 25 tuổi phải làm nghĩa vụ quân sự. Một thanh nhiên trong hạn tuổi trên bằng hành vi của mình, không chờ ai nhắc nhở, chủ động đăng kí nhập ngũ, phục vụ trong quân đội đúng thời hạn quy định, tức là thanh niên đó đã chấp hành pháp luật. Nét đặc trưng tiêu biểu của chấp hành pháp luật, với tính cách là một trong những hình thức thực hiện pháp luật, là việc chấp hành quy định pháp luật đối với chủ thể pháp luật là việc phải làm, dù muốn hay không muốn. Cùng với tuân thủ pháp luật với tính cách là một hình thức thực hiện pháp luật, chấp hành pháp luật có tầm quan trọng to lớn trong việc xác lập một trật tự pháp luật bền vững trong đời sống của xã hội. Tuân thủ pháp luật cũng là một trong những hình thức thực hiện pháp luật. Tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật có chủ thể là mọi cá nhân, cơ quan tổ chức. Áp dụng pháp luật là hình thức của thực hiện pháp luật mà chủ thể chỉ là các cá nhân có thẩm quyền, cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 7 Trước khi nói về thi hành pháp luật, cũng cần phải nhấn mạnh các hình thức thực hiện pháp luật. Tuân thủ pháp luật là chủ thể pháp luật kiềm chế mình để không thực hiện điều pháp luật cấm. Tuân thủ pháp luật mang tính bắt buộc thực hiện. Bản chất của tuân thủ pháp luật có tính chất thụ động và thể hiện dưới dạng hành vi không hành động. Đối tượng thực hiện tuân thủ pháp luật là mọi chủ thể. Hình thức thể hiện của tuân thủ pháp luật thường thể hiện dưới dạng những quy định cấm đoán. Tức quy phạm không bắt buộc chủ thể không được thực hiện những hành vi nhất định. Ví dụ: Pháp luật cấm hành vi mua bán dâm. Do đó, không thực hiện hành vi mua bán dâm được xem là tuân thủ pháp luật. Áp dụng pháp luật là việc người có chức vụ, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện quyền hoặc nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Áp dụng pháp luật mang tính bắt buộc thực hiện. Bản chất của áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước, được thể hiện dưới hình thức hành vi hành động và hành vi không hành động. Đối tượng thực hiện: Chỉ có những người có chức vụ, có thẩm quyền, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Hình thức thể hiện áp dụng pháp luật là các loại quy phạm. Bởi Nhà nước quyền hạn và nghĩa vụ tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện pháp luật. Ví dụ: Khi bên A khởi kiện bên B, tòa án có trách nhiệm xem xét và thụ lý đơn khởi kiện của bên A. Sử dụng pháp luật là chủ thể pháp luật thực hiện điều mà pháp luật cho phép. Không mang tính bắt buộc thực hiện và phụ thuộc vào ý chí, sự lựa chọn của từng chủ thể. Bản chất của sử dụng pháp luật có thể là hành vi hành động hoặc hành vi không hành động tùy vào quy định của pháp luật. Đối 8 tượng thực hiện sử dụng pháp luật là mọi chủ thể. Hình thức thể hiện: Thường được thể hiện dưới những quy phạm trao quyền, tức pháp luật quy định về quyền hạn của các chủ thể. Ví dụ: Khi bên A cho rằng mình bị xâm quyền và lợi ích hợp pháp bởi bên B. Bên A có quyền khởi kiện B ra tòa án, vì pháp luật trao cho A quyền được khởi kiện B ra tòa án có thẩm quyền. Khi đó, A được xem là đang sử dụng pháp luật. Trong khoa học pháp lý và thực tiễn pháp luật ở Việt Nam, khái niệm “thi hành pháp luật” được giải thích theo nhiều nghĩa khác nhau. Thi hành pháp luật là việc chủ thể pháp luật chủ động thực hiện điều pháp luật yêu cầu. Thi hanh pháp luật mang tính bắt buộc thực hiện. Bản chất của thi hành pháp luật có tính chủ động, tích cực, thực hiện pháp luật dưới hình thức hành vi hành động. Thi hành pháp luật mang tính chủ động thực hiện điều luật pháp yêu cầu. Đối tượng thực hiện thi hành pháp luật là mọi chủ thể. Hình thức thể hiện của thi hành pháp luật thường thể hiện dưới dạng những quy phạm bắt buộc. Do đó, chủ thể buộc phải thực hiện hành vi hành động mang tính hợp pháp. Ví dụ, pháp luật quy định về nghĩa vụ đóng thuế thu nhập doanh nghiệp/thuế thu nhập cá nhân. Do đó, nếu không thuộc đối tượng được miễn thuế, chủ thể đóng đầy đủ khoản thuế được coi là đang thi hành pháp luật. Theo quan điểm thứ nhất được thể hiện trong các giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật của một số cơ sở đào tạo luật như Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội…thường cho rằng “thi hành pháp luật” (hoặc “chấp hành pháp luật”) chỉ là một trong bốn hình thức “thực hiện pháp luật”. Theo đó, thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật thông qua bốn hình thức: Tuân theo (tuân thủ) pháp luật, thi hành (chấp hành) pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng 9 pháp luật. Theo quan điểm này, thi hành pháp luật là hình thức thông qua đó nghĩa vụ pháp lý của chủ thể pháp luật được hiện thực hóa bằng hành động tích cực của chủ thể này. Đối với quan điểm này PGS, TS Nguyễn Văn Mạnh nhận xét: “Việc phân chia các hình thức thực hiện pháp luật như vậy không làm rõ được mối quan hệ, tính liên thông của các hình thức thực hiện pháp luật. Chẳng hạn, các cơ quan nhà nước sử dụng pháp luật thì không thể tách rời với áp dụng pháp luật và tuân thủ pháp luật. Hạn chế này do sai lầm về mặt phương pháp luận, đem phương pháp siêu hình thay cho phương pháp biện chứng, không thấy được mối liên hệ chặt chẽ giữa các hình thức đó” [18-8]. Quan điểm thứ hai, thi hành pháp luật được hiểu là mọi hoạt động nhằm đưa pháp luật vào cuộc sống, biến quy định của pháp luật trở thành hành vi của các chủ thể. Quá trình này gắn liền và là sự tiếp nối của quá trình xây dựng pháp luật.[20]. Theo quan điểm này, thi hành pháp luật với thực hiện pháp luật là đồng nhất với nhau, đây đều là những hoạt động có mục đích của các chủ thể nhằm biến những quy định của pháp luật thành hoạt động thực tế của mình. Quan điểm này đã được thể chế hóa trong nội dung các bản Hiến pháp qua các thời kỳ như: + Điều 96, Điều 98, Điều 99, Điều 100, Điều 112, Điều 114 Hiến pháp năm 2013 quy định: Chính phủ “tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước”, Thủ tướng Chính phủ có nhiệm vụ “tổ chức thi hành pháp luật”, “Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng... ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật”, Bộ trưởng “chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân công; tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến 10 ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc”, “Chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương”, “Ủy ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương”. + Khoản 2 Điều 112, Điều 115 Hiến pháp năm 1992 quy định: Chính phủ có trách nhiệm “bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật”, Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền “Căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, Chính phủ ra nghị quyết, nghị định, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó”. + Điều 52, Điều 59 Hiến pháp năm 1946 quy định: Chính phủ có quyền “thi hành các đạo luật và quyết nghị của Nghị viện”, Ủy ban hành chính có trách nhiệm “thi hành các mệnh lệnh của cấp trên”. Như vậy, đối với các cơ quan nhà nước THPL trong trường hợp này là hình thức để nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, là quá trình hoạt động có mục đích, có ý chí, có lý trí của các cơ quan nhà nước và những người có trách nhiệm, quyền hạn để pháp luật đi vào cuộc sống; với các cá nhân và tổ chức khác thì THPL là việc họ sử dụng quyền và làm nghĩa vụ pháp lý của mình. Với tư cách là một thực thể tự nhiên, đồng thời là một thực thể xã hội, con người vừa là chủ thể, vừa là đối tượng tác động của các quan hệ xã hội. Và xã hội cũng chỉ tồn tại và phát triển dựa trên sự giao tiếp giữa người và người bằng ngôn ngữ. Vì vậy, cần xem xét quan niệm về thi hành pháp luật dưới cả góc độ về ngôn ngữ. Theo từ điển Luật học định nghĩa: “thi hành pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật một cách chủ động. Chủ thể pháp luật phải thực hiện một thao tác nhất định mới có thể thực hiện pháp luật được” [17, tr 758]. Như vậy, dưới góc độ ngôn ngữ khái niệm thi hành pháp luật cũng được hiểu là 11 một trong những hình thực thực hiện pháp luật, tuy nhiên khái niệm khác với quan điểm trên bởi với hình thức thực hiện pháp luật này chủ thể không phải chỉ thực hiện nghĩa vụ bằng hành vi tích cực mà hành động thực hiện pháp luật ở đây có thể là thực hiện quyền hoặc nghĩa vụ, vậy thi hành pháp luật lúc này nó vừa là hình thức chấp hành pháp luật, vừa là sử dụng pháp luật trong khoa học pháp lý. Trên cơ sở kế thừa các quan điểm trên, dưới góc độ ngôn ngữ và khoa học pháp lý, có thể hiểu thi hành pháp luật là hành vi hợp pháp của chủ thể pháp luật trong quá trình hiện thực hóa hoặc đảm bảo hiệu lực pháp lý của các quy phạm pháp luật trong đời sống. 1.1.2. Quan niệm về theo dõi chấp hành pháp luật Khi chúng ta nói về theo dõi chấp hành pháp luật, cũng là nói về hình thức thực hiện pháp luật, hiểu theo nghĩa rộng hơn là theo dõi thi hành pháp luật. Tuy nhiên, khái niệm CHPL được hiểu theo nghĩa hẹp hơn so với khái niệm THPL. Khái niệm về THPL còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, vì vậy đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có một tài liệu nào đưa ra khái niệm TDTHPL một cách chính xác, cụ thể. Do đó, có thể hiểu khái niệm TDTHPL thông qua phân tích về mặt từ ngữ như sau: “Theo dõi” là việc quan sát, kiểm tra từng diễn biến, từng hoạt động để biết rõ hoặc có sự ứng phó, xử lý kịp thời. “Thi hành pháp luật” là làm các quy phạm do nhà nước ban hành có hiệu lực nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, bảo vệ trật tự xã hội. [37, tr 1458, 1515,1201]. Như vậy, theo dõi thi hành pháp luật là hoạt động xem xét, xử lý kịp thời những chuyển biến của toàn bộ quá trình đưa pháp luật vào đời sống nhằm đảm bảo hiệu lực của các quy định pháp luật. Hiện nay quan điểm cơ bản về TDTHPL ở Việt Nam được chia làm ba nhóm cơ bản sau đây: 12 Quan điểm thứ nhất cho rằng TDTHPL là việc cơ quan có thẩm quyền xem xét, đánh giá thực trạng thi hành pháp luật, mức độ đạt mục tiêu đặt ra và kiến nghị thực hiện các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật. [4, tr.365-366]. Với cách tiếp cận này, trong hoạt động TDTHPL các cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành thu thập thông tin một cách có hệ thống, sau đó phân tích, so sánh giữa thực tế đạt được so với mục tiêu đề ra và chỉ ra sự tác động của quy định pháp luật cùng với những tồn tại, bất cập và nguyên nhân của những tồn tại, bất cập để có những kiến nghị sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với mục tiêu mong muốn. Quan điểm này có ý nghĩa trong việc tạo ra khả năng tìm kiếm các giải pháp trên nhiều hướng khác nhau để đưa pháp luật đi vào cuộc sống. Tuy nhiên, hạn chế của quan điểm này tồn tại ở chỗ: TDTHPL là việc của cơ quan hành chính nhà nước nên dẫn đến thực trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, vì vậy khái niệm TDTHPL đã bị thu hẹp phạm vi nằm trong giới hạn của quản lý hành chính, chưa phân định rõ chức năng quản lý nhà nước với chức năng bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân. Do đó, việc xác định các thành tố hợp thành của TDTHPL gặp những vướng mắc nhất định. Quan điểm thứ hai cho rằng TDTHPL là một công cụ quản lý nhà nước qua đó giúp cho người quản lý tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi: Năng lực thực hiện có đảm bảo và phù hợp không; Nguồn lực có đủ và có được sử dụng tốt hay không; [38138, tr. 42-43], [16, tr. 80 - 88]. Quan điểm này đã chú trọng đến tầm ảnh hưởng của chủ thể quản lý nhà nước đối với việc tổ chức, thực hiện pháp luật và yêu cầu tối ưu hoạt động THPL trong thực tiễn. Tuy nhiên, quan điểm này có mâu thuẫn khi quá đề cao vai trò của Nhà nước, chưa tính đến tính tích cực của các chủ thể pháp luật khác, dẫn tới khó khăn 13 khi giải quyết những vấn đề có tính thống nhất và toàn diện của hoạt động TDTHPL. Quan điểm thứ ba cho rằng TDTHPL là hoạt động chủ yếu của cơ quan hành chính nhà nước có sự tham gia của các tổ chức, cá nhân nhằm xem xét, đánh giá thực trạng thi hành pháp luật về tổ chức thực hiện, điều kiện bảo đảm, tình hình tuân thủ pháp luật nhằm kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật [7: Điều 3, Điều 7]. Quan điểm này giúp cho khoảng cách giữa pháp luật trên giấy và pháp luật trong cuộc sống ngày càng thu nhỏ lại, đồng thời phản ánh sát thực đời sống xã hội, tạo cơ sở cho việc tiếp cận và giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý khác để đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của pháp luật. Tuy nhiên, quan điểm này cũng dừng lại ở việc khẳng định TDTHPL là hoạt động chủ yếu của các cơ quan hành chính nhà nước còn cá nhân, tổ chức chỉ có vai trò phối hợp thì chưa toàn diện, bởi trong quá trình thi hành pháp luật luôn có sự tương tác giữa Nhà nước, công dân và các thành viên khác trong xã hội nhằm làm sáng tỏ những quy phạm pháp luật không hoàn thiện, không hiệu quả để kiến nghị, đề xuất hoàn thiện quy phạm pháp luật và hoàn thiện hoạt động thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước. Tổng hợp những quan điểm và phân tích trên, có thể hiểu khái niệm theo dõi thi hành pháp luật một cách toàn diện nhất: TDTHPL là hoạt động của cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân nhằm thu thập thông tin, xem xét, đánh giá thực trạng thi hành pháp luật trong thực tế để kịp thời hoàn thiện quy phạm pháp luật và hoàn thiện hoạt động thi hành pháp luật, đảm bảo pháp luật được thi hành hiệu quả, phục vụ tốt nhất cho sự phát triển của con người, sự bền vững của quốc gia, dân tộc. Hiện nay, công tác theo dõi thi hành pháp luật đang tồn tại đồng thời với một số hoạt động khác như thanh tra nhà nước, giám sát, kiểm tra THPL. 14 Các hoạt động này có một số điểm khác biệt và tương đồng với hoạt động TDTHPL. Theo điều 1 và điều 3 Luật Thanh tra năm 2010 quy định “ Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành”. Như vậy, thanh tra là xem xét từ bên ngoài vào hoạt động của một đối tượng nhất định nhằm phát hiện, ngăn chặn những hành vi trái quy định của pháp luật. Thanh tra là hoạt động kiểm tra của cơ quan nhà nước cấp trên đối với cơ quan nhà nước cấp dưới. Bên cạnh đó thanh tra gắn liền với quản lý nhà nước được thực hiện bởi cơ quan chuyên trách theo một trình tự, thủ tục luật định để đánh giá, xem xét, xử lý việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015: “Là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý”. Như vậy, nếu thanh tra là sự xem xét của cơ quan nhà nước cấp trên đối với cơ quan nhà nước cấp dưới thì giám sát là hoạt động xem xét, đánh giá của chủ thể bên ngoài hệ thống đối với chủ thể được giám sát, giữa chủ thể giám sát và chủ thể bị giám sát không có mối quan hệ trực thuộc lẫn nhau. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan